intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tác động của kỷ nguyên số đến tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Tác động của kỷ nguyên số đến tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay" kỷ nguyên số và những tác động của nó đối với tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam; khái quát những thành tựu và hạn chế của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam; quan điểm và một số giải pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong thời đại kỷ nguyên số hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tác động của kỷ nguyên số đến tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TÁC ĐỘNG CỦA KỶ NGUYÊN SỐ ĐẾN TIẾN TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Nguyễn Diệu Hằng, Nguyễn Thị Yến Trường Đại học Kỹ thuật Y - Dược Đà Nẵng Tác giả liên hệ: Nguyễn Diệu Hằng, email: ndhang@dhktyduocdn.edu.vn Tóm tắt: Thế giới đang bước vào kỷ nguyên số với đặc điểm, tính chất mới tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống xã hội các nước trong đó có Việt Nam. Nó sẽ tạo ra sự thay đổi về phân bố nguồn lực sản xuất, cách thức sản xuất và tiêu dùng nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ; mang đến cho Việt Nam rất nhiều cơ hội và thách thức trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, chúng ta cần có những chủ trương, chính sách nhằm đưa ra các giải pháp giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà chúng ta đã đặt ra trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Từ khóa: Việt Nam; Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Công nghiệp hoá, hiện đại hoá; kỷ nguyên số. 1. KỶ NGUYÊN SỐ VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI TIẾN TRÌNH ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM 1.1. Khái quát về kỷ nguyên số Kỷ nguyên số là một giai đoạn trong lịch sử nhân loại với sự chuyển đổi từ ngành công nghiệp truyền thống mà cuộc Cách mạng công nghiệp đã mang lại thông qua quá trình công nghiệp hóa, sang nền kinh tế dựa trên số hóa. Trong kỷ nguyên số, ngành công nghiệp kỹ thuật số tạo ra một xã hội dựa trên tri thức bao quanh bởi một nền kinh tế toàn cầu công nghệ cao, bao trùm ảnh hưởng của nó đến phương pháp sản xuất trong toàn ngành và lĩnh vực dịch vụ được vận hành một cách hiệu quả và thuận tiện. Kỷ nguyên số sẽ tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ về phân bố nguồn lực sản xuất, cách thức sản xuất và tiêu dùng nhờ vào dự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ. Nền sản xuất tự động đặc trưng của cuộc cách mạng trước đó sẽ được chuyển 68
  2. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” sang nền sản xuất thông minh, trong đó các máy móc được kết nối internet và liên kết với nhau qua một hệ thống có thể tự vận hành toàn bộ quá trình sản xuất theo một kế hoạch đã được xác lập từ trước. Mọi hoạt động diễn ra trong thế giới thực được sự hỗ trợ ngày càng mạnh mẽ bởi các hoạt động trên không gian số, giúp thế giới trở nên ngày một hiệu quả và thông minh hơn. Những đột quá công nghệ trong kỷ nguyên số đang làm thay đổi những nền tảng phát triển kinh tế và xã hội như sở hữu, qui mô sản xuất, các khâu trung gian, tầm quan trọng tương đối của các loại nguồn lực. 1.2. Những tác động của kỷ nguyên số với tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam Thứ nhất, tác động đến toàn bộ nền kinh tế. Trong khoảng hơn một thập niên trở lại đây, nhờ lợi thế về địa lý kinh tế của mình, Việt Nam hiện đang là một điểm đến yêu thích của làn sóng FDI mới, qua đó tham gia nhiều hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, là một “công xưởng lắp ráp” mới của nền kinh tế thế giới. Sự phát triển nhanh chóng của các ngành công nghiệp chế tạo thâm dụng lao động có định hướng xuất khẩu đang có tác động đáng kể đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quá trình này giúp Việt Nam rút lao động ra khỏi nông nghiệp để chuyển sang làm việc trong các ngành công nghiệp và dịch vụ với năng suất và thu nhập cao hơn, qua đó mở ra nhiều cơ hội để đất nước thực hiện hiệu quả quá trình tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chuyển sang quỹ đạo tăng trưởng nhanh và bền vững hơn. Tuy nhiên, “cửa sổ cơ hội” đó của Việt Nam đang bị thu hẹp lại dưới tác động của cuộc cách mạng công nghệ đang tăng tốc, với đặc trưng cơ bản sự kết nối ngày một chặt chẽ giữa thế giới thực (physical systems) với không gian số (cyber systems) được nhiều chuyên gia gọi là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong trung đến dài hạn, công nghệ và đổi mới sáng tạo đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, bắt đầu phá vỡ nhiều phương thức sản xuất truyền thống trong nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, tạo ra những cơ hội và thách thức mới tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng và bất bình đẳng cũng như giảm nghèo ở nhiều quốc gia trên thế giới. 69
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Việt Nam vốn có lợi thế về lao động giá rẻ nhưng dưới tác động của quá trình số hoá và tự động hoá đang tăng tốc đã làm giảm đáng kể lợi thế này từ trung đến dài hạn. Cụ thể, trong kỷ nguyên số, ngành công nghiệp chế tạo bắt đầu quay trở lại các nước phát triển, cũng như có xu hướng ở lại Trung Quốc - nơi có việc sử dụng người máy đang gia tăng rất nhanh - nhằm đưa sản phẩm đến gần với thị trường tiêu thụ cuối cùng và gắn chặt hơn với các trung tâm nghiên cứu và thiết kế. Hệ quả là lợi thế của Việt Nam về chi phí lao động thấp có thể sẽ suy giảm đáng kể, ảnh hưởng đến tăng trưởng của ngành công nghiệp chế tạo là ngành có tầm quan trọng đặc biệt đối với các nền kinh tế kém phát triển trong nỗ lực bắt kịp với các nền kinh tế tiên tiến hơn. Do vậy, Việt Nam cần có những nỗ lực lớn nhằm tận dụng tối đa “cửa sổ cơ hội” hiện có trước khi ngành công nghiệp chế tạo quay trở lại các nước phát triển hay dừng không chuyển dịch ra khỏi Trung Quốc, cũng như ứng phó với khả năng của một sự chuyển hướng khác từ Việt Nam sang các nước đang phát triển khác đang nỗ lực cạnh tranh để thu hút FDI nói chung và các tập đoàn công nghệ đa quốc gia nói riêng. Thứ hai, tác động đến một số ngành, lĩnh vực. - Nhóm ngành năng lượng. Nhóm ngành này cung cấp các đầu vào chiến lược cho nền kinh tế. Tuy nhiên tác động có sự khác biệt giữa dầu khí và điện năng, do có một sự khác biệt căn bản giữa hai phân ngành này: dầu khí có thể xuất nhập khẩu được và do vậy chịu sự chi phối của giá thế giới, trong khi đó điện năng cơ bản là không. Ngành điện có thể được hưởng lợi khá nhiều nhờ những đột phá trong công nghệ năng lượng tái tạo, trước hết là công nghệ ứng dụng năng lượng mặt trời cũng đã tiến bộ rất nhiều ở một số nước tiên tiến như Mỹ, Đức v.v.. với tiềm năng phổ biến nhanh trên toàn cầu nhờ giá sản xuất giảm đáng kể. - Nhóm ngành công nghiệp chế tạo. Đây là nhóm ngành mà Việt Nam sẽ chịu tác động nhất bởi ba lý do: Một là, tác động của kỷ nguyên số đến nhóm ngành này rất mạnh. Hai là, cơ chế lan truyền tác động của công nghệ trong kinh tế toàn cầu rất nhanh thông qua kênh xuất nhập khẩu do bản chất thương mại quốc tế cao của nhóm này. Ba là, những đột phá về công nghê, đặc biệt là tự động hoá và công nghệ in 3D đang làm đảo ngược dòng 70
  4. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” thương mại theo hướng bất lợi cho các nước như Việt Nam do làm giảm mạnh lợi thế lao động rẻ tại đây. - Nhóm ngành dịch vụ. Tài chính - ngân hàng là một trong những lĩnh vực có nhiều thay đổi nhất khi thế giới bước vào kỷ nguyên số. Bởi nó làm thay đổi hoàn toàn cách thức ngân hàng giao tiếp với khách hàng và kênh phân phối sản phẩm dịch vụ. Trong khoảng mười năm trở lại đây, sự xuất hiện của điện thoại thông minh đã thay đổi hoàn toàn cách con người giao tiếp và tương tác, kéo theo sự thay đổi trong kênh phân phối, mạng lưới bán hàng và cách thiết kế sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng. Kênh bán hàng qua Internet, ngân hàng dựa trên điện thoại di động, mạng truyền thông xã hội, phát triển ngân hàng kỹ thuật số, giao dịch không giấy tờ có xu hướng phát triển mạnh. Internet và điện toán đám mây là xu hướng để giao dịch dễ dàng. Ngành du lịch là ngành công nghiệp không khói, có giá trị về mặt kinh tế, văn hoá và an ninh quốc phòng. Một đặc trưng quan trọng của ngành du lịch không phải chịu cạnh tranh mặt đối mặt trên thị trường du lịch toàn cầu cũng như ít chịu những tác động tiêu cực của quá trình tự động hoá. Trong khi đó, nền tảng công nghệ số có ảnh hưởng trực tiếp khi bốn loại hình cơ bản của ngành du lịch là dịch vụ cung cấp chỗ nghỉ, nhà hàng ăn uống, các tour tham quan và phương tiện di chuyển đều có thể ứng dụng tốt trên các nền tảng công nghệ số. Ngành giáo dục đào tạo không chỉ chịu sự ảnh hưởng của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư nói riêng và tiến bộ công nghệ nói chung mà còn có tác động ngược lại. Công nghệ và vốn con người là hai yếu tố then chốt nhất trong mô hình tăng trường nội sinh. Ở Việt Nam, giáo dục đào tạo luôn có được vị trí quan trọng trong các chính sách của Nhà nước và trong đầu tư của các gia đình. Tuy nhiên, trong bối cảnh kỷ nguyên số, hệ thống giáo dục đào tạo của Việt Nam còn nhiều bất cập. Ngành y tế sẽ được hưởng nhiều nhờ những đột phá về công nghệ nhưng công nghệ đeo được tạo ra những chiếc đồng hồ, đôi giày, quần áo thông minh… để thu thập thông tin sức khoẻ liên tục 24/7. Gần đây, những đột phá trong công nghệ nano giúp tạo ra Interner kết nối vạn vật siêu nhỏ để thu thập thông tin trong 71
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG cơ thể con người. Điều quan trọng là Việt Nam cần nắm bắt các cơ hội do cách mạng công nghệ mang lại một cách nhanh nhất để cải thiện chất lượng và mở rộng dịch vụ y tế đến mọi người dân. 2. KHÁI QUÁT NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM 2.1. Những thành tựu - Về tăng trưởng kinh tế. Nhờ thực hiện nhất quán đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên nền tảng khoa học - công nghệ, trong những năm qua đất nước ta đã đạt được thành tựu to lớn: Đạt ngưỡng thu nhập trung bình năm 2008; nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao: giai đoạn 2011 - 2015 đạt 5,9%, giai đoạn 2016 - 2019 đạt 6,8%; quy mô nền kinh tế tăng 2,4 lần từ 116 tỷ USD năm 2010 lên 271,2 tỷ USD năm 2020. GDP bình quân đầu người tăng từ 1331 USD năm 2010 lên 2779 USD năm 2020. Chất lượng tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện, cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch sang chiều sâu. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao tăng từ 19% năm 2010 lên 50% năm 2020. Khoa học - công nghệ từng bước khẳng định vai trò động lực trong phát triển kinh tế - xã hội. Tiềm lực khoa học - công nghệ được nâng lên tạo chuyển biến tích cực cho hoạt động đổi mới và khởi nghiệp sáng tạo. Trình độ khoa học - công nghệ sản xuất được nâng cao, tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những quốc gia có nền công nghiệp có năng lực cạnh tranh toàn cầu ở mức khá cao, thuộc vào nhóm các quốc gia có năng lực cạnh tranh trung bình cao với vị trí thứ 44 trên thế giới vào năm 2018 theo đánh giá của UNIDO. Công nghiệp hiện nay là ngành kinh tế quốc dân với đóng góp xấp xỉ 30% GDP. - Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế theo các mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm. Trong giai đoạn 2010 - 2020 tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP giảm từ 18,9% năm 72
  6. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” 2010 xuống 14,85% năm 2020; các khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng tương ứng từ 81,1% lên 85,15% vượt mục tiêu đề ra. - Về chuyển dịch cơ cấu lao động. Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực, gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phục vụ tốt hơn các mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp đã giảm mạnh, tỷ trọng lao động ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng liên tục. Năng suất lao động được nâng lên rõ rệt. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2011 - 2015 là 4,3%/ năm, giai đoạn 2016 - 2020 là 5,8%/ năm. Xếp hạng toàn cầu về chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam những năm gần đây tăng vượt bậc, dẫn đầu các nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp. - Mức độ hội nhập, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Đến nay, Việt Nam có quan hệ thương mại với 224 đối tác, trong đó có hơn 70 nước là thị trường xuất khẩu của ta; có quan hệ với hơn 500 tổ chức quốc tế; 71 nước công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam. Đặc biệt, với việc tham gia 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương và song phương (15 FTA đã ký kết và 2 FTA đang đàm phán), Việt Nam trở thành tâm điểm của mạng lưới khu vực thương mại tự do rộng lớn, chiếm gần 90% GDP thế giới, góp phần gia tăng đan xen lợi ích của nước ta với hầu hết các đối tác hàng đầu khu vực và thế giới. Trong đó, gần đây nhất, điểm sáng của thành tựu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam chính là: thúc đẩy ký kết, phê chuẩn và triển khai hiệu quả Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, phê chuẩn Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA), thúc đẩy ký Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP); phát huy vai trò Chủ tịch ASEAN 2020 thúc đẩy triển khai Cộng đồng kinh tế ASEAN và liên kết kinh tế giữa ASEAN với các đối tác…. 2.2. Những hạn chế - Tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp so với khả năng và thấp hơn nhiều nước trong khu vực thời kỳ đầu công nghiệp hoá. Quy mô nền kinh tế còn nhỏ, thu nhập bình quân đầu người thấp. Tăng trưởng kinh tế hiện nay chủ yếu theo chiều rộng, tập trung vào các ngành công nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao, sử dụng nhiều tài 73
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG nguyên, vốn là lao động. Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực. Chỉ số ICOR ngày càng cao, cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực ở vào thời điểm có trình độ phát triển như nước ta. - Nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả cao; tài nguyên, đất đai và nguồn gốc của Nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát nghiêm trọng. Nhiều nguồn lực trong dân chưa được phát huy. - Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chậm. Trong công nghiệp, các sản phẩm có hàm lượng tri thức cao còn ít. Trong nông nghiệp, sản xuất chưa gắn kết chặt chẽ với thị trường. Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn còn thiếu cụ thể. Chất lượng nguồn nhân lực của đất nước còn thấp. Tỷ trọng lao động trong nông nghiệp còn cao, tỷ trọng lao động qua đào tạo còn thấp, lao động thiếu việc làm và không việc làm còn nhiều. 3. QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI KỶ NGUYÊN SỐ HIỆN NAY 3.1. Quan điểm của Đảng về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở Việt Nam trong thời đại kỷ nguyên số hiện nay Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra với tốc độ rất nhanh, quy mô rất lớn, tạo ra những thay đổi sâu rộng trong mọi lĩnh vực. Nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với nước ta, Đảng, Nhà nước đã đưa ra những chủ trương, chính sách chủ động, tích cực tham gia cuộc cách mạng này, xem đây là giải pháp đột phá để Việt Nam phát triển bứt phá. Chỉ thị 16/CT-TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã nêu rõ: “Xây dựng chiến lược chuyển đổi số, nền quản trị thông minh, ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số, nông nghiệp thông minh, du lịch thông minh, đô thị thông minh” (Thủ tướng Chính phủ, 2017, 2). Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị khoá XII cũng đã nhấn mạnh cần phải “Chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, gắn 74
  8. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng” (Bộ Chính trị, 2019, 2). Trong các chỉ tiêu cụ thể của nền kinh tế cần đạt tới cho giai đoạn 2021 - 2025 Nghị quyết cũng đã xác định cụ thể kinh tế số chiếm 20% đến năm 2030 kinh tế số chiếm khoảng 30% trong nền kinh tế. Văn kiện cũng đã nhấn mạnh yêu cầu cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát triển các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp nền tảng ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của khoa học công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm công nghệ cao, có giá trị tăng cao, thân thiện với môi trường, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021) của Đảng đã đưa ra quan điểm phát triển nhanh, bền vững với tư duy và cách tiếp cận mới: Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 214-215). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021) của Đảng đã chỉ rõ “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu công nghệ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 234-235), “đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 329), Đại hội cũng xác định rõ mục tiêu cụ thể: Đến năm 2025, nước ta là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại; đến năm 2030, nước ta là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030 nước ta là nước phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để thực hiện thành công các mục tiêu này, trên cơ sở nhận thức rõ thành tựu, hạn chế của khoa học - công nghệ trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá qua hơn 35 năm đổi mới đất nước, cùng những tư duy mới về thời cơ và thách thức mà Cách mạng công nghiệp lần 75
  9. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG thứ tư đem lại, đòi hỏi ngay từ bây giờ, Việt Nam cần tích cực chuyển đổi mạnh mẽ hơn sang nền kinh tế số. Quá trình này cũng yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng ngày càng theo chiều sâu, dựa nhiều vào tri thức, đổi mới, sáng tạo để có sự bứt phá về năng suất lao động, sức cạnh tranh, trở thành một “mắt xích” quan trọng không thể thiếu trong chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu. 3.2. Các giải pháp nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong thời đại kỷ nguyên số hiện nay 3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước Đây là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước hết phải tiếp tục giữ vững ổn định về chính trị, Đảng cộng sản Việt Nam phải là người lãnh đạo duy nhất, trực tiếp và toàn diện mọi hoạt động của xã hội Việt Nam. Điều này có ý nghĩa to lớn trong việc huy động các nguồn lực của đất nước nhằm đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thứ hai, công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải được tiến hành theo đường lối, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam. Đây là nhân tố trực tiếp đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta đã bổ sung công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào mục tiêu tổng quát phát triển đất nước. Điều này cho thấy nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, được thực hiện mạnh mẽ, có hiệu quả cao hơn trong những năm tới. Nhà nước có chức năng quản lý kinh tế - xã hội, Nhà nước ta có sứ mệnh tổ chức thực hiện đường lối công nghiệp hóa của Đảng cộng sản Việt Nam thông qua việc thực thi cơ chế, chính sách và điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà Đảng đề ra. Có thể nói rằng, thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trực tiếp phụ thuộc vào vai trò quản lý của Nhà nước. 3.2.2 Hoàn thiện quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường Trong lịch sử, các nền kinh tế hoàn thành quá trình công nghiệp hoá đều diễn ra trong thể chế kinh tế thị trường. Các nghiên cứu về công nghiệp hoá trước đây 76
  10. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” chủ yếu đề cập khía cạnh kinh tế - công nghệ và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá mà chưa chú ý đủ mức đến khía cạnh thể chế kinh tế, trong đó quá trình công nghiệp hoá diễn ra. Vì vậy, cần phải nhấn mạnh rằng, kinh nghiệm thực tế thế giới cho thấy, chính kinh tế thị trường là khung thể chế, là điều kiện tiên quyết để thực hiện công nghiệp hoá, để phát triển nhanh và bền vững thành công. Vì vậy, giải pháp then chốt nhất, quan trọng nhất trong những năm sắp tới là cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới với tinh thần sáng tạo, tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, xây dựng thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại, tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Đồng thời, Nhà nước sử dụng thể chế, pháp luật, các nguồn lực, công cụ điều tiết, chính sách phân phối và phân phối lại để phát triển văn hoá, thực chất dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội; đảm bảo an sinh xã hội; chăm lo cải thiện đời sống mọi mặt của nhân dân, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo. 3.2.3 Thúc đẩy sự phát triển của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo Trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hợp tác quốc tế hiện nay, Đảng ta luôn coi khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững. Hiện nay, trước những thách thức đặt ra từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đặc biệt chú trọng vai trò của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đảng ta xác định: “Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học và công nghệ”. Để khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đáp ứng được yêu cầu trở thành nền tảng, quốc sách, động lực cho phát triển kinh tế - xã hội như kỳ vọng. Trong thời gian tới, ngành khoa học và công nghệ sẽ tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, trong đó chú trọng đến việc xây dựng thể chế vượt trội và chấp nhận rủi ro trong hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; cần có nỗ lực toàn diện và đồng bộ để tháo gỡ các rào cản trong hệ thống luật pháp và chính sách để khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là các rào cản, vướng mắc từ các cơ chế chính sách kinh tế, đầu tư, thương mại. 77
  11. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Đặc biệt, phải tăng cường nguồn lực xã hội đầu tư cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo nhất là từ doanh nghiệp; chú trọng phát triển khoa học xã hội và nhân văn; gắn kết chặt chẽ, đồng bộ khoa học xã hội và nhân văn với khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ phục vụ phát triển nhanh và bền vững đất nước; tiếp tục đầu tư để phát triển, hiện đại hoá hạ tầng và tiềm lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. 3.2.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ đòi hỏi phải có vốn, khoa học công nghệ, tài nguyên thiên nhiên… mà còn phải phát triển một cách tương xứng năng lực nguồn lao động. Nguồn nhân lực chất lượng cao có vai trò quyết định tốc độ và chất lượng của sự phát triển kinh tế - xã hội. Để thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong kỷ nguyên số cần chú ý các giải pháp cụ thể: - Cải cách toàn diện giáo dục và đào tạo, phải thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước. - Xây dựng xã hội học tập dưới nhiều hình thức và biện pháp, tạo cơ hội và khuyến khích mọi người dân tham gia học tập, nâng cao tính chủ động cho người học trên cơ sở gắn kết với những yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời đại 4.0. - Nâng cao chất lượng toàn diện cho người lao động. Trong thời gian tới phải tạo ra được đội ngũ nhân lực có đức, có tài, ham học hỏi, sáng tạo, có nền tảng về văn hóa, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ… Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021) của Đảng đã khẳng định: Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu mới của phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; gìn giữ và phát huy bản sắc văn 78
  12. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” hóa dân tộc tốt đẹp của con người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 136-137). 4. KẾT LUẬN Hiện nay, Việt Nam đã và đang nỗ lực không ngừng để tiếp cận những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tiến đến số hoá trên tất cả các lĩnh vực nhằm rút ngắn thời gian công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Tuy nhiên, so với yêu cầu của kỷ nguyên số thì chúng ta cần phải mạnh mẽ đổi mới hoàn thiện quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường; thúc đẩy sự phát triển của khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực… Với những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá trong kỷ nguyên số, cùng với sự quyết tâm của cả Hệ thống chính trị sẽ sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bộ Chính trị. (2019). Nghị quyết về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (No. 52-NQ/TW). [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021a). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021b). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 2). Chính trị quốc gia Sự thật. [4]. Thủ tướng Chính phủ. (2017). Chỉ thị về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (16/CT-TTg). 79
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2