intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tác động của công nghệ tài chính, tài chính toàn diện và mức độ phát triển tài chính đến bất bình đẳng thu nhập tại các quốc gia trên thế giới

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

7
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu từ 157 quốc gia trong giai đoạn 2011- 2022, được chia thành các nhóm quốc gia phát triển, đang phát triển và kém phát triển, nhằm tìm ra mối quan hệ giữa công nghệ tài chính, tài chính toàn diện và mức độ phát triển tài chính đến bất bình đẳng thu nhập tại các nhóm quốc gia này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tác động của công nghệ tài chính, tài chính toàn diện và mức độ phát triển tài chính đến bất bình đẳng thu nhập tại các quốc gia trên thế giới

  1. Tác động của công nghệ tài chính, tài chính toàn diện và mức độ phát triển tài chính đến bất bình đẳng thu nhập tại các quốc gia trên thế giới Phạm Tiến Mạnh1, Nguyễn Ngọc Hà2 Học viện Ngân hàng, Việt Nam1,2 Ngày nhận: 24/5/2024 Ngày nhận bản sửa: 12/06/2024 Ngày duyệt đăng: 14/06/2024 Tóm tắt: Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu từ 157 quốc gia trong giai đoạn 2011- 2022, được chia thành các nhóm quốc gia phát triển, đang phát triển và kém phát triển, nhằm tìm ra mối quan hệ giữa công nghệ tài chính, tài chính toàn diện và mức độ phát triển tài chính đến bất bình đẳng thu nhập tại các nhóm quốc gia này. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng với ba mô hình ước lượng OLS, FEM và REM, sau đó sử dụng kiểm định F, Breusch-Pagan Lagrangian và Hausman để lựa chọn mô hình phù hợp. Để kiểm tra tính vững của mô hình, nghiên cứu thực hiện các kiểm định Wald, Wooldridge, sau cùng là hiệu chỉnh mô hình GLS nếu tồn tại hạn chế của mô hình. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tại The impact of financial technology, financial inclusion and the level of financial development on income inequality in countries around the world Abstract: This research uses data from 157 countries in the period 2011-2022, divided into developed, developing and underdeveloped country groups, to find out the relationship between financial technology , financial inclusion and the level of financial development to income inequality in these country groups. This research uses panel data with three estimation models OLS, FEM and REM, then use F test, Breusch-Pagan Lagrangian and Hausman test to select the appropriate model. To check the robustness of the model, the research performed the Wald and Wooldridge tests, and finally adjusted the GLS model if defects existed Research results show that, in developed countries, income inequality is strongly affected by the level of financial development, financial technology and financial inclusion. For the group of developing countries, financial development, saving at financial institutions significantly impact on income inequality. Meanwhile, in underdeveloped countries, there are two factors of financial inclusion including the proportion of people with accounts at financial institutions and the proportion of people borrowing from official financial institutions significantly influence on income inequality. Keywords: Financial technology, Financial inclusion, Level of financial development, Income inequality Doi: 10.59276/JELB.2024.06.2749 Pham, Tien Manh1, Nguyen, Ngoc Ha2 Email: manhpham@hvnh.edu.vn1, nguyenngocha.2808@gmail.com2 Organization of all: Banking Academy of Vietnam © Học viện Ngân hàng Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng ISSN 3030 - 4199 79 Số 265- Năm thứ 26 (6)- Tháng 6. 2024
  2. Tác động của công nghệ tài chính, tài chính toàn diện và mức độ phát triển tài chính đến bất bình đẳng thu nhập tại các quốc gia trên thế giới các quốc gia phát triển, bất bình đẳng thu nhập bị tác động mạnh bởi mức độ phát triển tài chính, công nghệ tài chính và tài chính toàn diện. Với nhóm các quốc gia đang phát triển, chỉ có yếu tố mức độ phát triển tài chính, tỷ lệ người dân tiết kiệm tại các tổ chức tài chính; trong khi đó, tại các quốc gia kém phát triển, có 2 yếu tố thuộc tài chính toàn diện là tỷ lệ người dân có tài khoản tại các tổ chức tài chính và tỷ lệ người dân vay từ tổ chức tài chính chính thức là có tác động. Từ đây, bài nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm thu hẹp tình trạng bất bình đẳng thu nhập tại các quốc gia trên thế giới. Từ khóa: Công nghệ tài chính, Tài chính toàn diện, Mức độ phát triển tài chính, Bất bình đẳng thu nhập 1. Giới thiệu cho các tầng lớp người lao động, hay nghiên cứu của Brei và các cộng sự (2023), Seven Theo OECD (2011) và Word Bank (2009), và Coskun (2016) cho rằng tài chính toàn bất bình đẳng thu nhập có liên quan chặt diện, mức độ phát triển tài chính có tác động chẽ đến phân phối thu nhập, một trong bốn lớn đến bất bình đẳng thu nhập. khâu quan trọng của quá trình sản xuất và Các công trình nghiên cứu thực nghiệm trên tái sản xuất xã hội, đó là sản xuất, phân thế giới cũng như ở Việt Nam cũng đã tìm phối, trao đổi và tiêu dùng. Bất bình đẳng hiểu về mối quan hệ giữa công nghệ tài chính thu nhập là tình trạng hầu hết người dân tài chính toàn diện, phát triển tài chính và sống dưới mức thu nhập trung bình, trong bất bình đẳng thu nhập, tuy nhiên các nghiên khi chỉ có một bộ phận nhỏ dân số có thu cứu này có mẫu dữ liệu chưa đầy đủ, phạm nhập tương đối cao trong một quốc gia hay vi nghiên cứu còn hạn chế. Các nghiên cứu vùng lãnh thổ (Kuznet, 1955). Cùng quan định lượng về mối quan hệ giữa công nghệ điểm trên, Priester và Mendelson (2015) tài chính, tài chính toàn diện và bất bình cho rằng, bất bình đẳng thu nhập là mức độ đẳng về thu nhập chủ yếu áp dụng mô hình thu nhập được phân phối không đồng đều hồi quy OLS. Các hồi quy khác ngoài OLS giữa một nhóm dân cư. như: hồi quy tác động ngẫu nhiên (REM), Có nhiều yếu tố tác động đến bất bình đẳng hồi quy tác động cố định (FEM) hầu như thu nhập tại một quốc gia như giáo dục chưa được sử dụng trong nghiên cứu mối (Neaime và Gaysset, 2018), Awan và các quan hệ giữa công nghệ tài chính , tài chính cộng sự (2011); chi tiêu cuối cùng của chính toàn diện, mức độ phát triển tài chính và bất phủ (Girma và Huseynov, 2023), Demir và bình đẳng về thu nhập. cộng sự (2022), tăng trưởng dân số (Girma Nhằm bổ sung thêm cơ sở lý luận về những và Huseynov, 2023), độ mở thương mại, yếu tố tác động đến bất bình đẳng thu nhập tăng trưởng kinh tế, sự phát triển của công tại các quốc gia trên thế giới, nghiên cứu nghệ tài chính, mức độ phát triển tài chính và này tập trung xem xét tác động của công tài chính toàn diện (Demir và cộng sự, 2022), nghệ tài chính, tài chính toàn diện và mức Ashenafi và Dong (2022). Nghiên cứu của độ phát triển tài chính đến bất bình đẳng Aker và Mbiti (2010) cho thấy, sự phát triển thu nhập, được thực hiện kiểm định tại 3 của công nghệ tài chính sẽ giúp thu hẹp bất nhóm quốc gia trên thế giới, đó là nhóm bình đẳng thu nhập thông qua tạo ra việc làm quốc gia phát triển, nhóm quốc gia đang 80 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 265- Năm thứ 26 (6)- Tháng 6. 2024
  3. PHẠM TIẾN MẠNH - NGUYỄN NGỌC HÀ phát triển và nhóm quốc gia kém phát triển, đám mây, tiền mã hóa, công ty chuyên biệt với dữ liệu được thu thập trong giai đoạn về truyền thông xã hội… (3) các tổ chức, 2011-2022 của 157 quốc gia trên thế giới. định chế tài chính truyền thống, như công Nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng với ba ty tài chính, công ty chứng khoán, ngân mô hình ước lượng OLS, FEM và REM, hàng, bảo hiểm… (4) chính phủ và các cơ sau đó sử dụng các kiểm định F, Breusch- quan quản lý, và (5) khách hàng sử dụng Pagan Lagrangian và Hausman để lựa chọn dịch vụ tài chính. mô hình phù hợp nhất. Để kiểm tra tính Aker và Mbiti (2010) cho rằng, công nghệ vững của mô hình, nghiên cứu thực hiện tài chính có thể tạo ra việc làm mới, cơ các kiểm định phương sai thay đổi và tự hội tạo thu nhập cho người nghèo, giúp tương quan. Cuối cùng là hiệu chỉnh mô cải thiện việc thu thuế và các dịch vụ của hình GLS nếu tồn tại khuyết tật. Cấu trúc chính phủ, đồng thời giảm tham nhũng. bài nghiên cứu bao gồm 5 phần, đó là: giới Asongu và Le Roux (2017) nghiên cứu về thiệu, tổng quan nghiên cứu và giả thuyết công nghệ thông tin và truyền thông ở 49 nghiên cứu, dữ liệu và phương pháp nghiên quốc gia ở Châu Phi cận Sahara trong giai cứu, kết quả nghiên cứu và bàn luận, cuối đoạn 2000-2012, nhận thấy rằng sự xuất cùng là phần kết luận và khuyến nghị. hiện của điện thoại di động, internet có tác động tích cực đến tăng trưởng toàn diện, 2. Tổng quan nghiên cứu và giả thuyết được đo lượng bằng chỉ số phát triển con nghiên cứu người và được điều chỉnh theo mức độ bất bình đẳng. Zhang và các cộng sự (2018) 2.1. Công nghệ tài chính cho rằng, công nghệ tài chính làm giảm khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và Công nghệ tài chính được hiểu là sự kết thành thị, bởi mức độ khác biệt về tiếp cận hợp giữa tài chính và công nghệ (Arner và thông tin trong nền kinh tế sẽ được rút ngắn các cộng sự, 2015), mô tả các hoạt động lại. Cùng quan điểm trên, Hodula (2023) của công nghệ được áp dụng trong các kết luận rằng công nghệ tài chính sẽ làm doanh nghiệp hoặc tổ chức, trong đó chủ giảm bất bình đẳng thu nhập, nhưng hiệu yếu đề cập đến việc cải thiện chất lượng quả mạnh mẽ nhất ở các quốc gia có mức dịch vụ bằng cách sử dụng các ứng dụng độ tiếp cận tài chính cao hơn. Suri và Jack công nghệ thông tin (Gai và các cộng sự, (2016) nghiên cứu tại Kenya và nhận thấy, 2018). Navaretti và các cộng sự (2018) một trong những dạng của công nghệ tài đưa ra các lĩnh vực mà công nghệ tài chính chính là tiền di động đã giúp 2% hộ gia thường được áp dụng, đó là dịch vụ tín đình ở quốc gia này thoát nghèo và tăng dụng, tiền gửi và huy động vốn; dịch vụ mức tiêu dùng bình quân đầu người. Demir thanh toán, bù trừ và quyết toán, bao gồm và các cộng sự (2022) sử dụng dữ liệu khảo cả tiền kỹ thuật số; dịch vụ quản lý đầu tư, sát toàn cầu từ Finex tại các năm 2011, 2014 bao gồm cả thương mại và bảo hiểm. Trong và 2017 để phân tích mối tương quan giữa khi đó, để tạo thành hệ sinh thái công nghệ công nghệ tài chính, tài chính toàn diện và tài chính, Diemer và các cộng sự (2015) bất bình đẳng thu nhập tại 140 quốc gia và đưa ra 5 yếu tố, đó là: (1) Các công ty khởi vùng lãnh thổ. Kết quả nghiên cứu cho thấy nghiệp trong lĩnh vực công nghệ tài chính; công nghệ tài chính ảnh hưởng trực tiếp và (2) Các công ty phát triển công nghệ, như gián tiếp đến bất bình đẳng thu nhập thông các công ty phân tích dữ liệu lớn, điện toán qua tài chính toàn diện. Ashenafi và Dong Số 265- Năm thứ 26 (6)- Tháng 6. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng 81
  4. Tác động của công nghệ tài chính, tài chính toàn diện và mức độ phát triển tài chính đến bất bình đẳng thu nhập tại các quốc gia trên thế giới (2022) sử dụng tiêu chí thanh toán kỹ thuật đẳng thu nhập khi tập trung vào việc tăng số được thực hiện bởi những người có độ khả năng tiếp cận các điều kiện tài chính tuổi từ 15 trở lên như là tiêu chí đo lường cho người nghèo; tuy nhiên nhóm tác giả công nghệ tài chính tại 39 quốc gia Châu cũng lưu ý rằng nên đưa ra các chính sách Phi, cho thấy công nghệ tài chính làm giảm theo hướng nới lỏng các hạn chế vay mượn bất bình đẳng thu nhập tại các quốc gia trong giai đoạn đầu, sau đó siết chặt dần này. Từ các cơ sở lý thuyết trên, nhóm tác điều kiện cho vay khi mức độ bất bình đẳng giả đưa ra giả thuyết nghiên cứu: thu nhập giảm đi. Phạm và các cộng sự H1: Công nghệ tài chính có mối quan hệ (2022) nghiên cứu tác động của tài chính ngược chiều đến bất bình đẳng thu nhập toàn diện đến bất bình đẳng thu nhập tại Châu Âu giai đoạn 2011-2017, kết quả 2.2. Tài chính toàn diện cho thấy tỷ lệ dân số từ 25 tuổi trở lên tốt nghiệp trung học, độ mở của nền kinh tế Tài chính toàn diện là quá trình đảm bảo có tác động ngược chiều đến bất bình đẳng quyền tiếp cận các dịch vụ tài chính đầy thu nhập, trong khi đó tỷ lệ việc làm trên đủ, kịp thời cho các nhóm dễ bị tổn thương tổng số dân có tác động trực tiếp đến bất như các nhóm người có thu nhập thấp, với bình đẳng thu nhập tại các quốc gia này. chi phí phải chăng nhưng phải công bằng Trong khi đó, Brei và các cộng sự (2023) và minh bạch (Rangarajan, 2008; Kochhar, cho rằng tăng tài chính toàn diện trong nền 2009). Trong khi đó, World Bank (2018) kinh tế có thể làm giảm bất bình đẳng thu cho rằng, tài chính toàn diện có nghĩa các nhập ở một mức độ nhất định, tuy nhiên cá nhân và doanh nghiệp có quyền truy cập việc tăng trưởng tài chính dựa trên các hình vào các sản phẩm, dịch vụ tài chính hữu thức trợ cấp trong dài hạn có thể làm gia ích với giá cả phải chăng nhằm đáp ứng tăng bất bình đẳng thu nhập, trong khi việc nhu cầu của họ như giao dịch, thanh toán, tăng lượng tiền thông qua hệ thống ngân tiết kiệm, tín dụng, bảo hiểm, đồng thời hàng lại không có tác động như vậy. Từ được cung cấp các dịch vụ này một cách đây, nhóm tác giả đưa ra giả thuyết nghiên có trách nhiệm và bền vững. Như vậy, tài cứu thứ hai: chính toàn diện có tính chất đa chiều, mang H2: Tài chính toàn diện có mối quan hệ đến cho người dân các dịch vụ tài chính ngược chiều đến bất bình đẳng thu nhập chất lượng một cách thuận tiện, mở rộng khả năng tiếp cận cho tất cả các tầng lớp 2.3. Mức độ phát triển tài chính dân cư, đặc biệt là tầng lớp dân cư có thu nhập thấp, tạo cơ hội đồng đều và hạn chế Mức độ phát triển tài chính được hiểu là sự bất bình đẳng trong nền kinh tế. cải thiện của hệ thống tài chính trong việc Mookerjee và Kalipioni (2010) chỉ ra rằng thực hiện các chức năng, bao gồm (1) tích việc tiếp cận nhiều hơn với các dịch vụ lũy, tiết kiệm; (2) phân bổ nguồn vốn cho ngân hàng sẽ làm giảm đáng kể khoảng đầu tư sản xuất; (3) giám sát các khoản đầu cách về bất bình đẳng thu nhập giữa các tư; (4) phân tán rủi ro; (5) trao đổi hàng quốc gia, điều này có nghĩa các rào rản hóa và dịch vụ (Levine, 2005). Tương tự, với tiếp cận hệ thống ngân hàng sẽ làm gia World Bank (2012) cho rằng, mức độ phát tăng bất bình đẳng thu nhập. Dabla-Norris triển tài chính là sự cải thiện về chất lượng và các cộng sự (2015) cũng cho rằng tài trong 5 chức năng của hệ thống tài chính, chính toàn diện có thể giúp giảm bất bình đó là (1) cung cấp thông tin về các khoản 82 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 265- Năm thứ 26 (6)- Tháng 6. 2024
  5. PHẠM TIẾN MẠNH - NGUYỄN NGỌC HÀ đầu tư được dự kiến trước và phân bổ vốn; Dữ liệu nghiên cứu được khai thác từ cơ sở (2) giám sát các khoản đầu tư và thực hiện dữ liệu của World Bank Data, cơ sở dữ liệu quản trị doanh nghiệp sau tài trợ; (3) tạo về bất bình đẳng thu nhập thế giới được điều kiện cho giao dịch, đa dạng hóa và tiêu chuẩn hóa (SWIID), Quỹ tiền tệ quốc quản lý rủi ro; (4) huy động và tiết kiệm tế (IMF). Trong tổng số 217 quốc gia trên nguồn vốn; (5) nơi lỏng giao dịch mua bán thế giới được thu thập dữ liệu, có một số hàng hóa và dịch vụ. Để đo lường mức độ nước không tham gia vào các khảo sát về phát triển tài chính, có thể sử dụng các chỉ đánh giá mức độ phát triển tài chính, công tiêu như độ sâu tài chính, quy mô, khả năng nghệ tài chính, hoặc không có đầy đủ dữ tiếp cận và sự vững mạnh của hệ thống tài liệu về tài chính toàn diện, do đó nhóm tác chính, hay đo bằng tín dụng tư nhân trên giả đã loại bỏ các quốc gia này. Sau cùng, GDP (Javid và Sharif, 2016); hoặc tín dụng còn lại dữ liệu từ 157 quốc gia trên thế trong nước và tiền gửi ngân hàng trên GDP giới được sử dụng dữ liệu thực hiện trong (Tita và Mashamba, 2021). nghiên cứu này, với thời gian nghiên cứu Kim và Lin (2011) nhận thấy mức độ phát trong giai đoạn 2011-2022, bao gồm 39 triển tài chính, dựa trên kênh ngân hàng quốc gia phát triển (nhóm 1), 84 quốc gia và thị trường chứng khoán sẽ giúp ích rất đang phát triển (nhóm 2) và 34 quốc gia nhiều cho người nghèo và giảm bất bình chậm phát triển (nhóm 3). Sau đó, các bước đẳng thu nhập khi quốc gia đó đạt đến mức xử lý dữ liệu nghiên cứu được thực hiện độ phát triển tài chính nhất định; trong khi trên phần mềm Stata 17 để tìm ra tác động dưới ngưỡng phát triển đó, sự phát triển của biến giải thích đến biến phụ thuộc. tài chính sẽ gây tổn hại cho người nghèo và tác động tiêu cực đến sự phân phối thu 3.2. Phương pháp nghiên cứu nhập. Seven và Coskun (2016) nghiên cứu về đóng góp của khu vực ngân hàng và thị Dựa trên các nghiên cứu về các yếu tố tác trường cổ phiếu đến giảm bất bình đẳng động đến bất bình đẳng thu nhập (IN) của thu nhập và nghèo đói tại 45 quốc gia đang Demir và các cộng sự (2022), Ashenafi và phát triển, giai đoạn 1987-2011; kết quả Dong (2022) như công nghệ tài chính (FT), nghiên cứu cho thấy mức độ phát triển tài mức độ phát triển tài chính (FD), tài chính chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, song toàn diện (FI), giáo dục (ED), chính sách không mang lại lợi ích cần thiết cho người tái phân phối (RP), tốc độ tăng trưởng dân thu nhập thấp tại các quốc gia này, trong số (PO), độ mở thương mại (TRADE) và đó sự phát triển của hệ thống ngân hàng tốc độ tăng trưởng kinh tế (EG), mô hình có tác động lớn hơn sự phát triển của thị hồi quy đề xuất như sau: trường cổ phiếu đến bất bình đẳng thu nhập INi,t = β0 + β1FTi,t + β2FDi,t + β3∑FIi,t + và nghèo đói. Từ đây, nhóm tác giả phát β4EDi,t + β5RPi,t + β6POi,t + β7TRADEi,t triển giả thuyết nghiên cứu như sau: + β8EGi,t + εi,t H3: Mức độ phát triển tài chính có mối Trong đó, chi tiết các biến nghiên cứu được quan hệ ngược chiều đến bất bình đẳng thể hiện ở Bảng 1, quốc gia i, thời gian t. thu nhập Đối với biến tài chính toàn diện FI, được đo lường bằng 3 biến: (1) % số dân từ 15 3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu tuổi trở lên có tài khoản tại các tổ chức tài chính (ACC); (2) % số dân từ 15 tuổi trở 3.1. Dữ liệu nghiên cứu lên có tiết kiệm tại các tổ chức tài chính Số 265- Năm thứ 26 (6)- Tháng 6. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng 83
  6. Tác động của công nghệ tài chính, tài chính toàn diện và mức độ phát triển tài chính đến bất bình đẳng thu nhập tại các quốc gia trên thế giới Bảng 1. Tổng hợp các biến trong mô hình Ký Nguồn dữ Tên biến Cách đo lường Nguồn nghiên cứu hiệu liệu Biến phụ thuộc Bất bình đẳng thu Demir và cộng sự (2022), IN Hệ số Gini (GINI) SWIID nhập Ashenafi và Dong (2022) Biến độc lập Công nghệ tài Sử dụng điện thoại di động để Asongu và Le Roux (2017), FT World Bank chính thanh toán hóa đơn (%) Demir và cộng sự (2020) Phát triển tài chính FD Chỉ số phát triển tài chính Demir và cộng sự (2022) IMF Tài khoản tại tổ chức tài chính (% World Bank tuổi 15+) (ACC) Tiết kiệm tại tổ chức tài chính (% Tài chính toàn diện FI Demir và cộng sự (2022) World Bank tuổi 15+) (SAVE) Vay từ tổ chức tài chính chính World Bank thức (% tuổi 15+) (BOR) Biến kiểm soát Giáo dục ED Tỷ lệ nhập học trung học World Bank Chính sách tái Chi tiêu tiêu dùng cuối cùng Demir và cộng sự (2022), RP Ashenafi và Dong (2022) World Bank phân phối chung của chính phủ (% GDP) Dân số PO Tăng trưởng dân số (% hàng năm) World Bank Độ mở thương mại TRA Thương mại (% GDP) World Bank Tăng trưởng GDP bình quân đầu Tăng trưởng kinh tế EG World Bank người (% hàng năm) Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp (SAVE), (3) % số dân từ 15 tuổi trở lên vay lệch lớn từ 23,2% đến 63%. Biến công nghệ từ tổ chức tài chính chính thức, theo nghiên tài chính có mức độ dao động khá mạnh, cứu của Demir và cộng sự (2022). từ 0% tới 88,45%. Thực tế tại các quốc gia Nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng với ba kém phát triển và đang phát triển, số lượng mô hình ước lượng OLS, FEM và REM, cá nhân chưa được tiếp cận hoặc không có sau đó sử dụng các kiểm định để lựa chọn nhu cầu sử dụng các dịch vụ tài chính vẫn mô hình phù hợp.Mô hình GLS được đề còn chiếm tỷ trọng lớn. Phần lớn dân số sử xuất do có tồn tại các khuyết tật về tự tương dụng dịch vụ công nghệ tài chính là những quan, phương sai sai số thay đổi trong các người ở độ tuổi từ 24 đến 35 tuổi, có mức biến nghiên cứu. thu nhập cao, không hạn chế về trình độ học vấn và thành thạo công nghệ. 4. Kết quả nghiên cứu và bàn luận Mối tương quan giữa các biến nghiên cứu được trình bày tại Bảng 3, có thể thấy mức Kết quả thống kê mô tả đối với các biến có độ phát triển tài chính (FD), công nghệ tài trong mô hình nghiên cứu được thể hiện ở chính (FT), đều có mối tương quan ngược Bảng 2. chiều với bất bình đẳng thu nhập (IN) và có Từ Bảng 2, thống kê chung cho thấy hệ số ý nghĩa thống kê (mức ý nghĩa 5%), với các Gini trung bình của tất cả các quốc gia trong giá trị trương ứng là -0,2458 và -0,4732. mẫu là 37,62% với độ lệch chuẩn là 7,76%. Bên cạnh đó, các biến thuộc tài chính toàn Hệ số Gini của các quốc gia có sự chênh diện (SAVE, ACC và BOR) cũng có mối 84 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 265- Năm thứ 26 (6)- Tháng 6. 2024
  7. PHẠM TIẾN MẠNH - NGUYỄN NGỌC HÀ Bảng 2. Thống kê mô tả các biến nghiên cứu trong mô hình hồi quy với toàn bộ mẫu Biến Số quan sát Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất GINI 1.620 37,62278 7,760828 23,2 63 FD 1.661 34,26383 23,41177 2,878983 98,70471 FT 1.728 23,14292 24,05933 0 88,45 SAVE 1.884 21,9461 19,04189 0,12 80,93 ACC 1.884 53,14798 31,23378 0,4 100 BOR 1.884 19,40538 17,21788 0,6 82,83 RP 1.711 15,95928 5,878719 2,360137 61,16675 EG 1.852 1,66028 5,456773 -48,39245 96,95642 ED 1.301 85,87604 29,0537 5,460225 164,0798 PO 1.884 1,285201 1,533091 -14,25704 11,79402 TRA 1.727 87,51517 54,60048 2,698834 393,1412 Nguồn: Kết quả nghiên cứu Bảng 3. Kết quả kiểm định hệ số tương quan Pearson (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) (11) (1) GINI 1 (2) FD -0,2458* 1 (3) FT -0,4732* 0,7116* 1 (4) -0,3551* 0,7884* 0,8433* 1 SAVE (5) ACC -0,3931* 0,7942* 0,8126* 0,8288* 1 (6) BOR -0,3374* 0,6903* 0,7211* 0,7905* 0,7332* 1 (7) RP -0,1158* 0,3327* 0,4413* 0,3802* 0,4246* 0,2622* 1 (8) EG -0,0556* -0,0016 0,0155 0,0156 0,0352 0,0228 -0,1578* 1 (9) ED -0,3191* 0,6814* 0,6700* 0,6029* 0,7841* 0,5935* 0,4273* -0,0089 1 (10) PO 0,3120* -0,3059* -0,3188* -0,2101* -0,4139* -0,2687* -0,2294* -0,1266* -0,4921* 1 (11) -0,2704* 0,2025* 0,3519* 0,3004* 0,3357* 0,2147* 0,1555* 0,1033* 0,2164* -0,1329* 1 TRA (*) mức ý nghĩa 5% Nguồn: Kết quả nghiên cứu tương quan ngược chiều với biến IN, điều chính sách tái phân phối, dân số, độ mở này có nghĩa khi tỷ lệ tiết kiệm tại các tổ thương mại và tăng trưởng kinh tế đều có chức tài chính, có tài khoản ở các tổ chức mối tương quan ngược chiều với bất bình tài chính và tỷ lệ vay tại các tổ chức tài đẳng thu nhập, và đều có ý nghĩa thống kê chính chính thức tăng lên, sẽ làm cho bất ở mức 5%. bình đẳng thu nhập tại các quốc gia trên Để kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến của thế giới giảm xuống, và ngược lại. Ngoài các biến nghiên cứu, nhóm tác giả sử dụng ra, các biến nghiên cứu khác như giáo dục, kiểm định VIF, với kết quả nghiên cứu tại Số 265- Năm thứ 26 (6)- Tháng 6. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng 85
  8. Tác động của công nghệ tài chính, tài chính toàn diện và mức độ phát triển tài chính đến bất bình đẳng thu nhập tại các quốc gia trên thế giới Bảng 4. Kết quả kiểm định đa cộng tuyến quốc gia phát triển, quốc gia đang phát Biến nghiên cứu VIF 1/VIF triển và nhóm quốc gia kém phát triển, tiếp SAVE 7,79 0,128417 đó sử dụng các mô hình hồi quy để kiểm định. Các kiểm định cần thiết để lựa chọn ACC 6,91 0,144745 mô hình phân tích phù hợp bao gồm các FT 4,93 0,202989 kiểm định sau: kiểm định F để lựa chọn mô FD 3,61 0,277258 hình OLS hay FEM, kiểm định Breusch ED 3,32 0,300858 – Pagan Lagrangian để lựa chọn mô hình BOR 3,13 0,319599 OLS hay REM và kiểm định Hausman để lựa chọn giữa 2 mô hình là REM và FEM. PO 2,29 0,437479 Kiểm định F có kết quả: Prob > F nhỏ hơn RP 1,77 0,564576 5% nên bác bỏ giả thuyết Ho đối với kiểm TRA 1,30 0,768605 định này là mô hình OLS phù hợp hơn mô EG 1,12 0,893147 hình FEM, do đó kết luận mô hình FEM là Mean VIF 3,62 phù hợp. Nguồn: Kết quả nghiên cứu Kiểm định Breusch-Pagan Lagrangian có kết quả Prob > Chi2 nhỏ hơn 5% nên bác Bảng 4 cho thấy, các biến trong nghiên cứu bỏ giả thuyết Ho là mô hình OLS phù hợp này đều có giá trị VIF < 10, vì vậy không hơn mô hình REM, kết luận mô hình REM có hiện tượng đa cộng tuyến của các biến là phù hợp. nghiên cứu. Với mẫu các quốc gia phát triển và đang Để kiểm định mối quan hệ giữa các biến phát triển, kết quả kiểm định Hausman cho độc lập, biến kiểm soát đến bất bình đẳng thấy Prob > Chi2 nhỏ hơn 5%, do đó đủ cơ thu nhập tại các quốc gia trên thế giới, sở để khẳng định sử dụng mô hình FEM nhóm tác giả phân chia thành các nhóm là phù hợp nhất. Nhóm các quốc gia chậm Bảng 5. Kết quả kiểm định lựa chọn mô hình Kiểm định Breusch – Kiểm định F Kiểm định Hausman Mẫu/ Kiểm định Pagan Lagrangian Giá trị thống kê F Prob>F Chi2(01) Prob>Chi2 Chi2 Prob>Chi2 Quốc gia phát triển 82,24 0,0000 1145,03 0,0000 22,38 0,0133 Quốc gia đang phát triển 172,85 0,0000 1442,07 0,0000 59,20 0,000 Quốc gia chậm phát triển 48,55 0,0000 271,15 0,0000 0,83 0,9999 Nguồn: Kết quả nghiên cứu Bảng 6 . Kết quả kiểm định các khuyết tật của mô hình nghiên cứu Kiểm định Wald Kiểm định Wooldridge Mẫu/ Kiểm định P-value Sự hiện diện của PSSS thay đổi P-value Sự hiện diện của TTQ Quốc gia phát triển 0,0000 Có 0,0000 Có Quốc gia đang phát triển 0,0000 Có 0,0000 Có Quốc gia chậm phát triển 0,0000 Có 0,0000 Có Nguồn: Kết quả nghiên cứu 86 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 265- Năm thứ 26 (6)- Tháng 6. 2024
  9. PHẠM TIẾN MẠNH - NGUYỄN NGỌC HÀ Bảng 7 . Kết quả hồi quy theo mô hình GLS tài chính (FT), tiết kiệm tại các tổ chức Quốc gia Quốc gia đang Quốc gia tài chính (SAVE), tài khoản tại tổ chức phát triển phát triển chậm phát tài chính (ACC), chính sách tái phân phối (Nhóm 1) (Nhóm 2) triển (Nhóm 3) (RP), giáo dục (ED) và độ mở thương mại GINI GINI GINI (TRA) có mối quan hệ ngược chiều với bất 0,0333*** 0,0410** -0,0343 FD [3,08] [2,46] [-1,38] bình đẳng thu nhập, ở mức ý nghĩa 1%. Các kết quả này phù hợp với kết quả của -0,0262*** -0,00471 0,0678 FT Aker và Mbiti (2010), Demir và các cộng [-3,15] [-0,35] [1,62] -0,0444*** 0,0466*** 0,0966 sự (2022), Mookerjee và Kalipioni (2010) SAVE [-3,56] [2,59] [1,45] và Phạm và các cộng sự (2022), với ý nghĩa ACC -0,0475** -0,00865 -0,0772*** cho rằng, công nghệ tài chính phát triển, [-2,25] [-0,84] [-2,70] tài chính toàn diện, chính sách tái phân BOR 0,00894** -0,0196 -0,160** phối, giáo dục và độ mở thương mại tăng [2,09] [-1,36] [-2,50] sẽ làm giảm bất bình đẳng thu nhập. Trong -0,198*** -0,0548 0,151*** RP [-4,46] [-1,12] [3,29] khi đó, mức độ phát triển tài chính (FD), vay từ tổ chức tài chính chính thức (BOR) 0,00732 0,0200* -0,0200 EG có mối quan hệ cùng chiều với bất bình [0,62] [1,72] [-0,84] -0,0120* -0,00834 0,0882*** đẳng thu nhập; kết quả này trái ngược với ED [-1,82] [-0,72] [3,34] nghiên cứu từ Kim và Lin (2011), Seven 0,0644 1,725*** 0,690 và Coskun (2016). Điều này có nghĩa, tại PO [0,57] [7,97] [1,27] các quốc gia phát triển, mức độ phát triển TRA -0,0163*** -0,0250*** 0,00676 tài chính càng phát triển sẽ càng làm gia [-5,02] [-4,25] [0,73] tăng bất bình đẳng thu nhập, vay từ các tổ 43,81*** 39,61*** 32,98*** chức tài chính chính thức càng phát triển cons [23,24] [26,35] [13,65] có nghĩa mức độ bất bình đẳng thu nhập N 352 476 145 càng tăng. Các số trong ngoặc là chỉ số t-statistic.* p
  10. Tác động của công nghệ tài chính, tài chính toàn diện và mức độ phát triển tài chính đến bất bình đẳng thu nhập tại các quốc gia trên thế giới Như vậy, công nghệ tài chính làm giảm bất 5. Kết luận và khuyến nghị bình đẳng thu nhập ở nhóm quốc gia phát triển. Kết quả này hoàn toàn tương ứng với Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu từ 3 nhóm kỳ vọng và kết luận của Hodula (2023). Tuy quốc gia là nhóm phát triển, nhóm đang nhiên với nhóm quốc gia đang phát triển và phát triển và nhóm kém phát triển, nhằm chậm phát triển, công nghệ tài chính không tìm ra tác động của công nghệ tài chính, tác động đến bất bình đẳng thu nhập. Mối tài chính toàn diện và mức độ phát triển tài quan hệ tương quan này không phù hợp với chính đến bất bình đẳng thu nhập. Kết quả kỳ vọng nghiên cứu và ủng hộ cho quan nghiên cứu cho thấy, công nghệ tài chính điểm công nghệ tài chính làm giảm bất càng phát triển càng làm cho bất bình đẳng bình đẳng thu nhập tại các quốc gia đang thu nhập giảm xuống, và ngược lại. Đối phát triển và chậm phát triển của Ashenafi với các quốc gia đang phát triển và kém và Dong (2022), Suri và Jack (2016). Theo phát triển, biến nghiên cứu này không có kết quả nghiên cứu, tác động của tài chính tác động đến bất bình đẳng thu nhập. Với toàn diện đến bất bình đẳng về thu nhập là chỉ số phát triển tài chính, yếu tố này có ý cùng chiều hay ngược chiều còn tùy thuộc nghĩa thống kê và tác động đáng kể đến bất vào thước đo tài chính toàn diện. Các khía bình đẳng thu nhập ở nhóm các quốc gia cạnh tài khoản và vay mượn của tài chính phát triển và nhóm các quốc gia đang phát toàn diện giúp giảm bất bình đẳng về thu triển, nhưng lại không có ý nghĩa thống kê nhập ở nhóm quốc gia chậm phát triển, với nhóm các quốc gia kém phát triển. Đối phát hiện này hoàn toàn tương đồng với kết với các quốc gia Nhóm 1 và Nhóm 2, mức quả nghiên cứu của Dabla-Norris và các độ phát triển tài chính càng cao thì càng cộng sự (2015), Mookerjee và Kalipioni làm giảm bất bình đẳng thu nhập. Cuối (2010), Brei và các cộng sự (2023). Tuy cùng, với các biến nghiên cứu về tài chính nhiên, khía cạnh tiết kiệm ở nhóm quốc toàn diện, có sự khác biệt giữa các nhóm gia đang phát triển và vay mượn ở nhóm quốc gia đối với các góc độ dùng để đo quốc gia phát triển làm tăng bất bình đẳng lường tài chính toàn diện. Cụ thể, tỷ lệ dân thu nhập. Kết quả này tương đồng với kết số trên 15 tuổi có tài khoản tại tổ chức tài quả của Seven và Coskun (2016) nhưng chính và vay từ các tổ chức tài chính chính trái ngược với Kim và Lin (2011). Thực tế, thức tác động ngược chiều và có ý nghĩa người nghèo ở các nước phát triển và đang thống kê với nhóm quốc gia phát triển và phát triển đang bị hạn chế khả năng tiếp kém phát triển; trong khi đó, tỷ lệ dân số cận tài chính. Những người có thu nhập có tiết kiệm tại các tổ chức tài chính có cao dễ dàng tiếp cận với các sản phẩm và tác động ngược chiều với bất bình đẳng dịch vụ tài chính đa dạng, trong khi những thu nhập tại các quốc gia phát triển, và có người có thu nhập thấp thường bị hạn chế tác động cùng chiều tại các quốc gia đang do thiếu kiến thức tài chính, chi phí giao phát triển. Ngoài ra, với các biến kiểm soát, dịch cao và chính sách của chính phủ khiến kết quả nghiên cứu cho thấy tại các quốc việc tiếp cận các dịch vụ tài chính không gia phát triển, bất bình đẳng thu nhập bị được dân chủ hóa. Kết quả cũng cho thấy tác động ngược chiều với giáo dục, chính rằng người nghèo không được tiếp cận đủ sách tái phân phối và độ mở thương mại; với các dịch vụ tài chính hoặc họ được tiếp đối với các quốc gia đang phát triển, bất cận với một số hoạt động, nhưng không thu bình đẳng thu nhập bị tác động cùng chiều hẹp được khoảng cách giàu nghèo. với dân số và tăng trưởng kinh tế, nhưng bị 88 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 265- Năm thứ 26 (6)- Tháng 6. 2024
  11. PHẠM TIẾN MẠNH - NGUYỄN NGỌC HÀ tác động ngược chiều với biến giáo dục, độ điện thoại di động hoặc các thiết bị thông mở thương mại; trong khi đó, tại các quốc minh để thanh toán hóa đơn; có các biện gia kém phát triển, bất bình đẳng thu nhập pháp phù hợp để gia tăng số lượng tài khoản bị tác động cùng chiều bởi các yếu tố như của người dân từ 15 tuổi trở lên, đồng thời chính sách tái phân phối, giáo dục. thu hút lượng tiền gửi tiết kiệm từ các đối Mức độ tác động của công nghệ tài chính tượng này vào các tổ chức tài chính. Bên đến bất bình đẳng thu nhập có sự khác biệt cạnh đó, chính phủ có các giải pháp để gia giữa các quốc gia là do đặc thù của từng tăng chi tiêu tiêu dùng cuối cùng chung của nhóm. Nhóm quốc gia phát triển có cơ sở chính phủ, thông qua các chương trình đầu hạ tầng số tiên tiến, bao gồm mạng internet tư công; quan tâm đến các chính sách giáo tốc độ cao, điện thoại thông minh phổ biến dục nhằm gia tăng tỷ lệ nhập học trung và tỷ lệ người dùng internet cao sẽ giúp học của giới trẻ, đồng thời tăng cường độ người dân dễ dàng tiếp cận hơn với các mở thương mại thông qua các hoạt động dịch vụ công nghệ tài chính. Ở nhóm quốc xuất nhập khẩu của nền kinh tế. Ngoài ra, gia đang phát triển, tỷ lệ người dân không các quốc gia phát triển cần quan tâm, thận có tài khoản ngân hàng hoặc bị hạn chế tiếp trọng với mức độ phát triển tài chính thông cận các dịch vụ tài chính truyền thống còn qua các hoạt động tài trợ, đầu tư trên thị khá cao. Việc thiếu hụt cơ sở hạ tầng số trường; giám sát các khoản vay từ các tổ khiến cho việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ chức tài chính chính thức để giảm tác động công nghệ tài chính gặp nhiều khó khăn, tiêu cực đến bất bình đẳng thu nhập. đặc biệt là ở khu vực nông thôn và vùng Thứ hai, đối với các quốc gia đang phát sâu vùng xa. Đối với nhóm quốc gia chậm triển, chú trọng đẩy mạnh độ mở thương phát triển, tỷ lệ người dùng internet và điện mại nhằm gia tăng lợi ích cho nền kinh tế thoại thông minh còn thấp. Do nhóm quốc nói chung. Tuy nhiên, cần giám sát chặt chẽ gia này có nền tảng kinh tế yếu kém, cộng mức độ phát triển tài chính, đặc biệt các hoạt với sự thiếu hụt nguồn nhân lực có trình động liên quan đến các định chế tài chính, độ cao, khiến cho việc phát triển và ứng các cơ chế vay và cho vay trên thị trường; dụng công nghệ tài chính gặp nhiều khó kiểm soát tốc độ tăng trưởng dân số, tăng khăn. Công nghệ tài chính có tiềm năng trưởng kinh tế gắn với phát triển bền vững, to lớn trong việc giảm thiểu bất bình đẳng từ đó làm giảm tác động đến bất bình đẳng thu nhập, nhưng để phát huy hiệu quả, cần thu nhập tại các nhóm quốc gia này. có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên Thứ ba, đối với nhóm các quốc gia kém quan, bao gồm chính phủ, doanh nghiệp và phát triển cần tăng cường tỷ lệ dân số có các tổ chức phi chính phủ, nhằm đảm bảo tài khoản tại các tổ chức tài chính, khuyến công nghệ tài chính được phát triển một khích các đối tượng này thực hiện các cách bền vững và hướng đến lợi ích chung khoản vay từ tổ chức tài chính chính thức của xã hội. nhằm tăng tính an toàn, tránh các tác động Từ kết quả nghiên cứu trên, nhóm nghiên tiêu cực từ các hoạt động ngân hàng ngầm; cứu đề xuất một số giải pháp nhằm thu hẹp tuy nhiên, các quốc gia chậm phát triển bất bình đẳng thu nhập tại các quốc gia trên cũng cần thiết kiểm soát chi tiêu tiêu dùng thế giới như sau: cuối cùng chung của chính phủ nhằm đảm Thứ nhất, đối với các quốc gia phát triển, bảo hiệu quả các nguồn vốn đầu tư đạt tăng cường phát triển công nghệ tài chính, được mục tiêu tăng trưởng về mặt dài hạn; thông qua đa dạng các hoạt động sử dụng đồng thời đảm bảo tỷ lệ người dân tham gia Số 265- Năm thứ 26 (6)- Tháng 6. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng 89
  12. Tác động của công nghệ tài chính, tài chính toàn diện và mức độ phát triển tài chính đến bất bình đẳng thu nhập tại các quốc gia trên thế giới các bậc học từ trung học trở lên đi vào thực liệu cho năm gần nhất là năm 2023. Dữ liệu chất, kiểm soát chất lượng giáo dục để gia thu thập được không đầy đủ do có nhiều tăng dân trí tại các quốc gia này. quốc gia không tham gia vào các cuộc khảo Nghiên cứu này có một số hạn chế liên sát do tổ chức quốc tế thực hiện. Hơn nữa, quan mức độ cập nhật của dữ liệu thu thập sự phát triển của tài chính toàn diện, mức và mối quan hệ giữa công nghệ tài chính, độ phát triển tài chính và công nghệ tài tài chính toàn diện, mức độ phát triển tài chính, cũng như mức độ bất bình đẳng về chính và bất bình đẳng thu nhập riêng biệt thu nhập, khác nhau giữa người dân thành ở khu vực nông thôn và thành thị. Về dữ thị và nông thôn. Chính vì vậy, kết quả liệu, do sự thiếu đồng bộ cũng như chậm nghiên cứu của chúng tôi chưa thể đưa ra cập nhật khiến phạm vi thời gian nghiên kết luận về mối quan hệ giữa các biến ở hai cứu chỉ dừng đến năm 2022, chưa có bộ dữ khu vực này. ■ Tài liệu tham khảo Aker, J. C., & Mbiti, I. M. (2010). Mobile phones and economic development in Africa. Journal of economic Perspectives, 24(3), 207-232. DOI: 10.1257/jep.24.3.207 Arner, D. W., Buckley, R. P., Zetzsche, D. A., & Veidt, R. (2020). Sustainability, FinTech and financial inclusion. European Business Organization Law Review, 21, 7-35. doi:10.1007/s40804-020-00183-y Ashenafi, B.B.; Dong, Y. (2022). Financial Inclusion, Fintech, and Income Inequality in Africa. FinTech, 1, 376–387. https://doi.org/10.3390/fintech1040028 Asongu, S. A., & Le Roux, S. (2017). Enhancing ICT for inclusive human development in Sub-Saharan Africa. Technological Forecasting and Social Change, 118, 44-54. DOI:10.1016/j.techfore.2017.01.026 Awan, M. S., Malik, N., Sarwar, H., & Waqas, M. (2011). Impact of education on poverty reduction. International Journal of Academic Research , 3(1), 659-664 Brei, M., Ferri, G., & Gambacorta, L. (2023). Financial structure and income inequality.  Journal of International Money and Finance, 131, 102807. DOI: 10.1016/j.jimonfin.2023.102807 Dabla-Norris, E., Ji, Y., Townsend, R., & Unsal, F. D. (2015). Identifying constraints to financial inclusion and their impact on GDP and inequality: A structural framework for policy. International Monetary Fund. https://www.imf. org/en/Publications/WP/Issues/2016/12/31/Identifying-Constraints-to-Financial-Inclusion-and-Their-Impact-on- GDP-and-Inequality-A-42649 Demir, A., Pesqué-Cela, V., Altunbas, Y., & Murinde, V. (2022). Fintech, financial inclusion and income inequality: a quantile regression approach. The European Journal of Finance, 28(1), 86-107. DOI:10.1080/135184 7X.2020.1772335 Diemers, D., Lamaa, A., Salamat, J. & Steffens, T. (2015). Developing a FinTech ecosystem in the GCC. https://www. strategyand.pwc.com/m1/en/reports/developing-a-fintech-ecosystem-in-the-gcc.pdf. Gai, K., Qiu, M., Sun, X. (2018). A Survey on Fintech. Journal of Network and Computer Applications, 103 (2), 262-273. DOI:10.1016/j.jnca.2017.10.011. Girma, A. G., & Huseynov, F. (2023). The Causal Relationship between FinTech, Financial Inclusion, and Income Inequality in African Economies. Journal of Risk and Financial Management, 17(1), 2. https://doi.org/10.3390/ jrfm17010002 Hodula, M. (2023). Fintech credit, big tech credit and income inequality. Finance Research Letters, 51, 103387. https:// doi.org/10.1016/j.frl.2022.103387 Kim, D. H., & Lin, S. C. (2011). Nonlinearity in the financial development–income inequality nexus.  Journal of Comparative Economics, 39(3), 310-325. https://doi.org/10.1016/j.jce.2011.07.002 Kochhar, S., Rangarajan, C., & Chakrabarty, K. (2009). Speeding financial inclusion. Academic Foundation. Kuznets, S. (1955), ‘Economic growth anh income inequality’, The American Economic Review, XLV(1), 1-28. Javid, M., & Sharif, F. (2016). Environmental Kuznets curve and financial development in Pakistan. Renewable and Sustainable Energy Reviews, 54, 406-414. DOI: 10.1016/j.rser.2015.10.019 Levine, R. (2005). Finance and growth: theory and evidence. Handbook of economic growth, 1, 865-934. . DOI: 10.3386/w10766 Neaime, S., & Gaysset, I. (2018). Financial inclusion and stability in MENA: Evidence from poverty and inequality. Finance Research Letters, 24, 230-237. https://doi.org/10.1016/j.frl.2017.09.007 Navaretti, G. B., Calzolari, G., Mansilla-Fernandez, J. M., & Pozzolo, A. F. (2018). Fintech and banking. Friends or foes? Friends or Foes. https://ssrn.com/abstract=3099337 90 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 265- Năm thứ 26 (6)- Tháng 6. 2024
  13. PHẠM TIẾN MẠNH - NGUYỄN NGỌC HÀ Mookerjee, R., & Kalipioni, P. (2010). Availability of financial services and income inequality: The evidence from many countries. Emerging Markets Review, 11(4), 404-408. https://doi.org/10.1016/j.ememar.2010.07.001 Rangarajan, C. (2008). Report of the committee on financial inclusion. Ministry of Finance, Government of India, 155-167. Seven, U., & Coskun, Y. (2016). Does financial development reduce income inequality and poverty? Evidence from emerging countries. Emerging Markets Review, 26, 34-63. https://doi.org/10.1016/j.ememar.2016.02.002 Suri, T., & Jack, W. (2016). The long-run poverty and gender impacts of mobile money. Science, 354(6317), 1288-1292. DOI: 10.1126/science.aah5309 OECD. (2011). Divided We Stand: Why Inequality Keeps Rising. OECD Publishing World Bank. (2009). Africa Development Indicators 2008/2009: From the World Bank Africa Database. The World Bank. Phạm, T. M., Nguyen, H. V., Ngo, N. M. (2022). The Impact of Financial Inclusion on IncomeInequality: Case Study in Europe. Economic Insights – Trends and Challenges, XI(1), 33-45. DOI: 10.51865/EITC.2022.01.04 Priester, M. and Mendelson, A. (2015) Income inequality. Available at: http://inequality.org/income-inequality/ (Accessed: 20 April 2024). Tita, A. F., & Aziakpono, M. J. (2016). Financial development and income inequality in Africa: A panel heterogeneous approach. Economic Research Southern Africa. Working Papers, 614, 525-548. Zhang, X., Zhang, J., & He, Z. (2018). Is FinTech Inclusive? Evidence from China’s Household Survey Data. 35th IARIW General Conference, Copenhagen, 20-25. Số 265- Năm thứ 26 (6)- Tháng 6. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng 91
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
107=>2