BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

rOREIQH T R ÀM UNNRRSITT

ĐỀ TÀI NGHIÊN cứu KHOA HỌC CẤP BỘ

TÊN ĐỀ TÀI:

TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOANG TÀI CHÍNH -

TIỀN TỆ C H ÂU Á TỚI ĐẦU Tư TRỰC TIẾP N ƯỚC NGOÀI (FDI) TẠI VIỆT NAM TRONG NHỮNG N ĂM QUA

VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC

MÃ SỐ: B 99-40-18

Chủ nhiệm đềm: Tiên sĩ vũ CHÍ L ỘC

Tham gia thức hiên đề tài

Thạc sĩ: vũ THỊ KIM OANH

Thạc sĩ: NGUY N THỊ VỆT HOA

Cử nhân: PHẠM THỊ MAI KBANHf7^7Ụ7|7P

Đĩ QOQ££

HÀ NỘI - 2000

ỈSQắ-

MỤC LỤC

Ì L ỜI NÓI ĐẨU

C H Ư Ơ NG ì: DIỄN BIẾN, N G U Y ÊN N H ÂN C ỦA cuộc K H Ủ NG HOẢNG 4 TÀI CHÍNH TIÊN TỆ Ở C H ÂU Á

4 ì. Diễn biến của cuộc khủng hoảng

li. Đặc điểm và nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ 7

IU. Những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Đông Á 20

C H Ư Ơ NG n : Ả NH H ƯỞ NG C ỦA KHỦNG HOẢNG TÀI - C H Í NH T I ỀN TỆ C H ÂU Á ĐẾN ĐẠU Tư TRỰC TIẾP N ƯỚC N G O ÀI

25 T ẠI V I ỆT N AM

25

32 ì. FDI tại Việt Nam trước khủng hoảng (trước năm 1997) li. Tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á đến FDI vào Việt Nam

C H Ư Ơ NG ni : C ÁC G I ẢI PHÁP H ẠN C HẾ TÌNH TRẠNG SUY G I ẢM FDI DO K H Ủ NG HOẢNG TÀI CHÍNH - T I ỀN TỆ VÀ T Ả NG C ƯỜ NG THU H ÚT FDI TRONG GIAI Đ OẠN T ỚI 58

58 ì. Triển vọng thu hút FDI tại Việt Nam trong thời gian tới n. Một số giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục hâu quả của khủng hoảng và 61 tăng cường thu hút FDI trong giai đoạn tới

85 KẾT L U ẬN

PHẠN PHỤ L ỤC Phụ lục la : Diễn biến cuộc khủng hoảng châu Á Phụ lục lb : Chi phí đầu tư tại các thành phố lớn ở Châu Á tháng 12/1999

Phụ lục 2 : Tình hình thu hút và sử dụng FDI ở Việt Nam giai đoạn 1988- 1999 Phụ lục 3 : Một số kết quả hoạt động của khu vực roi tại Việt Nam giai đoan 1988-1999 ' -

T HƯ Ví É w ' TRBBkB BAI H ÓC

TÀI L I ỆU T H AM K H ẢO

NGOAI T H U t l iO

LỜI NÓI ĐẦU

Rất nhiều giấy mực đã đổ ra để phân tích về nguyên nhân đưa đến sự sụp đổ bất ngờ của cái g ọi là "phép lạ kinh tế châu Á" chính là do cuộc khủng hoảng tài chính -tiền tệ Đông Á xảy ra vào tháng 7 n ăm 1997 và kéo dài cho đến n ăm 1999. Tới nay vốn chưa thể hình dung hết được hậu quả của nó đối với nền k i nh tế k hu vực và có thể dư vị của nó có thể còn kéo dài. Khác v ới nhiều cuộc khủng hoảng thông thường trên t hế giới, chỉ hoặc là khủng hoảng tiền tệ, hoặc là khủng hoảng tài chính, cuộc khủng hoảng k hu vực Đông Á vừa qua mang tính chất "kép", tức là vừa khủng hoảng tiền tệ, vừa khủng hoảng tài chính và toàn bộ hệ thống ngân hàng. Co thể noi, đây là đặc trưng quan trọng nhất của cuộc khủng hoảng này. Tính chất "kép" của cuộc khủng hoảng, một mặt làm cho khả năng tàn phá của nó trở nên dữ d ội và để lại dư vị kéo dài, nó tác động tới m ọi mặt của kinh tế-xã hội, tới các cơ sở nền tảng sâu xa của hệ thống kinh tế và chế độ chính trị-xã h ội và làm cho vấn đề trở nên hết sức phức tạp, khó nhận biết m ột cách chắc chắn và khó khắc phục.

Cuộc khủng hoảng dường như đã qua đi, nhưng ai d ám chắc những tác động của nó (cả tích cực và tiêu cực) hoàn toàn không còn nữa. Các nước vừa qua cuộc khủng hoảng này còn chưa hết bàng hoàng vì cơn "ác mộng" cả nền k i nh tế và cả chế độ chính trị-xã hội m ột số nước A S E A N, H àn Quốc và ngay cả Nhật Bản dường như con bị "sóng xung kích" của nó tác động khá mạnh, cho dù dấu hiệu tăng trưởng trở lại bằng các chỉ tiêu cơ bản đã khá hơn nhiều. Sau 3 n ăm đẩy sóng gió, bàn cờ k i nh tế châu Á đã được vẽ lai hoàn toàn, nhìn về tương lai thì con đường trước mặt còn l ắm chông gai. Để khôi phục lại những gì đã mất, các nước trong vùng đã phải tìm m ọi cách mà trong đó tăng xuất khẩu và tích cực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xem ra là phương sách tốt nhất.

Là một nước Châu Á, Việt nam khó tránh khỏi ảnh hưởng của cuôc khủng hoảng tài chính - tiền tệ vừa qua. H ơn nữa, chiến lược phát triển cua V i ệt nam từ k hi thực hiện đường l ối "mở cửa" và k i nh tế thị trường t ới nay đã từng chịu tác động ngày càng tăng bởi thực tế phát triền của k hu vực

Đông A. Bản thân cuộc khủng hoảng này có những biểu hiện rất phức tạp và tác động của nó tới nền k i nh tế V i ệt nam còn phức tạp hơn nhiều b ởi chính nền k i nh tế và xã h ội nước ta. Các nhà quản ly, các nhà nghiên cứu đã tôn nhiều công sức để tìm hiểu, để phân tích và cũng đã đưa ra nhiều quan điểm và ý kiến rất khác nhau. Trong k hi các nước trong k hu vực (Thái L an Han Quốc, Malaisia...) bị tác động mạnh nhất của cuộc khủng hoảng dường như đã thoát được ra và phần nào lấy lại tốc độ tăng trưởng, thì V i ệt nam vốn trong tình trạng suy giảm và trì trệ, đặc biệt trong lĩnh vực thu hút F DI

Ì

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Sự giảm sút nặng nề F DI từ n ăm 1998 trở lại đây buộc chúng ta phải nhìn nhận lại một cách khoa học và khách quan chính sách k i nh tế đối ngoại của mình, đặc biệt là chiến lược thu hút F DI và các giải pháp hỗ trợ, tăng cường, để từ đó tìm ra hưững đi đúng nhằm thúc đẩy hơn nữa, hiệu quả hơn nữa nguồn v ốn quan trọng này trong quá trình thực hiện thắng l ợi đường l ối còng nghiệp hoa, hiện đại hoa đất nưữc.

Đề tài nghiên cứu nhằm:

- Phân tích nguyên nhân, tìm hiểu nguồn gốc sâu xa của cuộc khủng

hoảng ở những nưữc bị tác động nặng nề để rút ra những bài học cần thiết.

- Phân tích, đánh giá tác động và mức độ ảnh hưởng của cuộc khủng

hoảng tữi việc thu hút và triển khai thực hiện F DI tại V i ệt nam. Tác động của khủng hoảng tữi F DI bao gồm cả tác động tích cực và tiêu cực, tuy nhiên, đề tài sẽ tập trung nhiều hơn, phân tích sâu sắc hơn tác động tiêu cực tói F D I, đây là nguyên nhân (trực tiếp và gián tiếp) quan trọng làm suy giảm F DI tại V i ệt nam trong những n ăm gần đây.

- Đưa ra một số các giải pháp có tính chiến lược và các giải pháp cấp bách nhằm hạn chế tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tữi F DI va tiếp tục tăng cường thu hút F DI trong thời gian tữi.

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực Châu Á được giữi hạn về mặt thời gian từ tháng 7 n ăm 1997 đến hết n ăm 1999, nên hoạt đọng F DI cũng chủ yếu được nghiên cứu trong phạm vi thời gian đó. Các giai đoạn trưữc đó được đề cập chỉ có tính chất tham khảo và so sánh, đối chiếu nhăm làm rõ phạm vi nghiên cứu của đề tài và mục tiêu mà đề tài đặt ra.

3. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài sẽ sử dụng hệ thống các phương pháp phân tích và tổng hợp tư liệu. Phương pháp lập giả định được sử dụng để xác định giữi hạn và phạm vi nghiên cứu và hỗ trợ cho việc hệ thống hoa những tác động cụ thể cua cuốc khủng hoảng tài chính - tiền tệ tữi F DI tại V i ệt nam. Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, các tác giả sử dụng triệt để phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp lịch sử.

4. Phương pháp nghiên cứu

Bộ môn Đầu tư và Chuyển giao công nghệ, Trường đại học Ngoại thương được giao nhiệm vụ nghiên cứu, đào tạo các chuyên để về đầu tư quốc tế và Chuyển giao công nghệ cho các loại hình đào tạo (Cử nhân Thạc sỹ và Tiến sỹ) của Trường là đòn vị tổ chức thực hiện đề tài này.

Trực tiếp tham gia nghiên cứu đề tài gồm:

- Tiến sĩ Vũ Chí Lộc, Chủ nhiệm bộ môn, chủ nhiệm đề tài

2

5. Tổ chức nghiên cứu đề tài

- Thạc sĩ Vũ Thị Kim Oanh, giảng viên, thành viên

- Thạc sĩ Nguyễn Thị Việt Hoa, giảng viên, thành viên

- Cử nhân Phạm Thị Mai Khanh, giảng viên, thành viên

Nhóm nghiên cứu cũng đã nhận được sự hỗ trợ của PGS.TSKH Nguyễn Bích Đạt, nguyên là Chủ nhiệm Bộ môn Đầu tư và Chuyển giao công nghệ và hiện nay là Vụ trưấng Vụ Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, người đã cung cấp một số các tư liệu, thông tin cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này.

3

C H Ư Ơ NG I

DIỄN BIÊN, NGUYÊN NHÂN CỦA cuộc KHỦNG HOẢNG

TÀI CHÍNH TIÊN TỆ ở CHÂU Á

ì. DIỄN BIẾN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG

Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ tại một số nước Đông A bắt đẩu từ Thái Lan vào tháng 7 năm 1997 khi nước này tuyên bố chấm dứt chế độ cố định tỷ giá theo đồng đô la Mỹ. Cuộc khủng hoảng này sau đó đã lan rộng ra nhiêu nước khác trong khu vục như Malơysia, Indonesia, Philippines, Hàn Quốc. Biểu hiện của cuộc khủng hoảng là đổng tiền của các nước này bị giảm giá liên tục và xuống đến mức thấp kỷ lục, giá chứng khoán và bất động sản cũng giảm nhanh chóng và nhiều ngân hàng, tổ chức tài chính lâm

vào tình trạng phá sản. Kết quả là một số nước châu Á phải trải qua thời kỳ tăng trưởng thấp và mất niềm tin của các nhà đẩu tư nước ngoài.

1. Bôi cảnh của cuộc khủng hoảng

Trong ba thập kỷ từ 1965-1995, các nước Đông Á đã có tốc độ tăng trưởng k i nh tế trung bình trên 8% n ăm (so với 2% ở các nước công nghiệp hoa). Trước đó, trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới chưa từng có k hu vực nào duy trì được mức tăng trưởng nhanh và bền vững trong suốt m ột thời

gian dài như vậy. Bốn "con h ả" Châu Á tiên phong là Hồngkông, Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan đã gia nhập các quốc gia phát triển (dựa trên chi tiêu GDP/đầu người). Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Thái L an đã gần đuải kịp các con hả đi trước. Tuy có bối cảnh văn hoa lịch sử và thể chế chính trị khác nhau, các nước này đều có chính sách kinh tế mở, tích cực h ội nhập với khu vực và thế giới, có tỷ lệ tiết k i ệm xã hội và tỷ lệ đầu tư cao (tỷ lệ tiết k i ệm trung bình là 3 0% và tỷ lệ đầu tư là 35-40% GDP) và có m ột điểm chung nữa là lực lượng lao động hiếu học, làm việc chăm chỉ, kỷ luật. Tất cả những đặc trưng trên đã tạo ra cái gọi là điều kỳ diệu châu Á, và trên thực tế tỷ trọng thu nhập của Châu Á trong thu nhập chung của cả thế giới đã tăng từ 1 9% n ăm 1950 lên 3 3% n ăm 1992. Trong các báo cáo của WB (Ngân hàng thế giới) và I MF (Quỹ Tiền tệ quốc tế) chúng ta thấy rất nhiều đánh giá cao và những l ời "tán tụng" triển vọng phát triển của các quốc gia này. V ào n ăm 1994, nhà kinh tế học n ải tiếng Paul Krugman đã viết trong cuốn Foreign Affairs rằng "sự tăng trưởng nhanh dường như có vẻ giả tạo". K hi đó, nhận định này của ông đã bị nhiều nhà kinh tế khác nghi n gờ và phê bình gay gắt. Chỉ tới k hi cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong k hu vực nả ra thì l ời nhận định của p. Krugman m ới tỏ ra là m ột sự dự báo đáng giá. T uy nhiên, đã không có nhà k i nh tế học nào đoán đúng bệnh, dự đoán đung t ầm

mức của cuộc khủng hoảng Đông N am Á và Đông Á vào cuối thập kỷ 90 mà cuối cùng đã dẫn đến cơn chấn động toàn cầu. Cho t ới nay, cồ nhiều nha

4

nghiên cứu trong và ngoài nước vẫn không hết bàng hoàng đã tự đặt câu hỏi, n iu Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ vào cuối n ăm 1998 tiếp theo đồng Yên Nhật mất giá thì không biết tình hình kinh tế thế giới sẽ như thế nào.

Mặc dù tháng 7 năm 1997 cuộc khủng hoảng m ới nổ ra nhưng thực tế là từ n ăm 1996 đã xuất hiện nhểng lo ngại về một số nền k i nh tế quá nóng, được thể hiện ở nhểng thâm hụt tài khoản vãng lai ở mức cao, nợ ngắn hạn nước ngoài lũy kế tăng, sự t in tưởng của các nhà đầu tư bắt đầu giảm, giá chứng khoán trên thị trường chứng khoán ở một số nước như Hàn Quốc và Thái Lan giảm mạnh, thất thường. Tốc độ tăng trưởng của cả k hu vực giảm từ 2 0% trong hai năm 1994-95 xuống còn 5% n ăm 1996. Đến đầu n ăm 1997, các điều kiện kinh tế vĩ mô ở hầu hết các nước trong k hu vực đã trở nên xấu đi: thâm hụt tài khoản vãng lai càng cao, nợ nước ngoài ngắn hạn lũy kế lớn, đầu tư quá mức vào các dự án rủi ro cao và lợi nhuận thấp, nhiều công ty đã bị phá sản và nhiều khoản vay không trả được.

Ngay trong quý ì n ăm 1997, nền kinh tế Thái Lan đã cho thấy nhểng túi hiệu rõ ràng của một cuộc khủng hoảng, đó là nhểng đạt tấn công có tính chất đầu cơ vào đổng Baht và việc đóng cửa một số công ty tài chính đã vay nợ từ các tổ chức nước ngoài để cung ứng túi dụng quá mức cho lĩnh vực bất động sản và mua cổ phiếu. Đã có nhểng so sánh và liên tưởng t ới cuộc khủng hoảng Nợ ở Mexico nhưng khổng ai có thể ngờ rằng thời điểm khởi đầu của khủng hoảng chính là vào ngày 2/7/1997, sau k hi tung ra gần 24 tỷ USD để giể giá đồng Bath nhưng không thành công, Thái L an chính thức tuyên bố thả nổi đồng Baht, và ngay lập tức trong tuần đó đồng Baht bị mất giá 15%. Sự mất giá của đồng Baht đã châm ngòi cho cuộc khủng hoảng có quy mô và mức độ tàn phá lớn nhất trong lịch sử thế giới.

Sự giảm giá của đồng Baht đã tạo ra sức ép làm mất lợi thế cạnh tranh của các nước có điều kiện kinh tế vĩ mô và mặt hàng xuất khẩu tương tự như Thái Lan, đó là Malaysia, Indonesia và Philippines và cuối cùng làm đồng tiền của các nước này bị giảm giá theo. Ngày 11/7/1997 Philippines thả n ổi đồng Peso, sau đó là Malaysia, ngày 14/8/1997 Indonesia tuyên bố thả n ổi đồng Rupiah.

Ngày 5/8/1997, tức là chỉ hơn Ì tháng sau cuộc khủng hoảng, ngân hàng thương mại Thái Lan đã phải tạm ngừng hoạt động của 42 công ty tài chính, đưa tổng số công ty bị đóng cửa lên 58/90 với tổng số nợ 1391 tỷ bath. I MF đưa ra chương trình viện trợ cả gói cho Thái L an 17,2 tỷ USD với nhểng điều kiện ngặt nghèo.

Bốn tháng sau, tháng 10 và tháng 11/1997, khủng hoảng lan sang Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Nhật bản và gây ra các hậu quả nghiêm trọng cho các nền kinh tế liên quan. Ngày 21/11/1997, Bộ trưởng Tài chính Hàn Quốc thông báo Chính phủ Hàn Quốc chính thức đề nghị I MF hỗ trợ sau k hi đồng W on giảm giá mạnh. Nhưng chỉ hai tuần sau k hi I MF công bố khoản hỗ trợ tài chính cả gói 57 tỷ USD cho Hàn Quốc, đồng W on đã giảm xuống

2. Diễn biến của cuộc khủng hoảng (Xemphụ lục số!)

5

mức kỷ lục 1926 Won/ Ì USD do có tin Hàn Quốc nợ tới 220 tỷ USD, IMF và G7 quyết định giải ngân khẩn cấp cho Hàn Quốc lo tỷ USD. Cùng vào thời điểm cuối tháng li, Nhật Bản, nước láng giềng gần gũi với khu vực Đông Nam Á, với kim ngạch buôn bán và đầu tư song phương ủ mức độ cao, cũng không nằm ngoài ảnh hưủng của cuộc khủng hoảng. Yamachi, một trong 4 công ty chứng khoán lớn nhất của Nhật bản đã phải tuyên bố phá sản, kết thúc 100 năm tồn tại, để lại khoản nợ không có khả năng thanh toán lên tới 3000 tỷ yên (khoảng25 tỷ USD). Trái với những dự đoán vội vã ban đầu của các tổ chức tài chính và các

chuyên gia IMF, rằng cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ này sẽ kết thúc vào cuối năm 1997, cho tới năm 1999 cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục lan rộng và phát huy tác động của nó và thực tế đến nay dư âm và hậu quả của nó còn chưa thể xác đinh chắc chắn .

Ngày 8/1/1998, đồng Rupiah Indonesia đã giảm giá vượt quá mức nhạy cảm 10.000 Rupiah/1 USD xuống còn 10.225/1 USD. Sau đo, hàng loạt các đổng tiền khác trong khu vực đều bị mất giá ủ mức kỷ lục mới. Rất may mắn cho nền kinh tế thế giới nói chung và khu vực là trong hoàn cảnh đó, Chính phủ Trung quốc vẫn quyết định không phá giá đồng nhân dân tệ.

Ngày 6/4/1998, IMF cho rằng thời điểm tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng đã qua nhưng tới ngày 15/5, tỷ giá đổng Yên Nhật so với đồng USD đã xuống tới mức thấp nhất kể từ tháng 8/1991 (137,07 Yên/1 USD) báo hiệu nguy cơ khủng hoảng vòng 2 của khu vực này. Giá đồng Yên tiếp tục giảm gây sức ép phá giá đồng nhân dân tệ nhưng một lần nữa, Trung Quốc khẳng định sẽ không phá giá đồng tiền nước mình và cam kết bảo vệ đồng nhân dân tệ ít nhất trong Ì năm. Chỉ số chứng khoán trên thị trường Hồng kông và Đài Loan sụt giảm. Đồng Yên Nhật đã mất giá dần tới điểm nhạy cảm (150 Yên/1 USD) và đạt 146,55 Yên/1 USD, gây ra tâm lý lo sợ trên toàn cầu. Các bộ trưủng tài chính các nước EU đã ra tuyên bố đặc biệt yêu cầu Nhật Bản củng cố hệ thống tiền tệ. Ngày 17/6/ 1998, Mỹ vào cuộc Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã phối hợp với Ngân hàng trung ương Nhật Bẩn để cứu trợ đồng Yên bằng cách bỏ ra 2 tỷ USD. Sự phối hợp này đã làm cho giá đồng Yên lập tức được khôi phục ủ mức 136,2 Yên/1 ỨSD. Tâm lý lo sơ cuộc khủng hoảng vòng 2 được giải toa.

Ngày 20/6/1998, Hội nghị các thứ trưủng tài chính và thống đốc Ngân hàng nhà nước nhóm G7 và li nước châu Á - Thái Bình Dương họp tai Tokyo thảo luận về việc ổn định đồng Yên, ngăn chặn cuộc khủng hoảng tiền tệ vòng 2 tại khu vực và tìm cách khôi phục lại nền kinh tế Nhật Ban đang suy thoái. Hội nghị ra tuyên bố 9 điểm, trong đó hoan nghênh sự phôi hợp Nhật-Mỹ can thiệp vào thị trường để hỗ trợ đồng Yên của Nhật bản- hoan nghênh Trung Quốc cam kết duy trì giá đồng nhân dân tệ; kêu gọi Nhật Bản sớm điều chỉnh hộ thống tiền tệ, giải quyết các khoản nợ khó đoi và cai cách chế độ thuế; hoan nghênh chế độ cải cách kinh tế của Indonesia nhằm ổn định tình hình.

6

WB và Chính phủ Anh đã ký thoa thuận thành lập quỹ tín dụng ASEM

(được khởi xướng tại Hội nghị thượng đỉnh ASEM li đầu tháng 4/1998) để khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng với số vốn ban đầu vào khoảng 35-40 tổ USD.

2/7/19198, tròn Ì năm sau khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á, Chính phủ Nhật Bản chính thức thông qua kế hoạch thành lập hệ thống ngân hàng cầu nối để giải quyết các khoản nợ khó đòi của các tổ chức tiền tệ đã bị phá sản, quyết đinh này được dư luận hoan nghênh và ủng hộ. Các quốc gia khác cũng có những biện pháp để khắc phục hậu quả của riêng mình.

li. ĐẶC ĐIỂM VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA cuộc KHỦNG HOẢNG TÀI C H Í NH - TIỀN TỆ

Cho đến nay, hơn 3 năm đã trôi qua, cuộc khủng hoảng gần như đã chấm dứt hoàn toàn, những tín hiệu đáng mừng về quá trình phục hổi kinh tế khu vực đang mạnh dần. Thời điểm tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng đã qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới đã dần dần được phục hồi, năm 1999, tăng trưởng ở mức 3,2%, dự kiến tăng trưởng năm 2000 là 5%. Tại châu Á, lạm phát và xáo trộn tổ giá đã được kiềm chế. Theo số liệu của IMF, một số nước trong khu vực đã có chuyển biến tích cực. Cụ thể là: Hàn Quốc đạt mức tăng trưởng 2% năm 1999, dự báo năm 2000 là 4,6%; Indonesia là -1,1% (so v ớ i- 13,7% năm 1998) và dự kiến 3,3% năm 2000; Malaysia: 0,9% năm 1999 và 2% năm 2000; Thái Lan: 0,5% năm 1999 và 4,2% năm 2000(1)'. Riêng Việt nam năm 2000 tăng trưởng kinh tế chắc chắn khoảng 6 %, thuộc loại cao của các nước trong khu vực.

Không phải các cuộc khủng hoảng tài chính tiên tệ đêu giống nhau cho dù những dấu hiệu bề ngoài là có vẻ như nhau. Việc phân tích lịch sử tỷ mỹ dựa trên lý thuyết giúp chúng ta có thể phân biệt những đặc điểm chính của bất cứ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ c thể nào, bao gồm cả cuộc khủng hoảng châu Á.

Theo các nhà kinh tế, có ba loại khủng hoảng tài chính tiền tệ: Khủng hoảng Tiền tệ, Khủng hoảng Ngân hàng và Khủng hoảng Nợ.

Theo mô hình của Paul Krugman (1979), Khủng hoảng Tiền tệ (hay khủng hoảng cán cân thanh toán) biểu hiện ở việc đồng tiền bị mất giá, dự trữ ngoại hối suy giảm và sự sụp đổ của hệ thống tổ giá hối đoái co định. Khủng hoảng xuất hiện khi Chính phủ áp dụng các chính sách tài chính và tiền tệ không hợp lý trong khi cố định tổ giá, thâm hụt cán cân thương mại trong một thời gian dài; hoặc bị khủng hoảng ngân hàng tác động, thông qua việc Nhà nước phải phát hành thêm tiền để trợ giúp ngành ngân hàng.

Theo Micheal D.Bordo (1985), Khủng hoảng Ngân hàng là tình trạng mọi người đổng loạt rút tiền gửi hoặc nhiều ngân hàng thất bại trong việc

' Trang 73, Kinh tế 1999-2000 Việt Nam và IM giói-Tliời báo kinh tế Việt Nam

7

thanh toán các khoản nợ đến mức phải có sự hỗ trợ của Chính phủ ở quy mô lớn.

Nhưng dấu hiệu nào để có thể phân biệt đâu là một cuộc khủng hoảng Ngân hàng? Trên thực tế, rất khó nhận biết loại khủng hoảng này; một phần bởi bản chất của vấn đề, một phần nữa là thiếu các thông tin chính xác. T uy nhiên, theo các chuyên gia kinh tế thì sự thay đửi tài sản có và tài sản nợ trong bản quyết toán của ngân hàng là những dấu hiệu tốt nhất để nhận biết một cuộc khủng hoảng Ngân hàng.

Mặc dù ở hầu hết các nước, những thông tin về tiền gửi ngân hàng là sẵn có và là dấu hiệu để nhận biết khủng hoảng Ngân hàng k hi xuất hiện hiện tượng m ọi người đồng loạt rút tiền gửi, nhung trong những n ăm gần đây hầu hết những vấn đề khó khăn của hệ thống ngân hàng ở các nước đang phát triển không xuất phát từ bên tài khoản nợ trong bản quyết toán của ngân hàng, nghĩa là không có hiện tượng m ọi người rút tiền đồng loạt (chẳng hạn như khủng hoảng ngân hàng ở Phần Lan, Na Uy, Thúy Điển vào cuối những n ăm 80 và gần đây là ở Nhật Bản). Tại những nước đang phát triển thì ngược lại, hầu hết các cuộc khủng hoảng ở những nước này đều liên quan đến việc rút tiền gửi đồng loạt (như khủng hoảng ngân hàng trong những n ăm 80 và 90 ở Argentina, Phillipines, Thái Lan, Thử Nhĩ Kỳ, Uruguay, Venezuela). Trong cuộc khủng hoảng tài chính gần đây ở Indonesia, m ọi người đử xô đi rút tiền gửi k hi có những thông tin về sự khó khăn trong việc thu h ửi các khoản cho vay của ngân hàng và những tâm lý bất ửn lan rộng về sự phá giá đồng tiền.

Nhìn chung, các cuộc khủng hoảng Ngân hàng đều xuất phát từ bên tài sản trong bản quyết toán cua ngân hàng chẳng hạn sự suy giảm kéo dài của chất lượng tài sản. Điều này cho thấy: các biến số như: tỷ phần các khoản nợ khó đòi trong danh mục cho vay của ngân hàng, sự biến động mạnh của giá bất động sản và giá cử phiếu, sự thất bại trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp đều được sử dụng để nhận biết khủng hoảng Ngân hàng. Nhưng vấn đề khó khăn là những thông t in về các biến số trên hầu như không sẩn có và đầy đủ ở các nước đang phát triển (ví dụ như những thông tin về nợ khó đòi). Thậm chí có k hi Ngân hàng Trung ương ( N H T W) có đầy đủ thông tin về các khoản nợ khó đòi nhưng vẫn rất chậm chạp trong việc phân tích và đưa ra những chính sách đúng đắn để đối phó. Chính vì những giới hạn kể trên mà theo các nhà kinh tế, dấu hiệu để nhận biết khủng hoảng Ngân hàng là sự kết hợp của các hiện tượng sau: một số ngân hàng bị đóng cửa, sát nhập hoặc quốc hữu hoa, hiện tượng rút tiền gửi đồng loạt, sự trợ giúp ngày càng tăng của Chính phủ cho một hoặc nhiều cơ quan tài chính.

Cuối cùng, khủng hoảng Nợ là tình trạng mà ở đó m ột nước không có

khả năng chi trả nợ nước ngoài, cho dù là nợ Chính phủ hay nợ tư nhân.

Khác v ới nhiều cuộc khủng hoảng thông thường trên t hế giới- chỉ

hoặc là khủng hoảng tiền tệ, hoặc là khủng hoảng tài chính (khủng hoảng

Ngân hàng hay khủng hoảng Nợ)-, cuộc khủng hoảng Châu Á vừa qua mang

8

tính chất "kép"- vừa khủng hoảng tiền tệ, vừa khủng hoảng tài chính- hay cả khủng hoảng Tiền tệ, khủng hoảng Ngân hàng, khủng hoảng Nợ xảy ra đồng thời. Đây là đặc trưng quan trọng bậc nhất của cuộc khủng hoảng này và được các chuyên gia thống nhất gọi là "khủng hoảng tài chính - tiền tệ".

Tính chất "kép" của cuộc khủng hoảng, m ột mặt, làm cho năng lực tàn phá v ốn có của nó trở nên khốc liệt và kéo dài hơn nhiều. Nó động chạm đến các cơ sở nền tảng sâu xa của toàn bộ hộ thống kinh tế và chế độ chính trầ-xã hội chứ không chỉ đơn thuần gây ra những khó khăn, trở ngại lớn cho quá trình tăng trưởng và ổn đầnh kinh tế vĩ m ô. M ặt khác, tính chất "kép" h àm nghĩa rằng các nguyền nhân gây ra khủng hoảng tạo thành m ột hệ thống rất phức tạp chứ không phải là một vài nguyên nhân đơn lẻ, dễ nhận biết rõ ràng và khắc phục nhanh chóng. Đây thực sự là tính phức tạp, đa dạng của cuộc khủng hoảng và chưa có trong tiền lệ và đã làm cho m ọi tính toán, dự báo bầ sai lệch.

Hai khía cạnh trên chỉ ra rằng quá trình vượt ra k h ỏi khủng hoảng của các nền k i nh tế Châu Á thực tế đã khó khăn hơn nhiều so v ới nhiều cuộc khủng hoảng trước đây (ví dụ như cuộc khủng hoảng M e x i co 1994-95). Đồ ng thời nó quy đầnh m ột cách tiếp cận m ới đến việc phân tích nguyên nhân, động thái của khủng hoảng.

Cho đến nay, hàng loạt nguyên nhân khủng hoảng đã được chỉ ra. Nói chung, không có sự bất đổng ý kiến lớn về từng nguyên nhân riêng biệt. T uy nhiên, k hi xem xét vai trò của từng nguyên nhân lại có sự khác biệt không nhỏ. M ột số người cho rằng việc thực thi chính sách tỷ gia h ối đoái cố đầnh gắn chặt vào đồng đô la Mỹ và có xu hướng đánh giá cao đổng n ội tệ trong một thời gian dài là nguyên nhân chính gây ra khủng hoảng. Những người khác lại quy trách nhiệm chính cho tình trạng thâm hụt nặng nề cán cân thương m ại và tài chính quốc tế (nợ nước ngoai) hay cho sự yếu k ém trong điều tiết vĩ mô của nhà nước, nạn đầu cơ tiền tệ và sự phá hoại của m ột số nhà đầu cơ tiền tộ quốc tế;... Xét theo những nguyên nhân riêng biệt thì các ý kiến trên đều dựa trên các luận cứ rất thuyết phục. Song, vì nền k i nh tế la một tổng thể hữu cơ nên các nguyên nhân đều tác động lẫn nhau, vừa là hâu quả, vừa là nguyên nhân của nhau trong vòng tuần hoan liên tục của sự vạn động. Việc đề cao các nguyên nhân đơn lẻ mà không đánh giá đúng mức vai trò của các nguyên nhân khác thường dẫn đến sự phiến diện.

Bên cạnh đó, các quốc gia lại có sự khác biệt về trình độ điều kiên phát triển và về mức độ ảnh hưởng của cắc yếu tố quốc tế nên ở từng quốc gia khác nhau, vai trò và mức độ tác động của từng nguyên nhân la khác nhau và có những nguyên nhân chỉ phát huy tác dụng ở quốc gia nay ma không phát huy tác dụng ở quốc gia khác. Trong số 8 nền k i nh tế than ky châu Ạ, có m ột số nền kinh tế bầ chấn động khủng hoảng tương đối ít hơn như Singapore, Đài Loan bởi các nền kinh te này không co nhiều yêu tố câu trúc giống như các nền k i nh tế khủng hoảng. Trong đo Singapore chầu anh hưởng mạnh hen do có sự gần kề tâm bão hem và do có mức độ liên két về cơ cấu k i nh tế chặt chê hơn v ới các nền k i nh tế khủng hoảng. Nhà tai phiệt My

9

và là người bị báo chí cho là kẻ đã gây ra cuộc khủng hoảng này George

Soros đã nói "...việc cho các nước Châu Á vay quá mức của các ngân hàng

Nhật, Mỹ và Châu Âu là nguyên nhân chung của cuộc khủng hoảng, nhưng không phải là nguyên nhân duy nhất. Tại m ỗi nước lại có những nguyên nhân riêng, ví dụ như ể Malaisia, phần lớn các khoản vay là vay trong nước chứ không phải là vay nước ngoài, còn ở Inđônêsia, nguyên nhân không hẳn là do vay quá mức". [24]

N hư vậy, càng không thể liệt kê đầy đủ từng nguyên nhân riêng biệt mà có thể nhận thấy rằng cách tiếp cận tổng thể đến hệ thống nguyên nhân của cuộc khủng hoảng Đông Á, xác định đúng logic của nó là cách tiếp cận hợp lý nhất.

Trước khi rơi vào vòng xoáy khủng hoảng, các nền kinh tế Đông Á đã rơi vào tình trạng phải gánh chịu gánh nặng nợ khổng l ồ. Gánh nặng này không chỉ có nợ quốc tế mà còn có nợ trong nước; không chỉ nợ Chính phủ mà còn nợ tư nhân. Sự đan kết nợ nần làm cho các quan hệ k i nh tế trể nên phức tạp, khó k i ểm soát và là nguồn gốc bất ổn định vĩ mô hàng đẩu k hi khủng hoảng được châm ngòi. Qua Bảng 1.1 dưới đây cho thấy nợ nước ngoài của các nước trong khu vực rất nghiêm trọng.

1. Hội chứng vay nợ quá mức

Bảng 1.1 Nợ nước ngoài của một số nước trong khu vực trước và

sau phá giá đồng tiền

S TT

Tên nước

Mức độ phá giá đồng tiền (%)

1 2 3 4 5

Thái lan Malaysia Philippin Indonesia Hàn Quốc

Nợ nước ngoài (tỉ USD) trước khi phá giá 85 29 43,5 109,3 no

Nơ nước ngoài (tỉUSD) sau khi phá giá 119 36,5 54,4 150,8 132

40 25,9 25 38 20

Nguồn: Châu Á từ khủng hoảng nhìn về thế kỷ 21-Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí

Minh, Trung tâm VAPEC, Thời báo kinh tế Sài Gòn 2000.

K hu vực Đông Á, nhò tăng trưểng cao và bền vững, đã trể thành "miền đất hứa" của đầu tư quốc tế, hiện tượng "thần kỳ k i nh tế châu Á" r ồi "trung tâm k i nh tế t hế giới chuyển từ châu Âu sang châu Á"... T r o ng thập niên 1980, k hi nền k i nh tế thế giới nói chung có xu hướng đình trệ và dư thừa vốn, theo quy luật nước chảy chỗ trũng, dòng v ốn quốc tế đã đổ rất mạnh vào đây, chỉ thua Mỹ và vượt xa các khu vực khác trên thế giới. Cả hai yếu tố này (sức hút đầu tư và xu hướng cạnh tranh cho vay) đã làm cho cả người vay lẫn cho vay bỏ qua nhiều quy tắc an toàn t ối thiểu của hệ thống ngân hàng. L ợi thế vốn quốc tế nhiều và rẻ đã trể thành cái bẫy tài chính r ủi ro đối với Đ ô ng Á. Từ 1992 đến cuối 1996, riêng các nền k i nh tế Đông N am Á vay m ượn ít nhất 700 tỷ USD tít các ngân hàng Nhật, Tây Âu và Mỹ (13)

Với tư cách là nguyên nhân quan trọng hàng đầu gây ra khủng hoảng, nợ của Đông Á gắn với một số tình huống và có những đặc điểm nổi bật sau đây:

- Khối lượng nợ nước ngoài tăng nhanh (xu hướng tích đọng nợ). Ví dụ, nợ nước ngoai của Thái Lan tăng từ 3 8% GDP năm 1990 lên 9 0% GDP năm 1996. (3)

- Tỹ lệ vốn vay nước ngoài từ khu vực tư nhân ngày càng lớn.

- Trong khi đó các dự án đầu tư đã không được lựa chọn kỹ càng, do vậy mức độ mạo hiểm ngày càng cao.

Thực tế là vốn vay của Đông Á có cơ cấu nghiêng dần về vốn ngắn hạn, tạo ra xu hướng vay vốn ngắn hạn để tài trợ cho các dự án khổng lồ dài hạn (Theo IMF, vốn vay ngắn hạn nước ngoài của Hàn Quốc ít nhất là hơn 100 tỷ USD, của Thái Lan, Indonesia và Malaysia chiếm 7-10% GDP trong các năm 1994-96 trong khi đó nguồn vốn FDI chỉ là 1% GDP) hay tài trợ cho các dự án đầy tham vọng và ít hiệu quặ (Ví dụ như tháp đôi Petronas, cầu xuyên eo biển Malacca, hàng loạt dự án xây dựng sân gòn và cao ốc văn phòng hay các dự án sặn xuất những mặt hàng thiếu thị trường tiêu thụ như ô tô, hàng điện tử, ...).Tốc độ tăng vốn ngắn hạn nhanh đã làm cho nền kinh tế này nóng lên. Một khối lượng tiền vay lớn đã được dùng để đầu cơ bất động sặn. Giá bất động sặn tăng vọt nhanh chóng làm méo mó các mối liên hệ kinh tế khác (ví dụ như làm tăng giá cổ phiếu, lãi suất, các quan hệ thế chấp tài sặn,...), tạo nên sự hào nhoáng của những nền kinh tế bong bóng. Điều này phần nào đã làm phát triển xu hướng chuyển sang xã hội tiêu dùng cao (mua xe hơi đắt tiền, các hàng xa xỉ hay các căn hộ sang trọng,...). Kết quặ là nợ quá hạn quốc gia tăng nhanh và đạt tới con số khổng lồ. Tính đến tháng 611998, con số này ở Hàn Quốc lên đến 92 tỷ USD, bằng 30% tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng. Tỷ lệ này ở Phillipines là 15%, Malaysia là 22%, Thái Lan là 35%, và kỷ lục ở Indonesia là 50%.

- Vay tư nhân trong nước rất lớn và tích đọng ngày càng nhiều số nợ không có khả năng thanh toán. Cùng với tình trạng ngày càng xấu đi của các yếu tố kinh tế khác, số nợ không có khả năng hoặc ít khả năng hoàn trả ngày càng gia tăng. Đây là hệ quả không tránh khỏi của làn sóng đầu cơ bất động sản, tình trạng đầu tư kém hiệu quả, năng lực quản lý cua hệ thống ngân hàng kém hiệu quả và nạn đầu cơ tiền tệ vào thời điểm khủng hoảng sắp bùng nổ. Điều này tạo nên áp lực rất lớn lên cả hệ thống tài chính cũng như hệ thống tiền tệ ở các nước này.

Vì tất cả các lý do nêu trên, đã xuất hiện và gia tăng nhanh hàng loạt mất cân đối vĩ mô lòn trong nền kinh tế. Đó là:

- Xu hướng lệch pha cơ cấu giữa các ngành

li

- Giảm năng lực trả nợ trong k hi nợ nước ngoài tăng nhanh, cán cân

mậu dịch và cán cân vãng lai ngày càng thâm hụt nặng nê

Hậu quả tất yếu của tình trạng trên là:

Nền kinh tế bị nóng lên nhanh do đầu tư ồ ạt vì vay m ượn được nhiều vốn với giá rẻ. T h âm hụt các cán cân mậu dịch và thanh toán quốc tế gây áp lực càng mạnh lên hệ thống tiền tệ, đặc biệt là tắ giá hối đoái.

Với hội chứng vay nợ nước ngoài, các nền kinh tế Đông Á bắt đầu xa rời một trong những thế mạnh chủ yếu trong mô hình phát triển của mình: đầu tư cao chủ yếu dựa vào tiết kiệm nội địa cao. Trong điều kiện nền kinh tế mở, quá trình tích đọng nợ nước ngoài đi liền với sự phá vỡ các yếu tố cấu trúc khác của mô hình phát triển kinh tế trỏ thành nguyên nhân căn bản đẩy nền kinh tế vào áp lực xoáy lốc, đè lên cả hệ thống tài chính lẫn tiền tệ. Khủng hoảng trở thành tất yếu về xu hướng. Chỉ cần một tác nhân châm ngòi, bùng nổ sẽ xẩy ra.

"Trường hợp của Hàn Quốc thì tôi biết khá rõ- GSoros nói, tỷ lệ nợ trên tải sản của các Chaebol là không thế chấp nhận được. Thêm vào đó, lợi nhuận sản xuất kinh doanh lại rất thấp, thu nhập chỉ bằng 1,3 lần chi phí nợ mà phần lớn lại dành cho việc trả lãi vay. Vì thế, khi các công ty gặp khó khăn thì giã ngân hàng rất lo lắng không biết các công ty này có thế thanh toán được không. Qua đó ta thấy chính sộ liên kết giữa các nước thông qua thị trường quốc tế và hệ thống ngăn hàng đã làm cho cuộc khủng hoảng lan rộ«g"[24]

Trong một thời gian dài, chính sách tắ giá là một trong các công cụ-

xung lực mạnh mẽ bậc nhất giúp cho các nền kinh tế Đông Á thực thi thành công mô hình tăng trưởng hướng vào xuất khẩu. Trong điều kiện GATT, việc áp dụng chế độ tắ giá ổn đinh trong một số n ăm r ồi lại phá giá để tạo sức kích thích xuất khẩu (ngoại trừ Thái Lan là nước thi hành chế độ tắ giá gần như là ổn đinh-cố đinh trong suốt mấy chục năm) trở thành m ột trong những yếu tố quan trọng hàng đầu giúp các nước này vừa tăng trưởng xuất khẩu nhanh vừa ổn định giữ vững chắc hệ thống tiền tệ là cốt lõi của ổn định vĩ m ô.

Tuy nhiên, từ giữa thập niên 1980, tình hình kinh tế quốc tế biến đổi rất nhanh. Từ đầu thập niên 1990, Mỹ thay đổi chiến lược thương m ại quốc tế theo hướng nâng cao sức cạnh tranh quốc tế, giảm thâm hụt thương m ại và đòi h ỏi các nền kinh tế châu Á phải mở cửa nhiều hơn. Luật chơi k i nh tế toàn cầu thay đổi với việc chuyển từ G A TT thành WTO. Sự trỗi dậy nhanh chóng của nền kinh tế khổng lồ Trung quốc làm thay đổi các tương quan cạnh tranh trên thế giới. Kéo theo đó là sự thay đổi mạnh mẽ các tương quan tiền tệ quốc tế.

Trong điều kiện đó, đa số các nước Đông Á, mặc dù thực lực kinh tế của chính họ đã thay đổi theo hướng tăng lên, vẫn tiếp tục duy trì chế độ tắ

2. Theo đuổi chính sách tắ giá hôi đoái cô định có xu hướng đánh giá cao đồng nội tệ và gắn chặt vào đồng USD trong một thời gian dài

12

giá h ối đoái cố định. V ới chế độ này, đồng tiền của các nước bị đánh giá cao dần lên trong quan hệ tỷ giá. H ơn thế, do gắn chặt với đồng USD, độ r ủi ro tỷ giá cũng gia tăng trong quan hệ buôn bán với những nước và k hu vực có đồng tiền mạnh khác, đặc biệt là với đồng Yên Nhật Bản. Vì Nhật Bản là thị

trưổng lớn thứ hai của Đông Á, lại bị suy thoái kéo dài trong mấy n ăm gần đây nên tính bất ổn định trong tương quan tiền tệ này tạo thành m ột sức phản kích đối với chính sách ổn định tỷ giá mà các nước này đang theo đuổi.

\^ứieo(iiầdmhsádi^giá(K(Ẽdẫn(fenhíjnghâuc|uảnạrigi]ề:

- Giảm mạnh sức cạnh tranh xuất khẩu của nước này; kìm c hế xu

hướng tăng trưởng xuất khẩu (bao gồm hoạt động xuất khẩu trực tiếp).

- Khuyến khích nhập khẩu và tiêu dùng hàng ngoại.

- Khuyên khích xu hướng nhập khẩu vốn (do đồng tiền nước ngoài rẻ

hơn đồng n ội tệ)

- Làm méo mó môi trưổng kinh doanh (vì một trong những thước đo quan trọng nhất của nền kinh tế thị trưổng hiện đại là tỷ giá h ối đoái bị bóp méo.

- Sự méo mó trong môi trưổng kinh doanh dẫn tới sự lệch huống trong đầu tư. Do giá cả bị bóp méo, những chỉ báo cho biết việc lựa chọn hướng đầu tư bị sai lệch ngày càng nghiêm trọng. Xu hướng vay v ốn ngẩn hạn để tài trợ cho các dự án dài hạn k ém hiệu quả" để tiêu dùng xa xỉ, đầu cơ bất động sản,... gia tăng. Cơ cấu kinh tế của đất nước ngày càng mất cân đối, k ém hiệu quả.

- Vì thế, xuất hiện và gia tăng nhanh các mất cân đối lớn về tài chính- tiền tệ (cán cân mậu dịch, cán cân thanh toán, cán cân vốn). Những mất cân đối này, đến lượt mình, gây áp lực ngược trở lại lên tỷ giá. Đó là áp lực phá giá đổng n ội tệ. Càng duy trì tỷ giá cố định lâu, áp lực này càng lớn, sức phá hoại cũng càng lớn k hi ngòi nổ (hành vi phá giá) được châm ngoi.

Thực tế ở Thái lan, nhiều tư nhân vay ngoại tệ rồi đổi sang đồng Baht

để đầu tư, hoặc cho vay để đầu tư vào các dự án bất động sản và các dư án khác. Đến khi đồng Bath đột nhiên mất giá thì những khoản nợ phải trả tăng lên, và người ta tìm mọi cách bán đồng Baht để mua lại đồng đô la Mậ. Khi tình trạng này xảy ra ở hàng loạt công ty thì tất yếu thị trường chứng khoan sẽ suy giảm. Như vậy, đây là cuộc khủng hoảng kết hợp trên cả lĩnh vưc ngân hàng, tiền tệ và thị trường chứng khoán. Các con nợ gây áp lúc manh lên đồng nội tệ, đồng nội tệ bị mất giá dẫn đến các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và hậu quả là Thị trường chứng khoán sụt giảm. Khi này hệ thống

ngân hàng tràn ngập các khoản nợ khó đòi. Cuộc khủng hoảng Đông Á vừa qua là thế đó.

13

3. Sự yếu kém của hệ thông tài chính-ngân hàng

Hệ thống tài chính-ngân hàng (TC-NH) của Đông Á yếu kém như thế nào còn là vấn đề gây tranh cãi. Bởi vì trong suốt 30 nam tăng trưởng "thần kỳ", khó ai có thể phủ nhận thành tích duy trì tỷ lệ tiết k i ệm n ội địa (cao nhất thế giới) và hiệu quả của hoạt động đầu tư (tốc độ tăng trưởng và tốc độ biến đợi cơ cấu nhanh chóng theo hướng hiện đại hoa) của các nên kinh tê trong khu vực này. Chính hệ thống TC-NH đã đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong thành tích đó.

Nhưng có một thực tế khác cũng không bác bỏ được là cuộc khủng

hoảng tài chính tiền tệ cũng có nguyên nhân khởi phát từ chính sự yếu k ém của hẹ thống TC-NH vốn đã từng hoạt động rất hiệu quả trước đây. V ấn đề đặt ra không phải là tranh luận hệ thống đó trong giai đoạn tiền khủng hoảng có yếu k ém hay không mà là ở chỗ tại sao nó lại bị xuống cấp nghiêm trọng như vậy.

Sự phân tích từ nhiều góc độ cho thấy trong một thời gian dài, các nền kinh tế Đông Á đã nỗ lực tối đa cho tăng trưởng sản lượng mà không chú ý đúng mức đến sự phát triển của hệ thống TC-NH. Hệ quả là tạo ra sự lệch pha cơ cấu ở hai mảng cấu trúc lớn nhất của hệ thống kinh tế thị trường hiện đại: giữa khu vực TC-NH và khu vực sản xuất-thương mại. Sự lệch pha này dẫn đến chỗ k hi nền kinh tế tăng trưởng nhanh, đã đạt đến trình độ phát triển khá cao thì hệ thống TC-NH không thể đáp ứng được các yêu cầu của nó. K hi quá trình hội nhập k i nh tế quốc tế tăng tốc, các quy tắc vận động của các luồng sản phẩm và dòng vốn quốc tế thay đợi thì sự lệch pha này trở thành một điểm yếu sinh tử đối với bản thân các nền k i nh tế đó. Tính không tương thích này biểu hiện ở một số khía cạnh chính sau đây:

- Hệ thống TC-NH của các nước Đông Á nói chung đều bị phụ thuộc quá nặng nề vào các Chính phủ. Do vậy, chúng không thể kinh doanh độc lập. Từ đó, sản sinh ra tình trạng dưới áp lực của Chính phủ (trực tiếp là các quan chức Chính phủ), ngân hàng phải cho vay hàng loạt dự án k ém hiệu quả và nhiều r ủi ro, gia tăng tình trạng hối lộ và m óc ngoặc giữa các nhà kinh doanh (kể cả kinh doanh ngân hàng) và các quan chức Chính phủ.

Điển hình cho trạng thái này là Hàn Quốc. Chính phủ Hàn Quốc đã

chỉ thị cho các ngân hàng phải cho các tập đoàn lớn vay (hoặc ngân hàng phải bảo lãnh cho các tập đoàn vay nước ngoài) những món tiền khổng lồ để đẩu tư vào nhiều dự án chậm thu hồi vốn nhưng kém hiệu quả. Sản phẩm đương nhiên của phương thầc can thiệp này là nạn hối lộ và tham nhũng của các quan chầc Chính phủ. Kết quả là trong thời gian gần đây, nhiều tập đoàn lớn đã bị phá sản với những món nợ nhiều tỷ USD, kéo theo nó là sự lung lay dữ dội của hệ thống TC-NH. Uy tín Chính phủ bi sụt giảm nghiêm trọng. Đất nước chìm trong nợ nần, nhất là nợ nước ngoài.

Tại Thái Lan, với các cách thầc quản lý tài chính tiền tệ lỏng lẻo tai

thời điểm trước khủng hoảng, hầu như toàn bộ dự trữ ngoại tệ của đất nước

14

đều bị "nhốt" vào các hợp đồng giao sau. Do vậy, con số hơn 30 tỷ USD dự trữ chỉ là trên giấy. Trên thực tế, nó teo lại còn 1,14 tỷ, tương dương với 2 ngày nhập khẩu. Khi tin tức về sự mỏng manh này bị lộ ra ngoài trong điêu kiờn áp lực tỷ giá và nạn đầu cơ tiền tờ gia tăng, em hoảng loạn trên thị trường tài chính - tiền tờ bùng lên dữ dội ngay lập tức. Lời tuyên bố phá giá đồng baht chỉ là giọt nước cuối cùng trong toàn bộ hoạt động quản lý, điêu hành hờ thống tài chính - tiền tờ yếu kém của cả Chính phủ lẫn khu vực tư nhân(24)

- Tinh trạng cho vay tay trong kéo dài đã làm xói mòn sức mạnh của

các ngân hàng. Không tuân theo các nguyên tắc an toàn tối thiểu của hoạt động TC-NH, ở Đông Á, các Chính phủ cho phép nhiều công ty thành lập ngân hàng một cách dễ dàng. Các ngân hàng này tồn tại trước hết với mục đích huy động vốn để tài trợ cho các dự án của công ty mẹ hay của bạn bè các ông chủ công ty và chủ ngân hàng. Do hệ thống luật pháp TC-NH thiếu chặt chẽ và nghiêm minh, việc cho vay tay trong này có độ rủi ro cao và trong nhiều trưầng hợp, rất không minh bạch. Theo nguyên lý hoạt động ngân hàng, chỉ cần một ngân hàng đổ bể sẽ kéo theo sự đổ bể dây chuyền trong toàn bộ nền kinh tế và gây nên các tổn thật vượt xa số tổn thất mà một ngân hàng phải gánh chịu. Vậy mà ở mỗi nước Đông Á, không phải chỉ có Ì hay 2 ngân hàng như vậy.

- Hoạt động giám sát và thanh tra TC-NH yếu kém. Một trong những

cơ sở quy định tình trạng này, theo nhiều nhà phân tích quốc tế, là tính thiếu công khai và rõ ràng trong hoạt động TC-NH. Do thông tin bị bịt kín, khi khủng hoảng nổ ra, việc hàng loạt công ty tài chính và ngân hàng thương mại phải tuyên bố phá sản hoặc buộc phải đình chỉ hoạt động, dù là điều không thể tránh khỏi, đã gây chấn động rất lớn do tính bất ngầ của nó.

Vì thế, ngay sau khi sóng gió tiền tệ nổi lên thì hệ thống TC-NH của các nước này cũng lâm vào tình trạng chao đảo dữ dội (phá sản). Chỉ một thầi gian ngắn sau khi bùng nổ khủng hoảng, ở Thái Lan, hơn 30 công ty tài chính và ngân hàng đã phải đóng cửa. Chính phủ Indonesia đã đóng cửa 16 ngân hàng tư nhân, 7 ngân hàng lớn do làm ăn thua lỗ, còn 40 ngân hàng khác phải đặt dưới sự quản lý và giám sát và quản lý trực tiếp của Chính phủ. Tình trạng cũng tồi tệ không kém đối với hệ thống ngân hàng Hàn Quốc, quy mô lớn của các khoản nợ ngắn hạn và khó có khả năng hoàn trả đã đặt 9 trong số 11 NH lớn nhất vào tình trạng gay go. (1)

Những con số nêu trên mới chỉ phần nào mô tả được thực trạng của hệ thống TC-NH ở Đông Á. Chỉ có thể hình dung rõ mức độ trầm trọng của tình hình khi đặt nó vào trong hoàn cảnh chung rất khó khăn của nền kinh tệ, khi so sánh giữa một bên là tốc độ tăng trưởng sản lượng rất cao với một bên là năng lực bảo đảm hạn chế của hệ thống TC-NH cho sự tăng trưởng đó.

Khi đặt vấn đề cải tổ và nâng cao năng lực hoạt động, hệ thống TC-NH các nước Đông Á đứng trước một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Sau sự phá

15

sản hàng loạt công ty tài chính và ngân hàng ở Thái Lan, Indonesia và Hàn Quốc, mặc dù Chính phủ các nước này đã phải cam kết cho ngân hàng nước ngoài vào mua cổ phần và điều hành các ngân hàng bản địa như là m ột trong các điều k i ện để đổi lấy nguồn tài trợ theo chương trình của I M F, song chính tình trạng không rõ ràng về quản lý và kế toán, sọ mù mờ về thông t in nêu trên trong khung cảnh m ột sọ yếu k ém nói chung của hệ thống TC-NH và độ bất ổn định vĩ mô cao (rủi ro lớn) làm cho các ngân hàng nước ngoài không d ám mạo hiểm chia sẻ rủi ro với các ngân hàng bản địa (dù họ đã rất sẩn sàng tham dọ cuộc chơi có mức lợi nhuận tiềm năng rất cao này) do không thể biết được chính xác mức độ rủi ro mà các ngân hàng bản địa đang lâm vào.

Sọ phát triển nhanh chóng của nạn đầu cơ tiền tệ ở Thái L an trước khủng hoảng, sau đó lan rộng ra các nước khác là hậu quả không thể tránh k h ỏi của tình trạng tích nén các mất cân đối vĩ mô và những m éo mó trong nền k i nh tế suốt trong một thời gian dài. Nhưng đến lượt mình, nó chính là tác nhân trọc tiếp, là ngòi nổ của khủng hoảng.

Sọ phát triển của hoạt động đầu cơ tiền tệ bắt nguồn từ dọ đoán về quyết định phá giá đồng n ội tệ (thả n ổi tỷ giá). Dọ đoán này dọa trên m ột cơ sở thọc tiễn vững chắc là áp lọc đối với tỷ giá đang gia tăng do tác động của hàng loạt yếu tố (một số yếu tố then chốt nhất đã nêu ở 2 mục trên). Các nhà kinh doanh, nhất là những người đầu cơ tiền tệ, lao vào cơn lốc vay m ượn đồng n ội tệ để mua USD tích trữ, chờ cơ h ội bán lại k i ếm l ờ i.

Điều đó làm cho tăng nhanh áp lọc lên tỷ giá v ốn đã rất căng thẳng; làm cho cạn kiệt nhanh chóng nguồn v ốn của ngân hàng; hoạt động tín dụng ngày càng dọa trên một cơ sở đầy rủi ro là thế chấp các tài sản bất động sản, các cổ phiếu công ty chất lượng thấp đang bị mất giá nhanh chóng; r ối loạn hoạt động lưu thông tiền tệ và gây đình trệ sản xuất.

Những áp lọc này gia tăng đến m ột mức nào đó đã buộc các Chính phủ, trước hết là Thái Lan, tuyên bố phá giá. Sau l ời tuyên bố phá giá, cơn hoảng loạn xảy ra. Từ đó,hầu như không có cách nào có thể ngăn cản sọ mất giá đồng n ội tệ trong một thời gian ngắn. Việc chính phủ Thái L an phải tung ra hàng chục tỷ USD dọ trữ (các nưóc khác như Malaysia, Indonesia, Philippines cũng hành động như vậy tuy ở mức độ ít hơn) chỉ là thao tác "muối bỏ bể". H ơn thế, việc tung dọ trữ ngoại tệ ra v ới k h ối lượng l ớn làm cho quỹ dọ trữ ngoại tệ hao hụt nhanh, cán cân thanh toán quốc tế mất cân đối trầm trọng hơn và khả năng bảo đảm an toàn nhập khẩu giảm thấp, áp lọc tỷ giá lại gia tăng. Từ đó, hình thành nên dòng xoáy mất giá tiền tệ. T ại đỉnh điểm của cơn xoáy lốc này, đồng Baht Thái L an và đồng W on H àn quốc mất giá khoảng 5 0 %, đồng Rupiah Indonesia mất giá hơn 8 0 %, đồng Ringit Malaysia và Peso Philippines tuy mất giá ít hơn nhưng cũng lên đến 30-40%.

16

4. Sọ gia tăng nhanh chóng của nạn đầu cơ tiền tệ

Tất nhiên, sự mất giá tiền tộ chịu tác động của nhiều yếu tố khác, đặc biệt là sẽ mất lòng tin của dân chúng và giới kinh doanh vào Chính phủ, vào triển vọng cứu trợ từ bên ngoài, là tâm lý hoảng loạn trong lĩnh vực tiền tệ. Song căn gốc của vấn đề là ẩ tình trạng ngày càng xấu đi của các biến số k i nh tế vĩ mô cũng như trong cách điều hành chính sách của các Chính phủ không đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.

Không bàn đến sự kiện có hay không có âm m ưu phá hoại của ai đó, bản thân hoạt động đẩu cơ tiền tệ trong trường họp các nền k i nh tế khủng hoảng rõ ràng là hậu quả tất yếu của sự yếu k ém trong nền k i nh tế, trước hết là trong hệ thống TC-TT, của cách xử lý của Chính phủ trong việc giảm áp lực tỷ giá (phá giá "giạt cục" k hi không chịu nổi sức ép thực tiễn c hứ không phải nới lỏng các áp lực m ột cách có hệ thống). Còn k hi cơn lốc đầu cơ tiền tệ đã cuốn nền k i nh tế vào dòng xoáy bất ổn định thì bản thân hành vi đầu cơ trẩ thành tác nhân-xung lực của khủng hoảng chứ không đơn thuần chỉ là hậu quả của các yếu tố khác.

Đổ ng thời, cần thấy rằng âm m ưu đầu cơ tiền tệ (dù là nhằm mục tiêu phá hoại- như thủ tướng Maiãysia đã buộc t ội ông G.Soros, là m ột trong những nhà tư bản lớn nhất trong lĩnh vực tài chính quốc tế, là tác nhân chính

gây ra cuộc khủng hoảng TC-TT Đông Á vừa qua như là m ột bộ phận của âm m ưu phá hoại mang tính quốc tế) chỉ có thể thực hiện được m ột k hi nền k i nh tế cũng như hệ thống tài chính của một nước nào đó bị r ối loạn hoặc tiềm chứa đầy các nguyên nhân gây r ối loạn đủ chúi muồi. H ơn thế, n oi chung, đầu cơ tiền tệ, giống như m ọi thao tác đầu cơ khác, là hiện tượng khá thông thường trong cơ chế thị trường. Trong điều kiện bình thường, đầu cơ có tác dụng tái lập sự cân bằng của lưu thông hàng hoa và giá cả. Nhưng đầu cơ sẽ gây nguy hại lớn m ột k hi nó nằm trong chủ đích thu l ợi nhuận siêu ngạch của các thế lực tài chính hùng mạnh bằng cách gây ra tình trạng bất ổn kéo dài giữa sự khan hiếm và dư thừa tiền tệ.

Việc trình bày một số nguyên nhân khủng hoảng phát sinh từ chính lĩnh vực TC-TT ẩ phần trên cho thấy khâu nối trực tiếp giữa hậu quả và nguyên nhân của cuộc khủng hoảng. Nhưng sự đan xen phức tạp cua các quan hệ trong nền k i nh tế có nghĩa rằng bản thân cuộc khủng hoảng này còn có gốc rễ từ những yếu tố sâu xa, căn bản và có nền tảng rộng hơn. Trong điều kiện k i nh tế thị trường hiện đại, m ọi sự mất cân đối, bất ổn định va r oi loạn đều thể hiện trước hết thông qua các mất cân đổi và bất ổn đinh TC-TT M ọi cuộc khủng hoảng TC-TT đều có nguyên nhân trực tiếp từ đây song có cơ sẩ vượt ra ngoài lĩnh vực TC-TT. Đối với cuộc khủng hoảng TC-TT Đông Á, quy luật này được m i nh chứng hết sức rõ ràng. Nó có nguồn gốc từ sư tích đọng các mất cân đối kinh tế vĩ m ô. Thậm chí, ẩ m ột mức độ rộng lớn hơn, từ cả những mất cân đối trong cấu trúc xã hội phát sinh trong qua trinh phát triển k i nh tế. r~ '

5. Xu hướng gia tăng tình trạng mất cân đối trong cơ cấu kinh tế

T H ư VI _ N '

T R U Ô NG DAI M ÓC

N G O AI T H l i 0 NB

17 ,ũl. cccjc

Nói chung, các nền kinh tế Đông Á đều có quá trình cải biến cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoa rất nhanh. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu giải thích sự thần kỳ Đông Á trong sự so sánh với các k hu vực đang phát triển khác trên thế giới. Và chính việc theo đuổi mô hình tăng trưởng hướng vào xuất khẩu là động lực chính yếu kiến tạo nên các kết quả đó.

Tuy nhiên, có m ột điều khá rõ ràng là trong quá trình đó, cùng với những bước nhảy vọt về cơ cấu, trong các nền kinh tế này cũng dần dần tích đọng hàng loạt sự mất cân đứi, hay nói đúng hơn, gia tăng xu hướng phát triển lệch pha cơ cấu trong sự so sánh với xu hướng biến đổi của nền k i nh tế và thị trường thế giới.

Trong k hi dức sức tứi đa để tăng nhanh sản lượng công nghiệp và nâng cao trình độ kỹ thuật-công nghệ của các ngành sản xuất, các nước này tạo ra và tích lũy sự mất cân đứi trên hai m ứi quan hệ lớn:

Thứ nhất, đó là sự không chú ý phát triển đúng mức hệ thứng TC-NH.

Trước khủng hoảng, hộ thứng này có một sự phát triển đủ để duy trì tỷ lệ tiết k i ệm n ội địa cao. Nhưng dường như đó chỉ là sự phát triển "vừa đủ" chứ không phải là sự phát triển mang tính ưu việt và đón đầu chiến lược đứi với một nền k i nh tế tăng trưởng nhanh trong bứi cảnh nhịp độ toàn cầu hoa gia tăng. Những phân tích về sự yếu k ém của hệ thứng TC-NH đã chứng tỏ điều đó. Trong bứi cảnh ngày nay, đây chính là sự mất cân đứi có tác động kìm h ãm và phá hoại của nền kinh tế hiện đại. Thực tế cho thấy k hi xu hướng tự do tài chính quức tế được đẩy mạnh, dòng vứn nước ngoài đổ vào Đông Á ồ

ạt trong khoảng 1985-96 thì hệ thứng TC-NH Đông Á hoàn toàn chưa được chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tiếp nhận nó một cách hiệu quả. Sự dễ dãi của các ngân hàng trong việc cho vay vứn hay bảo lãnh vay nợ nước ngoài làm cho các yếu tứ rủi ro bị đánh giá thấp. K ết cục là gia tăng nhanh sứ dự án đầu tư k ém hiệu quả, nhiều rủi ro. N hư vậy là sự mất cân đứi cơ cấu tổng thể (giữa khu vực TC-NH và khu vực kinh doanh còn lại), nảy sinh và tích đọng những mất cân đứi trong cơ cấu sản xuất-kinh doanh.

Thứ hai, yếu tứ hàng đầu đảm bảo tính bền vững của quá trình tăng trưởng là hệ thứng cơ sở hạ tầng cũng đã bị tụt hậu rõ rệt so với sự phát triển kinh tế. Trong khi vẫn theo đuổi mục tiêu hàng đầu là tăng trưởng sản lượng, các nền kinh tế khu vực không thể tự bảo đảm nguồn v ứn để phát triển. K hi đó, có thể dự đoán tính hiệu quả của các nền kinh tế này sẽ có xu hướng sụt giảm về lâu dài. Dự đoán này là yếu tứ quan trọng làm tăng dần m ứi hoài

nghi đứi với triển vọng phát triển lâu dài của Đông Á. K hi đó, chỉ cần một dấu hiệu về sự bùng nổ bất ổn định cũng đủ để gây ra trạng thái hoảng loạn trong giới đầu tư quức tế. Dòng vứn nước ngoài đứng trước nguy cơ của m ột cuộc tháo chạy ồ ạt, đẩy nền kinh tế vào một cơn choáng sức nặng.

Song song với tình trạng mất cân đứi toàn bộ nêu trên, trong các nền

k i nh tế này cũng tích đọng dần những mất cân đứi cục bộ (trong phạm vi giữa các sản xuất-thương mại, dịch vụ, trong từng k h ứi ngành và giữa các

18

khu vực). Sự chênh lệch phát triển rất lớn giữa các vùng, đặc biệt là giữa thành thị và nông thôn. Tình trạng này bộc lộ rõ nhất ở Thái Lan, Indonesia, Philippines. Nó gây ra những hậu quả lâu dài và to lớn đối với mục tiêu tăng trưởng-phát triển nhanh bền vững do không huy động tốt thế mạnh phát triển của các vùng, đứng thời duy trì và làm tăng tình trạng bất bình đẳng xã hội. Đây là nguyên nhân sâu xa của nguy cơ bất ứn định chính trị-xã h ộ i, của sự mất lòng t in vào Chính phủ, yếu tố sẽ bùng nứ và huy hoại các thành quả phát triển hết sức nhanh chóng m ột k hi có cơ hội. Sự lệch hướng đầu tư bị sự thống trị hoặc chi phối của các tập đoàn k i nh doanh hùng mạnh và có vị t hế độc quyền trong nền kinh tế thúc đẩy mạnh hơn nữa. Sự phát triển nhanh chóng của các tập đoàn độc quyền (như các Cheabol ở Hàn Quốc hay các tập đoàn gia đình trị ở Indonesia...) là kết quả của chiến lược tạo lập thật nhanh, bằng m ọi giá m ột cơ cấu công nghiệp hùng mạnh cho đất nước và m ối liên kết chặt chẽ giữa Chính phủ và các công ty khứng l ồ, trong đó Chính phủ hỗ trợ t ối đa cho các công ty này, thậm chí bằng cả những biện pháp can thiệp phi thị trường.

Trong hơn ba thập niên lãnh đạo quốc gia, các nhà lãnh đạo Đông Á đã tạo ra xung lực mạnh cho sự phát triển kinh tế nhờ biết lựa chọn những chiến lược cơ cấu hướng vào mục tiêu nâng cao sức cạnh tranh quốc tế trên cơ sở tạo dựng m ột tiềm lực công nghiệp hùng mạnh và hiện đại cho đất nưốc. Các tập đoàn kinh doanh nhanh chóng trở thành những thể chế tầm cỡ thế giới và thế lực độc quyền chi phối nền kinh tế nội địa được hình thành dưới sự bảo trợ tối đa của nhà nước. Trong khoảng 30 năm, mức tiết k i ệm cao ở các nước này chủ yếu được đứ vào các ngành công nghiệp và tập đoàn kinh doanh do các nhà lãnh đạo lựa chọn. Mặc dù không thể phủ nhận vai trò của cơ cấu công nghiệp này trong quá trình tăng trưởng nhanh của các nền k i nh tế Đông Á, song, đến m ột giới hạn nhất định, mặt trái của vấn đề đã bộc lộ k hi cơ cấu này tỏ ra k ém hiệu quả và môi trường trong nước bị bóp m éo ngày càng nghiêm trọng. Gần đây, dưới tác động của cách di chuyển cơ cấu kiểu "làn sóng" hay " mô hình đàn sếu bay" trong k hu vực, Chính phủ các nước Đông Á đều lao vào chọn các chương trình đầu tư khứng lứ vào ngành ô tô, chế tạo điện tử và m áy tính với công nghệ cấp hai trong k hi trên thực tế, thị trường đang có xu hướng bão hoa. Giải pháp tài chính để thực hiện nhanh chóng các chương trình này chủ yếu là vay nợ nước ngoài ( m ột phẩn đáng kể là nợ ngắn hạn) và một phần dựa vào nguồn F DI từ nước khác trong k hu vực. K ết quả tất yếu là k hi thị trường thế giới biến động (xuất hiên những đối thủ cạnh tranh mới, thị trường không còn khả năng hấp thụ thèm sản phẩm, các quốc gia-thị trường chủ yếu thay đứi chính sách thương mai...) thì lập tức xuất hiện và gia tăng tình trạng thâm hụt trong cán cân thanh toán của đa số các nền kinh tế Đông Á.

Sự lệ thuộc vào tốc độ tăng trường cao, vào thị trường bên ngoài-điểm yếu của mô hình tăng trưởng nhanh dựa chủ yếu vào xuất khẩu v ốn đã từng rất hiệu quả- đã bộc lộ và gây tác động. Cấu trúc k i nh tế dựa chủ yêu vào các tập đoàn k i nh doanh độc quyền khứng lồ đặt dưới sự bảo trợ mang tính "bao

19

cấp" của nhà nước đã không thể thích nghi kịp thời với những thay đổi của điều k i ện phát triển mang tính toàn cầu. Trạng thái mất cân đối cơ cấu nghiêm trọng thoạt đầu bùng nổ dưới dạng khủng hoảng TC-TT là điều không thể tránh k h ỏi trong nền k i nh tế thị trường hiện đại và có độ mỉ cửa cao. Nhung chắc chắn khủng hoảng TC-TT chỉ là bước đầu tiên.

(Có the nêu thêm một số yếu tố khác đóng vai trỏ là nguyên nhân khởi

phát của cuộc khủng hoảng TC-TT Đông Á hiện nay như: chế độ làm việc được bảo đảm suốt đời (Hàn Quốc), việc duy trì quá lâu kiểu can thiệp phi kinh tế của nhà nước vào hệ thống thị trưởng, cách thức gia đình trị trong hoạt động kinh doanh (ởIndonesia) ...-những nguyên nhân liên quan đến cấu

trúc chính trị xã hội của các nước Đông Á,nhưng trong phạm vi đề tài chúng tôi không đi sâu phân tích các nguyên nhân đó.)

ni. NHŨNG TÁC ĐỘNG CỦA cuộc KHỦNG HOẢNG TÀI

CHÍNH-TIỀN TỆ ĐÔNG Á

Môi nước và khu v c, tuy theo th c tế của mình, cảm nhận những tác động của cuộc khủng hoảng ở mức độ khác nhau. Nhưng nhìn chung có thể phân chia các tác động này theo hai hướng: tác động tiêu c c và tác động tích c c

N hư ở phẩn trên đã phân tích, hậu quả tiêu cực mà cuộc khủng hoảng gây ra là rõ ràng toàn diện và hết sức nghiêm trọng cho m ỗi quốc gia đang bị khủng hoảng, cho khu vực và cho cả thế giới. Những hậu quả dễ nhận thấy nhất và phổ biến nhất trong toàn khu vực tại các trung tâm khủng hoảng chính là sự mất ổn định của đồng tiền và của các thị trường tiền tộ của m ỗi nước và k hu vực, là sự giảm sút các luồng v ốn nước ngoài đổ vào m ỗi nước và toàn k hu vực, là sự giảm sút ngay cả đầu tư trong nước do lãi suất cao và yếu tố lòng tin; từ đó, làm giảm sút tốc độ tăng trường k i nh tế của các nước này và toàn k hu vực, toàn thế giới nói chung đi đôi v ới gia tăng tình trạng thất nghiệp và lạm phát cao; cũng như làm tăng nợ nước ngoài bang ngoại tệ do sự mất giá của đồng bản tệ so với đồng đô la Mỹ và do phải thu hút thêm các khoản tín dụng quốc tế mới để vượt qua khủng hoảng.

Những tháng đầu n ăm 1998 thực sự là thời kỳ tồi tệ nhất của cuộc

khủng hoảng. Tính đến tháng 1/1998, tất cả các đồng tiền trên đều bị mất giá từ 7 0 - 1 0 0% so v ới cuối tháng 6 n ăm 1997, có thời điểm đồng Rupiah mất giá t ới 5 0 0 %. Do đồng n ội tệ mất giá, số dư nợ của các nước đã tăng lên đáng kể, đặc biệt là bằng đồng nội tệ. Số dư nợ không trả được lãi từ 6 tháng trỉ lên tăng từ 10-20%. Hệ thống ngân hàng bị tê liệt, nhiều ngân hàng bị phá sản, cuối cùng dẫn tới nền k i nh tế bị suy thoái nghiêm trọng.

20

1. Các tác động tiêu cực

Bằng các nỗ lực của Chính phủ và trợ giúp của IMF và các tổ chức tài chính khác, đồng tiền của các nước đã phục hồi dần dần. Tuy nhiên, tháng 3 năm 1998 các đồng tiền lại nhất loạt mất giá do tác động của sự suy giảm đồng Yên và lo lắng về sự mất giá của nó. Kết quả là, tể tháng 7/1997 đến cuối tháng 3/1998, đồng Rupiah mất giá 250%, các đồng Baht, Peso và Ringgit mất giá 40-45%, đông Won mất giá 50%. Các đổng tiền khác trong khu vực không bị phá giá song cũng bị giảm đáng kể. Đồng đô la Đài Loan giảm 1 5% và đồng đô la Singapore mất giá 10%.

Giống như hoạt động của thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán cũng có biểu hiện giảm xuống trông thấyr Trong vòng tể 1/1997 đến tháng 1/1998 huy động vốn tể thị trường chứng khoán giảm tể 302 tỷ USD xuống còn 97 tỷ ŨSD, giảm hơn 3 lần.

Mặc dù các nền kinh tế đã có những dấu hiệu khôi phục nhưng tới cuối năm 1998, hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á còn khá nặng nề. So vói thời điểm khởi đầu các đồng tiền trong khu vực lần lượt mất gia mạnh. Có thể thấy được qua biểu đồ 1.1. dưới đây.

Biểu đồ 1.1.: Mức độ mát giá của đồng tiền trong khu vực so với đồng USD

Nguồn: Châu Á từ khủng hoàng nhìn về thế kỷ 21-Nhà xuất bản thành phô Hồ

Chí Mình, Trung tâm VAPEC, Thời báo kinh tế Sài Gòn 2000

Cùng vói tăng trưởng chậm, mất giá đồng nội tệ, tình trạng lạm phát cũng trở nên nghiêm trọng hơn, thể hiện qua bảng 1.2.

21

Bảng 1.2: Tình trạng lạm phát ở một số nước Đông Á

Đơn vị tính: %

Tên nước

1997 60,0 75,6 10,2

Minh, Trung tâm VAPEC, Thời báo kinh tế Sài Gòn 2000

1998 78,2 19,5 11,2 9,2 6,8 5,6 4,7 Indonesia Lào Philipinnes Viêt Nam Hàn Quốc Malaysia 10,5 Thái Lan Nguồn: Châu Á từ khủng hoảng nhìn về thế kỷ 21-Nhà xuất bản thành phổ Hổ Chí

Cùng với việc mất giá đồng tiền và lạm phát, các lĩnh vực khác của nền kinh tế cũng bị ảnh hưởng, đặc biệt là thương mại và đầu tư thể hiện qua sự giảm mức tăng xuất khẩu và quy mô thực hiện đầu tư nước ngoài. Cộ thể lài ngay từ năm 1997 mức tăng xuất khẩu trong ASEAN đã giảm xuống còn 6,3%; trong đó Indonesia giảm -4,8%: Thái Lan chỉ tăng +3,4%; Malaysia +4,3%; Brunei +8,9%; Singapore +9,2%. Điều đáng quan tâm là buôn bán trong nội bộ ASEAN giảm đi, chỉ tăng 4,6% so với mức tăng trong thương mại quốc tế là 6,3%. Bước sang năm 1998, tình hình khó khăn hơn: quý ựÍ998xuất khẩu của ASEAN-9 chỉ tăng 5,2%; trong đó Malaysia giảm - 3,7%, trong khi các nước khác tăng chậm: Indonesia 0,9%; Brunei 7,5%; Singapore 8,3%,...Buôn bán nội bộ ASEAN-9 trong quý 1/1998 cũng đã giảm đi -19,3%, trong đó các nước như Việt Nam, Brunei, Malaysia giảm gần 40%. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, nếu phá giá đồng tiền 4 0% thì kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng từ 20-30%. Tuy nhiên, tính đến tháng 4 năm 1998, Hàn Quốc là nước duy nhất đạt được con số này, tăng 30%. Có nhiều lý do xuất khẩu không tăng, trong đó phải kể đến không sử dộng hết công suất và lao động. Tại Thái Lan 7 0% các công ty hoạt động dưới công suất, trong đó 5 0% cắt giảm lao động.

FDI thực hiện ở các nước ASEAN cũng giảm mạnh. Tại những nền kinh tế chủ chốt trong khu vực, sau một năm FDI giảm từ 30-50% (số liệu của Ban thư ký ASEAN). Điều này cùng với việc không sử dộng hết công suất của các dự án FDI đã làm cho tỷ lệ thất nghiệp tăng.

Ngoài ra, còn có những tác động khác không kém phần nặng nề đối với các nền kinh tế chủ chốt trong khu vực là tình trạng phá sản liên tiếp xảy ra, nhiều ngân hàng phải đóng cửa.

Trong bảng xếp hạng mức độ cạnh tranh của các quốc gia năm 1998, các nền kinh tế chịu khủng hoảng ở Đông Nam Á bị xuống hạng rất nhiều so với năm 1997: Indonesia giảm 16 bậc, Malaysia giảm 8 bậc và Thái Lan giảm 3 bậc.

22

Lịch sử khu vực trong vòng nửa thế kỷ nay chưa bao g iờ lại có đạt "đại hạ giá" đồng loạt các đồng tiền khu vực với số lượng lớn, tốc độ cao và trong khoảng thời gian ngắn như những n ăm vừa qua. Cũng có lẽ chưa ở đâu và chưa bao giờ lại có sự ra đi hàng loạt của các quan chấc Chính phủ, của các ngành TC-NH bởi các vụ bê bối và chấn động trong các lĩnh vực này nhiều đến như vậy.

Cuộc khủng hoảng đã gây thiệt hại cho các nước châu Á ít nhất 300 tỷ

USD, bằng khoảng 2 0% GDP của các nước bị khủng hoảng và làm thiệt hại chung cho toàn thế giới khoảng 500 tỷ USD. Có tới trên 150 tỷ Ư SD đầu tư

tài chính đã rút khỏi Đông Nam Á. Các nhà đầu tư nước ngoài giảm sút lòng tin, F DI đổ vào Châu Á bị sụt giảm mạnh và tiếp tục ở mấc thấp trong m ột sô n ăm đẩu thế kỷ 21. Hậu quả của cuộc khủng hoảng lòng tin cũng sẽ khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài rụt rè, thận trọng han k hi đầu tư vào các nơi khác. Do vậy, đến lượt mình, tình trạng thiếu vốn đầu tư sẽ tạo nên các cuộc khủng hoảng nhỏ kiểu Châu Á ở Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Phi, Braxin, Argentina, Balan. Hậu quả dẫn đến sự gia tăng mấc cạnh tranh gay gắt nhằm thu hút F DI giữa các nước trong khu vực và với các nước khác.

Sự phá giá đồng tiền bản tệ đã làm gia tăng các chi phí dịch vụ nợ và chất thêm gánh nặng nợ nần lên vai các con nợ, làm tăng tình trạng mất khả năng thanh toán, phá sản của các công ty này; đặc biệt là những công ty phục vụ thị trường trong nước mà nhu cầu đang giảm sút nhanh chóng. T ại Indonesia, do phá giá tiền tệ, tỷ lệ nợ ngân hàng nước ngoài trên GDP đã tăng vọt từ 3 5% lên 140%. Phá giá đồng tiền bản tệ ở những nước có tỷ lệ nhập khẩu nguyên liệu cao (ví dụ như Thái Lan lên tới 4 2% giá trị sản phẩm nhập khẩu) sẽ làm tăng chi phí nhập khẩu đẩy giá thành lên cao, giảm sấc cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.

M ột hậu quả khác không thể tránh khỏi là tình trạng "bong bóng" bất động sản vỡ tung, các ngân hàng rơi vào tình trạng gánh chịu m ột đống nợ khó đòi hoặc gìn giữ bất đắc đĩ một lượng tài sản the chấp ngày càng mất giả nghiêm trọng và khó bán. Vì lo sợ về tình trạng mất khả năng thanh toán của các con nợ, các chủ nợ và các chủ đầu tư nước ngoài thít chặt hầu bao dự trữ ngoại hối quốc gia ngày càng giảm.

Đổ ng bản tệ hạ giá cũng có nghĩa là lạm phát gia tăng sẽ làm tăng mấc sống thực tế của người làm công ăn lương, những căng thẳng và bất ổn định xã hội cũng vì thế mà tăng lên. Điều này có thể thấy rõ qua sự thay đổi nội các ở Thái L an và đặc biệt là sự thay đổi bộ máy chính quyền ở Indonesia và ngay cả Nhật Bản. Khủng hoảng không chỉ làm tăng nhanh chóng lượng người thất nghiệp ở các nước trong khu vực mà còn ở các nước bạn hang của họ do sự thu hẹp quy mô nhập khẩu vì khủng hoảng.

Cuộc khủng hoảng đã không chỉ hoàn toàn gây tác hại cho các nước trong k hu vực chịu tác động của nó, mà còn như Tổng thống H àn Quốc K im

2. Các tác động tích cực:

23

Dae l u ng đã khẳng định: " muốn biến cuộc khủng hoảng này thành m ột cơ hội để cải biến nền k i nh t ế" nước mình, cuộc khủng hoảng đánh dấu sự kết thúc m ột giai đoạn tăng trưởng k i nh tế nhanh, kéo dài hàng thập kỷ và dựa chủ yếu vào các nguồn v ốn nước ngoài của các nước trong k hu vực, để chuyển sang m ột giai đoạn m ới đặc trưng bởi nhịp độ tăng trưởng ôn hoa hơn, quan trợng hơn và dựa vào sức mình nhiều hơn:

Thứ nhất, việc chuyển sang chính sách tỷ giá linh hoạt sẽ giúp các

Chính phủ giảm thiểu được lượng ngoại tệ can thiệp để g iữ giá bản tệ như trước đó, giúp tăng dự trữ quốc gia về lâu dài, với đồng bản tệ rẻ sẽ khuyến khích và tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu, tò đó cải thiện những cân đối tài chính của đất nước.

Thứ hai, cuộc khủng hoảng giúp định hướng lại và cải thiện cơ cấu đầu tư, lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia. Các khoản chi k ém hiệu quả sẽ bị điều chỉnh cắt giảm, các dự án tư nhân sẽ được khuyến khích. Qua trinh tư nhân hóa và việc giảm bớt sự độc quyền, sự can thiệp và bao cấp của Chính phủ trong khu vực k i nh doanh sẽ được xúc tiến tích cực, kiên quyết và rộng khắp hơn. Có thể nói, cuộc khủng hoảng như m ột cú tác động mạnh mẽ để xốc lại cơ cấu k i nh tế cho cho cân bằng, hợp lý và hiệu quả hơn, tạo ra sức ép buộc các chủ đầu tư phải thay đổi thích ứng với tình hình mới, thúc đẩy những sản phẩm chủ lực có sức cạnh tranh xuất khẩu cao hơn.

Thứ ba, cuộc khủng hoảng ít nhiều góp phần và là dịp để Chính phủ và nhân dân m ỗi nước trong khu vực cũng như các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế xem xét lại bản thân, bổ khuyết những thiếu sót cả về chính sách, thể chế lẫn về nhân tố con người... từ đó tạo ra những xung lực tích cực m ới cho sự phát triển kinh tế-xã hội bền vững cả ở cấp quốc gia, k hu vực và quốc tế vớ tư cách là một chỉnh thể hữu cơ. Quá trình tự do hoa, toàn cầu hoa sẽ được đẩy lên m ột nấc mới, một phần nhờ các chương trình điều chỉnh k i nh tế rộng rãi theo hướng này ở các nước trong k hu vực, đổng thời là kết quả của sự hợp tác giữa các nước trong khu vực trong nỗ lực vượt qua khủng hoảng.

24

C H Ư Ơ NG li

ẢNH HƯỞNG CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI - CHÍNH TIÊN TỆ CHÂU Á ĐẾN DẤU Tư TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

L roi TẠI VỆT NAM TRƯỚC KHỦNG HOẢNG (TRƯỚC NĂM 1997)

1. Tình hình thu hút FDI ở Việt Nam

1.1. Lượng vốn, lượng dự án và quì mô dự án qua các năm

Trong giai đoạn này FDI vào Việt Nam tăng mạnh cả về số lượng dự án và tổng vốn đầu tư đăng ký. Nếu trong vòng ba nấm đầu thu hút đầu từ Việt Nam mỳi chỉ có 211 dự án FDI thì con số này của riêng năm 1993 đã là 273 và năm có số lượng dự án được cấp phép cao nhất trong thòi kỳ này là

Biểu đồ 2.1.: Tổng vốn FDI đãng ký và bổ sung 1991-1996

1991

1992

1993

1994

1995

1996

Nguồn: Vụ quản lý dự án - Bộ Kế hoạch Đẩu tư

năml995 vỳi 412 dự án. Bình quân trong giai đoạn này số dự án tăng thêm 42,7%/năm. Trừ năm 1997 là năm tổng vốn FDI đăng ký giảm, còn trong giai đoạn 1988-1996 tổng FDI đăng ký vào Việt Nam liên tục tăng vỳi tốc độ cao, tức là khoảng trên 30%/năm, năm cao nhất chỉ số này đạt tỳi 62 5% đó là năm 1995 so vỳi 1994. Vỳi tốc độ tăng tổng vốn đăng ký cao như vậy qui mô trang bình của các dự án FDI cũng được nâng lên rất nhiều, đặc biệt

25

là trong năm 1995 và 1996. Nếu như từ 1988 đến năm 1994 qui mô vốn đầu tư chỉ tăng từ 7.5 triệu USD/dự án lên 10.97 triệu USD/ dự án (nghĩa là tăng khoảng 46.2%) thì qui mô dự án năm 1995 đã tăng 46.4% so với năm 1995 và 114% so với qui mô dự án bình quân trong ba năm 1988-1990. N ăm 1996 qui mô dự án tiếp tục tăng với tốc độ rất cao, 46.2% so với năm trước. Vậy là chỉ trong vòng 9 năm 1988-1996 qui mô dự án FDI đã tăng gấp 3 lần. Tất cả những chỉ tiêu trên chứng tỏ Việt Nam đã rất nỗ lực trong thu hút FDI và sức hấp dởn của môi trường đầu tư ở Việt Nam ngày càng cao tại thời điểm đó. Mặc dù khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á nổ ra vào giữa năm

1997, nhưng những dấu hiệu của nó thì đã xuất hiện từ trước và chúng phần nào ảnh hưởng đến dòng FDI vào Việt Nam, đặc biệt là vốn đăng ký. N ăm 1997, mặc dù số lượng dự án FDI vởn lớn (331 dự án bằng 9 0% năm 1996) nhưng tổng vốn đăng ký giảm mạnh chỉ bằng 52.2% so với năm 1996 chính vì vậy mà qui mô dự án trong năm 1997 cũng chỉ bằng 58.1% năm 1996. 1.2. Cơ cấu đầu tư

- Theo chủ đầu tư

Đến hết năm 1997 đã có 67 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, trong đó 10 nước và vùng lãnh thổ đã có tổng FDI vào Việt Nam trên Ì tỷ USD. Tổng cộng vốn đăng ký của các dự án của lo quốc gia này ở Việt Nam lên tới 25,149 tỷ USD, chiếm 80,1% tổng vốn FDI đăng ký ở Việt Nam.

10 nước và khu vực đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam và ASEAN. Các nước ASEAN chủ yếu đầu tư vào công nghiệp chế biến và lắp ráp, du lịch và dịch vụ, xây dựng cơ sở hạ tầng, chủ yếu dưới hình thức liên doanh với quy mô vừa và nhỏ.

Các nước châu Á luôn dởn đầu trong FDI tại Việt Nam. Tính đến cuối năm 1997, tổng FDI của các nước châu Á vào Việt Nam chiếm tới 71 5% tổng FDI vào Việt Nam. Trong số lo quốc gia có số vốn đầu tư lớn nhất vào Việt Nam có tới 6 quốc gia châu Á. N ăm vị trí đầu tiên lần lượt thuộc về Singapore, Đài Loan, Hổng Kông, Nhật Bản và Hàn Quốc. Các nước ASEAN rất tích cực đẩu tư vào Việt Nam với tổng vốn đầu tư chiếm 24 8% tổng FDI vào Việt Nam trong giai đoạn này.

26

Nhật Bản : chiến lược đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản là tìm thị trường tiêu thụ tại nước sở tại, xuất khẩu sản phẩm sang nước thứ ba thậm chí xuất khẩu trở lại Nhật Bản. Do đó, các chủ đầu tư Nhật Bản thường muốn tìm nơi đầu tư gần Nhật, tập trung đầu tư vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển vào nơi đó những ngành có giá trị gia tăng thấp, nhằm tận dụng ưu thế về nguyên liệu và lao động rẻ ở các nước nhận đầu tư. Nhật Bản chủ yếu đầu tư vào ngành thúy sản, sản xuất hàng điện tử, ô tô, xe máy, ... tại Việt Nam.

Châu Âu : khu vực các nước Châu Âu chiếm khoảng 20,51 % tổng FDI vào Việt Nam, trong đó Pháp: 5,42%, Hà Lan: 1,79%, Anh: 1,72%, Đức: 0.6%. Nhìn chung các nhà đầu tư châu Âu vẫn dè dặt trong đầu tư vào Việt Nam. So với tiềm lực tài chính của họ và tổng vốn đầu tư của họ thì FDI vào Việt Nam không đang kể.

Biểu đồ 2.2.: Cơ câu FDI vào Việt Nam theo

chủ đầu tư nước ngoài

giai đoạn 1988-1997

7,8 0,2

• Châu á ta Châu Âu D Châu Mỹ • Các khu vực khác

Nguồn : Vụ Quản lý dự án - Bộ Kế hoạch và Đấu tư

Châu Mỹ: chiếm khoảng 7,82%. Mặc dù Mỹ là người đến sau trong đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhưng tham gia rột tích cực vào quá trình này. Mỹ chiếm 3,48% xếp thứ 8. Canada: 0,58%. Thòi gian đầu chủ yếu là các công ty nhỏ, ít vốn đầu tư vào các dự án nhỏ, trừ một số công ty dầu lửa lớn. Từ khi Mỹ bỏ lệnh cộm vận đối với Việt Nam, các dự án qui mô lán thời gian hoạt động dài ngày càng tăng.

- Theo lĩnh vực đẩu tư

Nông - lâm nghiệp chiếm 3.8%; thúy sản 1.1%; Công nghiệp 36.7%-

xây dựng 11.7%; khách sạn - du lịch 12.3%; giao thông vận tải - bưu điện 8.9%; tài chính ngân hàng 0.1%; văn hoa - y tế - giáo dục 1.2%; các ngành dịch vụ khác 24.2%.

- Theo địa bàn đẩu tư

Trong giai đoạn khỏi đầu này, hầu hết các tỉnh, thành phố của Việt Nam đã thu hút được FDI (59/61). Phân bố FDI không đều giữa các vùng chủ yếu tập trang vào những tỉnh thành phố lớn, có điều kiện kinh tế - xã hội và cơ sở hạ tầng thuận lợi.

27

Sáu địa phương thu hút được hơn Ì tỷ USD đó là: thành phố Hồ Chí Minh (8857,5 triệu USD); Hà Nội (6970,9 triệu USD); Đồng Nai (3258 9 triệu USD); Bà Rịa - Vũng Tàu (2249 triệu ƯSD); Hải Phòng (1456,4 triệu

USD) và Bình Phước - Bình Dương (1190,9 triệu USD). Sáu tỉnh thành phố này chiếm tói 76,4% tổng FDI đăng ký tại Việt Nam.

Trong giai đoạn này hình thức đầu tư chủ yếu là liên doanh và chiếm

6 2% số dự án và 7 0% số vốn đầu tư. Hình thức 100% vốn nước ngoài có xu. hướng tăng lên do chính sách thu hút FDI của Việt nam thay đổi và các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ngày càng được đối xử công bằng như đối với các doanh nghiệp liên doanh, cụ thể hình thức này chiếm 3 0% số dự án và 2 0% vốn đầu tư. Các chủ đầu tư Hàn Quốc, Nhật Bồn, Đài Loan dẫn đầu trong loại hình doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam. Các dự án dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chỉ chiếm 8% số dự án và 1 0% số vốn đầu tư.

2. Tình hình triển khai các dự án F DI trong giai đoạn này

Tình hình triển khai các dự án FDI ở Việt Nam giai đoạn 1988 - 1997 xem Phụ lục SỐ2.

- Tỷ lệ vốn thực hiện trong tổng vốn đầu tư tăng dẩn qua các năm : năm 1991 mới là 16.5% thì năm 1997 là 72%.

- Tỷ lệ vốn pháp định thực hiện trong tổng vốn đầu tư chiếm khoồng

50%, tăng từ 26-28% năm 1991-1992 lên 62.7% năm 1997. Bên Việt Nam thực hiện 64.9% vốn pháp định, bên nước ngoài thực hiện 43.7%. Đây là dấu hiệu đáng mừng thể hiện Việt Nam đang nô lực sử dụng nguồn vốn FDI vào quá trình phát triển kinh tế.

Biêu đồ 2.3.: Vốn FDI thực hiện tại Việt Nam 1991-1996

3000,

26ầf

ĩ & l & & & & &

2500

553 i 553 553 553

— — —

1500 8 2000 vỉ ta ạ

1099

ĩ. 1000

500

0 1991 1992 1993 1994 1995 1996

Nguồn: Vụ quản lý dự án - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

28

3. Những đóng góp tích cực của FDI cho nền kinh tế Việt Nam Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở v i ệt Nam đã phát triển nhanh chóng trong vòng lo năm vừa qua và trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân. (Xem phụ lục số 3)

- FDI là nguồn vốn quan trọng cho phát triển kinh tế của Việt Nam, là nhân tố ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng kinh tế.

Trong tỷng giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, khu vực FDI

chiếm tỷ lệ khá và tăng dần qua các năm, năm 1995 là 25,1%, năm 1996 là 26,7% và năm 1997 là 28,9%2. Tốc độ tăng trưởng của khu vực FDI luôn cao hơn khu vực có vốn đầu tư trong nước nên đã góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế ở mức cao.

Biểu đồ 2.4.: Doanh thu khu vực FDI tại Việt Nam 1991-1996

(Triệu USD)

1991

1992

1993

1994

1995

1996

Nguồn: Vụ quản lý dự án - Bộ Kế hoạch Đầu tư

- Đóng góp trong GDP. Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vị trí ngày càng tăng trong GDP của Việt nam, cụ thể:

- Chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý : Nhiều công nghệ hiện

đại ứên thế giới đặc biệt là trong ngành dầu khí và viễn thông. Góp phẩn nâng cao năng suất lao động, tăng cường khả năng sản xuất, tạo ra bưãc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoa, hiện đại hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoa mẫu mã, bao bì,...

2 Nguồn: Niên giám thống kê 1998

29

- Xuất nhập khẩu : tăng cả về k im ngạch và tỷ trọng trong tổng k im ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng luôn ở mức cao hơn rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng chung về xuất nhập khâu của toàn bộ nền kinh tế V i ệt Nam. Bình quân trong giai đoạn 1991-1997 xuất khẩu của khu vực F DI tăng 82,2%/năm. N ăm 1997 k im ngạch xuất khẩu chiếm 19,58% tổng k im ngạch xuất khẩu của Việt Nam.

- Nộp ngân sách : Tỷ trọng tăng dừn qua các năm.

- Giải quyết việc làm : lao động trực tiếp là 250000 người n ăm 1997 và hàng chục vạn lao động gián tiếp. Riêng trong ngành công nghiệp số lao động tăng từ 62900 người n ăm 1994 lên 104700 người n ăm 1995, 110000 người n ăm 1996 và 117200 người năm 1997.

- Công tác qui hoạch còn chậm, chất lượng chưa cao: Trong m ột số ngành công suất thiết kế khi cấp phép đừu tư vượt quá xa so vói nhu cừu thực tế,như ngành lắp ráp ô tô, sản xuất hàng điện tử gia dụng,... Trong tĩnh vực khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê, công suất khai thác chỉ đạt 30-40% công suất thiết kế. Qui hoạch các nhà máy chế biến chưa gắn với phát triển vùng nguyên liệu dẫn đến việc cung cấp nguyên liệu không ổn định, công suất hoạt động của nhà máy thấp đôi k hi nảy sinh cạnh tranh không lành mạnh, không thực hiện các cam kết hợp đồng cung ứng nguyên liệu,...

- Hiệu quả kinh tế - xã h ội còn thấp :

+ F DI chủ yếu tập trang vào các ngành có lợi nhuận cao và những địa phương có điều kiện thuận l ợi dẫn đến sự phát triển không đồng đều, mất cân đối giữa các ngành, các vùng.

+ Tỷ lệ xuất khẩu của khu vực F DI trong tổng k im ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 1991-1997 m ới đạt 1 0% thấp hơn nhiều nước trong k hu vực.

+ Nhiều máy móc thiết bị cũ lạc hậu được đưa vào V i ệt Nam gây ô nhiễm môi trường, lãng phí nguyên vật liệu, ...do công tác k i ểm tra, giám định hàng nhập khẩu còn kém.

+ Lượng lao động trong khu vực F DI còn khiêm tốn so với tiềm năng lao động của V i ệt Nam, bằng 8,5% tổng số lao động trong k hu vực nhà nước và m ới bằng 0,8% tổng số lao động đang làm việc trong toàn bộ nền kinh tế Việt Nam (36 triệu người). Phừn lòn lao động Việt Nam là lao động giản đơn, sau k hi tuyển dụng doanh nghiệp phải tốn nhiều chi phí để đào tạo m ới hoặc đào tạo lại. Lao động kỹ thuật có tay nghề cao rất hiếm. Trong m ột số doanh nghiệp FDI, quan hệ lao động có những biểu hiện không lành mạnh. Lý do co thể là chủ đừu tư cố tình kéo dài thời gian làm việc theo quy định va thoa thuận, trả lương thấp, đối xử tàn bạo, xúc phạm nhân phẩm người lao động; hoặc cũng có thể do người lao động chưa quen tác phong làm việc cong nghiệp nên còn tự do, tuy tiện; k ém hiểu biết về pháp luật nên đấu

30

4. Những vấn đề còn tồn tại trong quá trình thu hút và sử dụng FDI ở Việt Nam

tranh mang tính tự phát, tổ chức công đoàn chưa đủ mạnh và chưa phát triển rộng khắp trong tất cả các doanh nghiệp FDI.

- Hệ thống luật pháp đang trong quá trình hoàn thiện nên còn thiếu tính đồng bộ, chưa đảm bảo tính rõ ràng và dự đoán trước được, việc thi hành luật pháp chưa nghiêm.

Còn thiếu một số luật như luật về hải quan, kinh doanh bất động sản, luật cạnh tranh và chống độc quyền trong kinh doanh, ... M ột số chính sách liên quan trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp F DI thay đổi nhiều và quá nhanh ảnh hưầng xấu đến trạng thái kinh doanh ổn đinh của doanh nghiệp. Thiếu các chính sách khuyến khích và thiếu một sân chơi bình đẳng giữa các thành phần kinh tế dẫn đến tình trạng hầu như chỉ có các doanh nghiệp Nhà nước của Việt Nam tham gia vào hoạt động F DI mặc dù chủ trương của ta là khuyến khích m ọi thành phần kinh tế tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài.

- Quản lý nhà nước đối với hoạt động F DI còn yếu k ém : các diu tục sau giấy phép như cấp đất, hải quan, xây dựng, môi trường, ... tuy có nhiều sửa đổi nhưng vẫn còn phức tạp và phiền hà làm chậm trễ việc triển khai dự án, t ốn thời gian và tiền bạc của các nhà đầu tư, ảnh hưầng xấu đến môi trường đầu tư. Doanh nghiệp F DI chưa nghiêm túc trong việc chấp hành các chế độ báo cáo thống kê. Việc kiểm tra, thanh tra hoạt động của doanh nghiệp F DI còn tuy tiện và nhiều đầu mối, gây khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp.

- V ận động xúc tiến đầu tư còn thụ động, nặng về tuyên truyền luật pháp, chính sách mà chưa xúc tiến cụ thể theo các chương trình, dự án trọng điểm, chưa hướng mạnh vào những thị trường có tiềm năng lớn về đầu tư ra nước ngoài.

- Cán bộ là yếu tố quyết định nhưng lại đang là khâu yếu : do trình độ

ngoại ngữ, chuyên m ôn yếu, ít am hiểu pháp luật lại phải gánh vác những công việc khó khăn, phức tạp nên nhiều cán bộ Việt Nam chưa biết kết hợp hợp tác và đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của chủ đầu tư V i ệt Nam cũng như của người lao động Việt Nam, dẫn đến những sơ hầ, thiệt hại trong quá trình hợp tác đẩu tư. M ột số cán bộ chưa thấy hết trọng trách của mình trong vai trò đại diện cho quyền sầ hữu của Nhà nước trong các liên doanh, m ột số cán bộ kém phẩm chất, thoái hoa, chỉ nghĩ đến lợi ích trước mắt của bản thân nên đã gây ra những thiệt hại không nhỏ cho Việt Nam trong quá trình hợp tác đầu tư với nước ngoài.

^ n. TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ C H ÂU Á ĐẾN F DI V ÀO V IỆT N AM

Là một nước thuộc khu vực cháu Á Việt Nam khó tránh khôi "vòng xoáy" của cuốc

khủng hoàng tài chính tiền tệ diễn ra từ năm 1997. Hoạt động kinh tế đối ngoại của Viêt Nam nói chung và việc thu hút và sử dụng FDl nói riêng cũng chịu nhiều ảnh hưởng cả tích cực lân tiêu cực của khủng hoảng. Câu hỏi đặt ra là tác động của khủng hoảng đến FDI ở Việt Nam có giống các nước khác trong khu vực không và tại sao?

31

Nằm trong cùng một châu lục và đặc biệt là cùng một phía của lục địa châu Á, Việt Nam có nhiều đặc điểm kinh tế xã hội giống các nước trung tâm của khủng hoảng tài chính- tiền tệ vừa qua, nhưng bên cạnh đó cũng có những đặc trưng riêng của mình.

Chính sự giống và khác nhau này làm cho tác động của khủng hoảng châu Á thời gian vừa qua đến Việt Nam nói chung và FDI vào Việt Nam nầi riêng không hoàn toàn giống các nước khác.

1. Những nét tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và các nền kinh tế bị khủng hoảng khác trong khu vực

1.1. Những điểm tương đồng

Nền kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng cao trong 7-8 năm vừa qua tuy nhiên sự tăng trưởng này chưa thật sự ổn định và vững chắc. Cũng giống như các nước trong khu vực m ột phẩn quan trọng đóng góp cho tăng trưởng k i nh tế của Việt Nam là tốc độ tăng xuất khẩu và đẩu tư nước ngoài cao. Tiết k i ệm trong nước ở mức thấp chỉ chiếm khoảng trên dưới 2 0% GDP và có xu hưởng giảm, bằng một nửa tỷ lệ tiết k i ệm bình quân của m ột số nước trong k hu vực. Hệ số ICOR ngày càng tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của V i ệt nam không cao. X em bảng 2. ỉ dưới đây:

-Nền lành tế phát triển với tốc độ tương đối cao, nhưng chưa thực sự ần định và bền vững

Bảng 2.1: Hệ số ICOR, đầu tư và tiết kiệm trong nước của Việt nam

giai đoạn 1995-1999

Chỉ tiêu

1995 27,3 17,0

TK/GDP (%) Đ T / G DP (%) I C OR (lẩn)

3,1

1997 27,6 20,1 3,8

1998 23,6 17,0 4,6

1999 21,0 18,0 5,4

1996 27,9 16,7 3,1 Nguồn: Tầng cục Thống kê.

Đẩu tư tăng nhanh nhưng lại chỉ tập trung vào m ột số lĩnh vực nhất

định nên tạo ra sự phát triển mất cân đối. Đẩu tư quá nhiều vào các ngành k i nh doanh bất động sản, khách sạn, văn phòng cho thuê và m ột số ngành công nghiệp khác như dệt, điện tử, các chất tẩy rửa, nước giải khát, bia sản xuất mía đường, sắt thép, xi măng... Các ngành này hiện đa có biểu hiện suy thoái, cung vượt cẩu.

- Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý

- Mức thâm hụt cán cân vãng lai cao và kéo dài trong nhiều năm từ

năm 1992

T h âm hụt cán cân vãng lai và cán cân thương m ại đã gây sức ép đối với tỷ giá h ối đoái và tăng dư nợ nước ngoài của V i ệt Nam. N am 1996 can cân vãng lai thâm hụt 2 tỷ USD, bằng khoảng 1 0% GDP, n ăm 1997 m ác du thâm hụt có giảm nhưng vẫn ở mức cao khoảng 1,5 tỷ USD. Cán cân thương mại cũng ở tình trạng tương tự : n ăm 1996 thâm hụt 4 tỷ USD, n ăm 1997 • 2,3 tỷ USD, n ăm 1998 : 2 ty USD. Riêng n ăm 1999, cán cân thương m ại đã được cải thiện đáng kể, thâm hụt chỉ còn 0,2 tỷ USD do k h ối các doanh

32

nghiệp trong nước từ chỗ nhập siêu đã chuyển sang xuất siêu. Tuy nhiên, theo đánh giá của một số chuyên gia Bộ Thương Mại thì kết quả này chưa thể bền vững vì xuất khẩu của ta còn manh mún, hiệu quả xuất khẩu thấp và tỷ lệ trao đổi (Terms of Trade) còn rất bất lứi (T<100). - Nợ nước ngoài ngày càng tăng sau khi Việt Nam bình thường hoa

quan hệ với các tổ chức quốc tế và tái hoa nhập với cộng đổng tài chính quốc tế. Trước mắt khi nứ nước ngoài tăng, nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế đưức đáp ứng, nhưng về lâu dài gánh nặng nứ nần này ảnh hưởng không nhỏ đến cán cân thanh toán do nhu cầu về ngoại tệ để trả nứ tăng khi các khoản nứ đến thời hạn phải trả. Theo đánh giá của WB thì tỷ lệ Nứ/ GDP và Nứ/ Xuất khẩu của Việt nam ở mức rất cao (từ 95,61 % - 1 9 1% đối với tỷ lệ Nứ/GDP và từ 211,83% -651% đối với tỷ lệ Nứ/ Xuất khẩu), (xem Worl Debes Tables, Word Bank, 1996,1997,1998,1999,2000). Trong khi đó tỷ lệ Nứ/ GDP của các nước bị khủng hoảng đưức coi là trầm trọng hơn v i ệt nam thì thấp hơn như: Thái lan là 62,%, Inđônexia là 67%, Philípin 63%, Hàn Quốc 3 1% còn Trung Quốc thì tỷ lệ đó là 18%.

- Cơ cấu xuất nhập khẩu còn nhiều bất hợp lý Xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hàng nông lâm sản, nguyên liệu thô, sơ chế nên dễ mất giá trên thị trường quốc tế. Cơ cấu nhập khẩu đã đưức cải thiện trong những năm gần đây với tỷ trọng máy móc thiết bị nhập khâủ ngày càng tăng, nhưng các hàng tiêu dùng xa xỉ và một số hàng tiêu dùng mà trong nước đã đủ khả năng sản xuất vẫn tiếp tục đưức nhập vào Việt Nam.

- Dự trữ ngoại tệ quá thấp Năm 1997 dự trữ ngoại tệ của Việt Nam đưức coi là cao nhất cũng chỉ đạt 2085 triệu USD tương đương với lo tuần xuất khẩu3. - Bội chi ngân sách nhà nước kéo dài gây sức ép lớn đến nhu cầu vốn từ nước ngoài b ng ngoại tệ

Ngân sách nhà nước bội chi năm 1997 là 3,5% GDP gấp 3 lần năm 1996. Công cụ thuế chưa phát huy hết hiệu lực và hiệu quả đối với nền kinh tế.

- Duy trì ổn định quá lâu tỷ giá hối đoái

Chế độ tỷ giá ổn định kéo dài góp phần tạo sự ổn định cho môi trường

kinh tế vĩ mô, tăng tính hấp dẫn đối vói đầu tư nước ngoài nhưng cũng làm cho đồng Việt Nam tăng giá một cách khiên cưỡng so với USD dẫn đến sức ép gia tăng trên thị trường ngoại hối.

3 Tạp chí Ngân hàng Iháng 12/1998

33

Biểu đồ 2.5 • Dựtrữ ngoại tệ của Việt Nam

giai đoạn 1994-1998

25001

1994

1995

1996

1997

1998

Nguồn: Vụ quản lý ngoại hối- Ngân hàng nhà nước Việt nam.

- Hệ thống ngân hàng chưa phát triển, còn yếu kém trong quản lý đặc biệt ương việc thanh tra, kiểm soát

Các ngân hàng còn lỏng lẻo trong quản lý vốn, chất lượng tín dụng

kém, thất thoát, nợ đọng, nợ quá hạn, nợ khó đòi lớn. Các ngân hàng thương mại còn có tình trạng cho vay thanh toán đối ngoại tràn lanT Hậu quả là k hi thị truồng bất động sản suy giảm (đặc biệt tủ năm 1996 đến nay) nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, mất khả năng thanh toán đẩy các ngân hàng vào tình trạng thiếu vốn,...

- Trình độ cán bộ, nạn tham nhũng cũng đang là vấn đề đáng lo ngại

Trình độ thấp kém của các cán bộ đặc biệt là cán bộ làm công tác quản lý nhà nước luôn là vấn đề đau đầu của các nước đang phát triển trong đo có Việt Nam. Còn nạn tham nhũng thì không những là quốc nạn ở khu vưc châu Á mà trên toàn thế giói.

1.2. Những nét khác biệt

- Thị trường tài chính, tiền tệ còn sơ khai, còn đóng cửa với các nhà

đầu tư nước ngoài, kém hoa nh p với các thị trường khu vực và quốc tế

Thị trường chứng khoán ở Việt Nam mới đang trong giai đoạn hình

thành, thử nghiệm, các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu ... chưa phát triển nên đầu tư gián tiếp hay các luồng chu chuyển vốn ngắn hạn chưa có điều kiện phát triển. Thêm vào đó việc đầu tư của nước ngoài vào các giấy tờ có giá tại Việt Nam vẫn còn bị kiểm soát chặt chẽ nên khả nàng đầu cỡ gây bất lợi cho đồng tiền Việt Nam được hạn chế. Vậy nên sức ép cua việc chuyển vốn ngắn hạn (vốn nóng) ra khỏi Việt Nam không có và không thể gây nên những cú sốc đột ngột như đối một số nước trong khu vực. - Đồng tiền Việt Nam chưa là đồng tiền chuyển đổi

Chính vì đồng tiền Việt Nam chưa đủ mạnh nên chưa là đối tương của đầu tư quốc tế.

34

- Nguồn vốn đổ vào Việt Nam chủ yếu là nguồn vốn vay dài hạn -

ODA và FDI nên độ an toàn cao hơn

Nợ nước ngoài chủ yếu là nợ chính phủ tò nguồn O DA và nợ trung hạn và dài hạn, tỷ trọng nợ ngắn hạn không nhiều chỉ khoảng 1 0% tổng nợ nước ngoài. V ậy nên sức ép từ các khoản nợ này đối với cầu ngoại tử không mạnh như các nước trong khu vực bị khủng hoảng. Viửc vay nợ nước ngoài của các doanh nghiửp tuy hiửu quả sử dụng thấp nhưng nhìn chung chúng ta vân k i ểm soát được. F DI chiếm tỷ trọng lớn khoảng 7 0% tổng nguồn vốn nước ngoài vào Viửt Nam.

- Chế độ quản lý ngoại hối tương đối chặt chẽ

M ọi giao dịch bằng ngoại tử của Viửt Nam kể cả các giao dịch vãng lai

và giao dịch vốn đều phải tuân thủ những qui định rất chặt chẽ. Chính sách này đã tạo ra một rào chắn trước những áp lực của luồng ngoại tử chảy ra khỏi Viửt Nam hoặc những hoạt động đầu cơ tiền tử.

- Chính sách tỷ giá về mặt tổng thể cũng đã được điều chỉnh linh hoạt

trên cơ sở Ổn định giá trị đối nội và đối ngoại

Chính sách này một mặt tạo điều kiửn cho đồng V i ửt Nam được phản ánh tương đối sát thực với cung cầu ngoại tử tạo "neo giữ" góp phần k i ềm chế lạm phát, một mặt đáp ứng khả năng hỗ trợ xuất khẩu. Cụ thể từ n ăm 1986 đến nay Viửt Nam đã chủ động điều chỉnh tỷ giá để đạt mục tiêu nói trên : từ n ăm 1986-1990, tỷ giá VND/USD. Trước k hi khủng hoảng k hu vực xảy ra V i ửt Nam đã sớm có giải pháp nâng dần tỷ giá chính thức (tháng 2/1997 tăng 1 0% và tháng 8/1998 tăng 7 % ). Những giải pháp này đã kịp thời góp phần làm giảm bớt sức ép đối với tỷ giá h ối đoái của đồng V i ửt Nam.

- Chính phủ Việt Nam đã s m có những chỉ đạo kịp thời ngăn chặn

các nguy cơ khủng hoảng

Dự đoán trước nguy cơ khủng hoảng, nhận thức được các yếu k ém trong chính nền kinh tế nước mình, Chính phủ Viửt Nam đã sòm đề ra các biửn pháp đề phòng, đặc biửt là xử lý các vấn đề chính sách. Các giải pháp chỉ đạo xử lý nợ quá hạn từ năm 1994 và ngăn chặn kịp thời tình trạng mở L/C thanh toán tràn lan từ cuối năm 1996 thông qua khống chế mở L/C ngắn hạn tối đa, tỷ lử ký quĩ bắt buộc,... đã sớm hạn chế được ảnh hưởng của lĩnh vực này. Đồ ng thời Chính phủ cũng đã có các biửn pháp xử lý tài sản t hế chấp, giải toa nguồn vốn cho hử thống ngân hàng. Viửc xúc tiến xây dựng các qui chế, qui định đồng bộ đối với ngành ngân hàng đã góp phần không nhỏ trong tiến trình hoàn thiửn hử thống ngân hàng, đặc biửt viửc đưa vào thực hiửn Luật Ngân hàng và Luật Các tổ chức tín dụng.

Riêng về quan hử kinh tế đối ngoại, đặc biửt là quan hử thương m ại và đầu tư V i ửt Nam cũng có một số nét khác biửt so với các quốc gia khác trong khu vực.

- Về đối tác nư c ngoài trong quan hệ kinh tế đối ngoại

35

- Tính tương hố giữa thương mại và đầu tư

Trong khi các nước Đông Á và ASEAN luôn duy trì và phát triển quan hệ với các đối tác mạnh như Nhật Bản, Mỹ, EU và gần đây là Trung Quốc thì các đối tác chính của Việt Nam lại là các nước Đông Á và ASEAN. Hợp tác trong lĩnh vực thương mại và đầu tư của Việt Nam chỉ tập trung vào một số nước như Singapore, Nhật Bản và Hàn Quốc. Thị phần cua Việt Nam tại Mỹ, Nhật Bản va EU rất nhẫ.

Giữa thương mại và đầu tư có sự hỗ trợ lẫn nhau, đầu tư tại Đông Á và ASEAN giúp cho các nước này tăng tỷ trọng hàng chế biến xuất khẩu, những mặt hàng có hàm lượng vốn, công nghệ cao như hàng điện tử, sản phẩm hoa dầu, máy móc thiết bị, thiết bị bưu chính viễn thông, trong khi FDI tại Việt Nam mới chỉ góp phần tăng xuất khẩu các mặt hàng sử dụng nhiều lao động và khai thác tài nguyên thiên nhiên.

2. Tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á đến FDI tại Việt Nam

2.1. Khủng hoảng làm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư của Việt

Nam giảm so với các nước trong khu vực

Môi trường đầu tư ở Đông Á trước khi nẫ ra khủng hoảng về một số khía cạnh chưa thật sự hấp dẫn như các nước công nghiệp phát triển. Lý do là cơ sở hạ tầng chưa hiện đại, thậm chí còn lạc hậu, lao động chưa có trình độ kỹ thuật cao để đáp ứng nhu cầu của các ngành sản xuất tiên tiến, hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, chưa hoàn chỉnh và việc thực thi pháp luật chưa nghiêm minh, .... Tuy nhiên, nhờ biết tận dụng những lợi thế so sánh của mình như nguồn lao động rẻ, nguồn tài nguyên phong phú cộng với các chính sách khuyến khích và trợ giúp đầu tư nước ngoài đặc biệt là FDI, các nước Đông Á đã trò thành khu vực có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với các chủ đầu tư nước ngoài. Đặc biệt môi trường kinh tế của nhiều nước trong khu vực này được đánh giá cao nhờ sự phát triển năng động với tốc độ cao của nền kinh tế, tỷ lệ lạm phát thấp, tỷ giá hối đoái ẫn định theo đồng đô la, .... Thế nhưng, khủng hoảng tài chính tiền tệ nẫ ra đã làm đảo lộn tất cả.

2.1.1. Khủng hoảng làm độ rủi ro của môi trường đầu tư ở Việt Nam

tăng nhưng không mạnh như các nước trong khu vực

Sự sụp đẫ của thị trường tài chính ở nhiều nước, sự bất ẫn và trì trệ của nền kinh tế các nước này đã khiến cho mức độ rủi ro trong đầu tư của toàn khu vực tăng mạnh. Sức hấp dẫn của môi trường đầu tư ở các nước châu Á nói chung giảm. Các chủ đầu tư e ngại rót thêm vốn vào khu vực này, họ thận trọng và khắt khe hơn trong các quyết định đầu tư, họ nghe ngóng tình hình hoặc chuyển hướng đầu tư vào các khu vực khác an toàn hơn như Tây Âu, Bắc Mỹ, Mỹ La Tinh. Các nhà đầu tư châu Á cũng chuyển vốn vào các thị trường ngoài Đông Á như Hồng Kông, Trung Quốc, Ấn Độ, ... nơi ít chịu ảnh hưởng của khủng hoảng hơn.

36

Tổng luồng vốn vào các thị trường châu Á giảm đáng kể, từ 139 tỷ USD năm 1997 còn 65,8 tỷ usb năm 1998. Tại Hàn Quốc, Inđônêxiá, Malaixia, Thái Lan, Philippin do sự rút vốn ồ ạt của các nhà đầu tư luồng vốn tư nhân đã giảm 6 tỷ USD năm 1997, 24,6 tỷ USD năm 1998. Nếu tính chung cả 9 nước thành viên ASEAN, đến tháng 10 năm 1998, đầu tư nước ngoài vào khu vực này giảm khoảng 3 3% so với cùng kỳ năm 19974.

Như trên đã phân tích, Việt Nam không thể tránh khứi những tác động

tiêu cực của khủng hoảng, nhưng rõ ràng mức độ ảnh hưởng của khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam không mạnh như nhiều nước khác trong khu vực. Chính vì vậy mà nếu chỉ xét riêng tác động của khủng hoảng đến việc tăng rủi ro của môi trường đầu tư thì Việt Nam được xếp vào một trong những nước trong khu vực có mức rủi ro tăng thấp nhất.

2.1.2.Khủng hoảng làm chi phí đầu tư ở Việt Nam tăng tương đối so

với nhiều nước trong khu vực

Khủng hoảng làm cho đồng tiền các nước mất giá ở những mức độ

khác nhau. Nếu tính trong khoảng thời gian từ 1995 đến 1998, đồng Rupia của Inđônêxia mất giá mạnh nhất tới 333,28%, tiếp đến là Philippin đồng nội tệ bị mất giá khoảng 6 1 %, Thái Lan và Malayxia phá giá trên 5 0% đồng tiền của mình, còn đồng Việt Nam chỉ giảm 26,2%. Như vậy so với nhiều nước trong khu vực đồng tiền Việt Nam phá giá với mức độ nhẹ nhất. Điều này gây ra những tác động hai chiều, cả tích cực lẫn tiêu cực đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và FDI vào Việt Nam nói riêng.

Bảng 2.2 : Thay đổi tỷ giá hối đoái của một số đồng tiền trong khu vực

1995 1996 1997 1998 1998/1995 Đồng tiền Nước

Nguồn : Tạp chí nghiên cứu kinh tế thế giới số253, tháng 611999

26,2 25,61 PHP/USD Baht/USD Ringgit/USD 2,54 2,53 Inđônêxia Rupia/USD 2308 2383 5402 10000 25,7 Philippin Thái Lan 25,19 Malaixia Viêt Nam VND/USD 11016 11085 29,5 41,4 38 47,25 3,88 3,92 12297 13904 (%) 333,28 61,09 50,85 54,33 26,21

Cụ thể đối với FDI tác động này được lượng hoa bằng chi phí đầu tư. Ta sẽ chia thành ba trường hợp để xem xét.

Trường hợp thứ nhất là các chi phí để mua sắm các hàng hoa, dịch vụ trong nước. Trong các dự án FDI, chắc chắn chủ đầu tư phải bứ ra nhiều các khoản chi ban đầu để chuẩn bị dự án ở Việt Nam, phải tuyển người lao động là người Việt Nam và trả lương cho họ bằng tiền Việt Nam, phải thuê đất của Chính phủ Việt Nam và nhiều dự án với định hướng nguồn nguyên liệu còn mua sắm các nguyên, nhiên vật liệu tại Việt Nam để phục vụ cho hoạt động của dự án, thậm chí một số hoặc toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp (nhà xưởng, máy móc thiết bị,...) cũng được mua sắm tại Việt Nam. Điêu gì

4 Nghiên cứu kinh tế số 248 tháng 1/1999

37

sẽ x ảy ra đối v ới các chi phí này k hi đồng V i ệt N am mất giá nhưng không mạnh như đồng tiền các nước khác. K hi đó chi phí mà chủ đầu tư bỏ ra để mua các hàng hoa, dịch vụ này sẽ tăng m ột cách tương đối so v ới các dự án tương tự ở m ột số nước khác. Sở đĩ chi phí đầu tư chứ tăng "tương đố i" là vì thực tế giá các hàng hoa dịch vụ này k hi tính bằng đồng bản tệ của các nước có thể không thay đổi nhưng k hi q ui đổi ra cùng m ột đồng tiền (USD) để so sánh thì do mức độ mất giá của các đồng tiền khác nhau nên giá khác nhau và theo xu hướng giá thấp đối với các đồng tiền bị mất giá nhiều. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến l ợi nhuận mà dự án mang lại cho các nhà đầu tư, k h i ến các nhà đầu tư phải cân nhắc lại xem có nên đầu tư vào V i ệt N am hay không.

Căn cứ vào khảo sát của Bộ Thương m ại tại m i ền N am c u ối n ăm 1998 cho thấy, 8 4% các doanh nghiệp F DI được điều tra chọn V i ệt N am làm nơi sản xuất để khai thác l ợi thế về tài nguyên và lao động có tay nghề và c hi phí một số đầu vào khá thấp (đinh hướng chi pho để sản xuất hàng xuất khẩu. Nay mục tiêu này không thực hiện được nữa nên họ có ý định chuyển hướng đầu tư sang các nước khác trong k hu vực.

Trường hợp thứ hai là các chi phí để nhập khẩu hàng hoa từ các nước có đồng tiền mất giá mạnh. Trường hợp này có l ợi cho các chủ đầu tư tại V i ệt N am b ởi vì k hi đó giá các hàng hoa này q ui ra đồng V i ệt N am giảm dẫn đến c hi phí sản xuất giảm. Trên thực tế có rất nhiều dự án F DI tại V i ệt Nam,

đặc biệt là các dự án của các nhà đầu tư châu Á có sử dụng các m áy móc, thiết bị và cả nguyên vật liệu nhập khẩu từ các nước này.

Trường hợp thứ ba là các chi phí để nhập khẩu hàng hoa từ các nước mà đồng tiền không mất giá hoặc không mất giá mạnh như đồng V i ệt Nam. K hi đó rõ ràng dù giá các hàng hoa này tính bằng đổng tiền của các nước xuất khẩu hay cấc đồng tiền mạnh không đổi nhưng k hi q ui đổi ra đồng V i ệt N am thì tăng lên so v ới trước và như vậy giá thành sản phẩm của dự án sẽ tăng lên gây bất l ợi cho nhà đầu tư.

K h ủ ng hoảng nổ ra k h i ến các nước trong k hu vực nhận thức rõ hơn l ợi thế về tính ổn định của F DI so v ới các nguồn v ốn nước ngoài khác. Các nước châu Á đặc biệt là những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng đã tăng cường cải cách k i nh tế, công bố thêm nhiều những biện pháp ưu đãi và đảm bảo đầu tư. K ết quả là môi trường đầu tư - k i nh doanh ở các nước này trong con mắt các nhà đầu tư quốc tế đã trở nên hấp dẫn hơn. Những nước

thu hút đầu tư lớn như Trang Quốc, Ân Độ, Inđônêxia và những nước bắt đầu tiếp nhận F DI như Myanma, Pakistan đều ráo riết cải thiện môi trường đầu tư trở thành các đối thủ cạnh tranh nặng ký của V i ệt N am trong quá trình thu hút FDI. Trong k hi đó, mặc dù môi trường đầu tư nước ngoài của V i ệt nam đã được cải thiện khá nhiều so với thời kỳ đầu, nhưng so sánh v ới các nước

38

2.1.3.Khủng hoảng khiến các nước phải nỗ lực cải thiện môi trường đẩu tư và Việt Nam đi sau trong cuộc đua này

trong khu vực hiện tại thì môi trường của Việt nam lại kém hấp dẫn hơn. Chẳng hạn:

Hàn Quốc

Trước khủng hoảng, Hàn Quốc được coi là một trong những nền kinh tế tương đối đóng cửa đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tở lệ đầu tư trực tiếp nước ngoài so với tổng đầu tư vào tài sản cố định của Hàn Quốc trong giai đoạn 1986-1996 ở mức rất thấp khoảng 1% trong khi mức bình quân của các nước Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á thời kỳ này là 7,5%. Khủng hoảng nổ ra đã khiến Hàn Quốc phải xem xét lại các chính sách kinh tế, việc dựa quá nhiều vào vay nợ nước ngoài để đầu tư đã tỏ ra không hiệu quả, chính sách mở cửa đẩy mạnh thu hút FDI được coi là một trong những biện pháp chủ yếu để cơ cấu lại nền kinh tế. Cụ thể Hàn Quốc đã thực hiện những cải cách sau :

- Ban hành Luật xúc tiến đầu tư nước ngoài mới vào tháng li năm 1998 với rất nhiều thay đổi trong đó quan trọng nhất là Luật đã phản ánh việc chuyển quan điểm từ điều tiết và kiểm soát sang thúc đẩy và hỗ trợ đầu tư trực tiếp nước ngoài, đồng thời tuân thủ những chuẩn mực quốc tế, nhất là các qui định của OECD về lĩnh vực đầu tư, cụ thể là :

+ Chỉ đóng cửa 13 ngành và hạn chế 18 lĩnh vực đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng số khoảng 1150 ngành nghề của nền kinh tế Hàn Quốc.

+ Dành cho nhà đầu tư nước ngoài qui chế đãi ngộ quốc gia (NT) trong việc thành lập và hoạt động kinh doanh.

+ Đơn giản hoa rất nhiều thủ tục đầu tư, thay chế độ cấp giấy phép bằng chế độ thông báo và đăng ký đầu tư, thực hiện cơ chế một cửa thông qua Trung tâm Dịch vụ đầu tư Hàn Quốc.

+ Thành lập các khu đầu tư nước ngoài với qui chế ưu đãi riêng.

- Thực hiện tự do hoa thị trường chứng khoán và thị trường vốn. Bãi bỏ hoàn toàn các hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài trong việc sáp nhập và mua lại các công ty của Hàn Quốc. Áp dụng chế độ giao dịch ngoại hối tự do từ ngày 01/04/1999.

- Từng bước mở cửa thị trường đất đai và bất động sản. Luật mua bán

đất đai của người nước ngoài ban hành tháng 6/1998 đã xoa bỏ hạn chế trong việc mua bán và sử dụng đất đai của các đối tượng này. Thời hạn thuê đất cũng được kéo dài tới 100 năm.

Thái Lan

Trước khủng hoảng FDI vào Thái Lan chỉ chiếm 1 5% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào nước này. Để đương đầu với cuộc khủng hoảng Thái Lan đã tiến hành rất nhiều cải cách cơ bản về môi trường đầu tư nước ngoài, cụ thể là:

39

- Ban hành Luật kinh doanh của người nước ngoài mới vào tháng 10/1998, thiết lập nguyên tắc tự do kinh doanh cho người nước ngoài, thu hẹp các lĩnh vực cấm và hạn chế đầu tư từ 68 lĩnh vực theo Luật năm 1972 xuống còn 38 lĩnh vực, nới lỏng các hạn chế về tỷ lệ sở hứu vốn nước ngoài.

- Sửa đổi Luật Đất đai và nhà ở theo hướng nâng thời hạn thuê đất tối đa lên tới 100 năm, cho phép nhà đầu tư nước ngoài nếu đáp ứng một số điều kiện sẽ được sở hứu đất ở mức khống chế nhất định, mở cửa lĩnh vực kinh doanh nhà ở trong vòng 5 năm.

- Tự do hoa lĩnh vực tài chính, chấp nhận cho nhà đầu tư nước ngoài

quyền mua lại toàn bộ cổ phần của các ngân hàng Thái Lan trong vòng 10 năm từ 1997.

- Tăng cường ưu đãi đầu tư đối với một số lĩnh vực đặc biệt là các dự án đẩu tư vào xuất khẩu, điện tử, chế biến thực phẩm,...

- Tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư của Hội đồng Đầu tư Thái Lan.

Trung Quốc

Kể từ khi tiến hành cải cách mở cửa đến nay Trung Quốc đã thu hút lượng FDI gần bằng một nửa tổng FDI vào các nước đang phát triển. Trang Quốc trở thành một đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trong thu hút FDI trong nhóm các nước đang phát triển. Là một nước đông dân, Trung Quốc đã duy trì tốc độ tăng trưởng cao và ổn định trong suốt một thập kỷ 1979-1989 (9,4%/năm). Gần đây tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước này đạt 12%/năm. Thành quả này có được một phần nhờ chính sách thu hút đầu tư nước ngoài hợp lý của Trang Quốc. Đầu tư nước ngoài được coi là một trong nhứng yếu tố cơ bản để phát triển đất nước. Trong 4 năm gần đây, khối lượng FDI vào Trung Quốc luôn lớn nhất trong các nước đang phát triển và thứ hai trên thế giới, sau Mỹ. Lo ngại trước nguy cơ ảnh hường tiêu cực của khủng hoảng đến FDI, Trung Quốc đã rất nỗ lực trong việc cải thiện, tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư và chú trọng đến hiệu quả sử dụng FDI. Cụ thể là :

- Bảo đảm vứng chắc các điều kiện thuận lợi cho F D I: từ 1/1/98 bãi bỏ thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng khi cung ứng các thiết bị, máy móc cho các công trình xây dựng có vốn đầu tư nước ngoài.

- Khuyến khích và hướng đầu tư vào các dự án sử dụng công nghệ tiên tiến và kinh tế nông nghiệp.

- Sử dụng rộng rãi hơn vốn nước ngoài vào các ngành sản xuất hướng vào xuất khẩu.

- Tiếp tục mở cửa thị trường các dịch vụ cho các nhà đầu tư nước ngoài có cả tài chính, bảo hiểm, viễn thông, du lịch và ngoại thương.

Mặc dù bị ảnh hưởng của khủng hoảng FDI vào Trung Quốc trong năm 1998 vẫn tăng so với năm 1997.

40

Nhật Bản

Trước biến động của khủng hoảng đầu tháng 4/1998 chính phủ Nhật Bản đã phát động chương trình cải tổ tài chính "Big bang". Theo chương trình này, các nhà đầu tư được phép tự do luân chuyển vốn cả ở trong và ngoài nước, thị trường hối đoái mở cửa, giá cả dịch vụ tài chính được thả nổi, các công ty nước ngoài được tự do cặnh tranh, không phân biệt đối xử trên thị trường nội địa.

Việt Nam

So với các nước, Việt Nam có một số điểm bất lợi trong quá trình thu

hút FDI, đó là :

- Việt Nam chưa là thành viên của WTO, mặc dù đã ký hiệp định thương mặi với Mỹ nhưng Quốc hội hai nước chưa phê chuẩn, đây là một trở ngặi cho các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu của Việt Nam.

- K hi các nước A S E AN ký hiệp định thành lập K hu vực Đầu tư A S E AN ( A I A ), các nhà đầu tư lặi một lần nữa phải lựa chọn đẩu tư vào nước nào trong khu vực. Hiện tặi các nhà đẩu tư cho rằng đầu tư vào các nước thành viên khác của A S E AN có lợi hơn đầu tư vào Việt Nam vì chi phí rẻ hơn. Do Việt Nam đã gia nhập ASEAN, cùng xây dựng N A F TA thống nhất vào năm 2006, việc đẩu tư mới hoặc mở rộng qui m ô, tăng năng suất tặi các cơ sở hiện có ở các nước này sau đó xuất khẩu trở lặi Việt Nam sẽ có lợi hơn rất nhiều.

Trong cuộc đua cải thiện môi trường đầu tư để tăng cường thu hút F DI

này, Việt Nam cũng đã nỗ lực rất nhiều. Môi trường pháp lý về đầu tư nước ngoài tặi Việt Nam tiếp tục được cải thiện theo hướng tăng ưu đãi, giảm thủ tục hành chính phiền hà, ... Nhiều văn bản pháp lý ra đời với những biện pháp đảm bảo và khuyến khích đầu tư ngày càng có lợi cho các chủ đầu tư nước ngoài như Nghị định 10/1998/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 23/01/1998 về "Một số biện pháp khuyến khích và bảo đảm hoặt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tặi Việt Nam", Quyết định 53/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 26/03/1999 về "Một số biện pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài" và nhiều văn bản của các bộ, ngành hướng dẫn thực hiện các văn bản trên. Việc cấp giấy phép cũng được cải tiến rất nhiều, cụ thể là Chính phủ đã phân cấp cho Uy ban nhân dân tất cả các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương được quyền thẩm định và cấp giấy phép đầu tư cho các dự án đảm bảo một số điều kiện nhất đinh, nhiều Ban quản lý K hu công nghiệp cấp tỉnh cũng được Bộ Kế hoặch và Đầu tư uy quyền cấp giấy phép đầu tư cho các dự án F DI trong khu, ... Bên cặnh đó các cơ quan quản lý Nhà nước của Việt Nam cũng tăng cường tiếp xúc với các nhà đầu tư nước ngoài thông qua các cuộc gặp gỡ, hội thảo, thiết lập các đường dây nóng để kịp thời giải quyết các vướng mắc của các nhà đầu tư,...

Tuy có nhiều cố gắng trong việc cải thiện môi trường đầu tư, nhưng Việt Nam vẫn bị đánh giá là nước có môi trường đầu tư kém hấp dẫn trong khu vực với những lý do cụ thể như sau :

41

- về lĩnh vực đầu tư : có nhiều lĩnh vực mà các nước khác đã mở cửa để thu hút đầu tư nước ngoài thì Việt Nam vẫn tiếp tục hạn chế đầu tư nước ngoài. Thêm vào đó, các nước quy định các lĩnh vực, ngành nghề, sản phàm khuyến khích, cấm hoặc hạn chế đầu tư rất cụ thể trong khi các danh mục của Việt Nam còn khá chung chung dẫn đến khó khăn trong thực hiện.

- Về hình thức đầu tư : Việt Nam mới chố cho phép các nhà đầu tư nưóc ngoài đầu tư vào Việt Nam dưới ba hình thức trong khi ở các nước khác các nhà đầu tư có nhiều sự lựa chọn hơn về vấn đề này. - Về thủ tục đầu tư : Việt Nam hiện về cơ bản vẫn áp dụng chế độ cấp

phép đối với tất cả các dự án FDI trong khi nhiều nước đã áp dụng chế độ đăng ký đầu tư. Thủ tục đầu tư của Việt Nam phức tạp hơn so với các nước khác. Sau khi có giấy phép đầu tư các nhà đầu tư còn phải xin rất nhiều các loại giấy phép khác mới được triển khai dự án. Việt Nam chưa có cơ quan dịch vụ tư vấn đầu tư miễn phí như ở các nước. - Về đất đai, bất động sản : Các qui định của Việt Nam về vấn đề này

khắt khe hơn các nước trong khu vực. Tại Việt Nam, người nước ngoài không được sở hữu đất, chố được thuê đất để thực hiện dự án đầu tu với thời hạn toi đa là 50 năm, trường hợp đặc biệt có thể lên tới 70 năm, chố được thế chấp tài sản trên đất gắn liền với quyền sử dụng đất tại các tổ chức tín dụng Việt Nam. Người nước ngoài chố được sở hữu không quá một nhà ở cho bản thân và gia đình họ. - Về vay vốn : Các qui định về vấn đề này đối với các dự án FDI tại Việt Nam không thông thoáng bằng ở các nước. - Về ngoại hối : Trong thời gian gần đây, các nước trong khu vực trừ

Malaysia đã nới lỏng các qui định về quản lý ngoại hối, về việc cân đối ngoại tệ của các dự án FDI, còn ở Việt Nam chính sách ngoại hối đối với các dự án FDI vẫn rất chặt chẽ. - Về thuế : Việt Nam đã dành thêm nhiều ưu đãi về thuế hơn cho các

dự án FDI nhưng so với ưu đãi về thuế của các nước khác thì ưu đãi về thuế của Việt Nam xếp ở mức trung bình.

Vài năm trước, các chuyên gia kinh tế nước ngoài đánh giá môi trường đầu tư của Việt Nam khá hấp dẫn so với các nước láng giềng. Tuy nhiên hiện nay dưới tác động của khủng hoảng, những yếu kém, tồn tại vốn có của môi trường đầu tư ở Việt Nam bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Các chính sách biện pháp và nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư của Chính phủ Việt Nam tuy đã đạt được một số thành tựu nhất định, song về cơ bản còn manh mún thiêu đồng bộ và chưa đạt được những mục tiêu ban đầu đề ra. Do vậy, môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng mất lợi thế so với các nước khác trong khu vực.

42

2.2. FDI đăng ký tại Việt Nam liên tục giảm

221 Tình hình đầu tư mới và bổ sung vốn của các dự án FDI tại Việt Nam

Nếu xét theo số dự án đăng ký thì FDI vào Việt Nam giai đoạn 1997- 1999 giảm nhưng không quá mạnh. N ăm mạnh nhất là năm 1998 vói số lượng dự án giảm 1 7% so vói năm 1997, năm 1999 số dự án đăng ký mới chỉ kém năm 1998 một dự án (xem phụ lục số 3).

Tuy nhiên nếu chỉ xét số dự ấn thì không phản ánh được rõ nét tình hình FDI vào Việt Nam bởi lẽ qui mô vốn đầu tư của các dự án rất khác nhau. Thực vậy, nếu xem xét tổng số vốn roi đăng ký vào Việt Nam trong giai đoạn 1997-1999 thì thấy rõ tinh hình roi ờ Việt Nam đang ở mức báo động với sự sụt giảm chưa từng thấy. N ăm 1997 tổng vốn đăng ký của các

Biểu đồ 2.6.: Tổng vốn FDI đăng ký và bổ sung tại Việt Nam (Triệu USD)

7000 5796 6000

_

4801 5000

4000

-

3000 2031 2000

-

1000

0 1997 1998 1999

Nguồn: Vụ quản lý dự án - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

dự án FDI mói ở Việt Nam là 4654 triệu USD giảm gần 5 0% so với năm 1996. N ăm 1998 tổng FDI đăng ký vào Việt Nam tiếp tục giam nhưng không giảm mạnh như năm 1997 (giam 1 6% so với 1997). N ăm 1999 đánh dấu thời kì ảm đạm trong FDI tại Việt Nam, vốn FDI đăng ký vào Việt Nam giảm với tốc độ mạnh hơn năm 1997, chỉ còn bằng 1/3 FDI đăng ky trong năm 1998 mặc dù tình hình kinh tế của khu vực châu Á đã có nhiều dấu hiêu khả quan. Nhiều nước trong khu vực đã phục hồi kinh tế và khôi phục đầu tư ra nước ngoài.

Kết hợp hai yếu tố trên ta có thể đi đến nhận xét thứ ba đó là qui mô bình quân vốn đầu tư của một dự án giảm. N ăm 1996 là năm qui mô vốn đầu tư bình quân của một dự án đạt mức kỷ lục 23,48 triệu ƯSD/dự án, năm 1997 chỉ tiêu này giảm đột ngột xuống còn 14,06 triệu ỪSD/dự án, giam khoang 40%. N ăm 1998 qui mô dự án có tăng nhưng không đáng kể so vói năm 1997, nhưng nó không đánh dấu sự phục hồi của FDI vào Việt Nam bởi lẽ năm 1999 chỉ tiêu này giảm xuống mức thấp nhất chỉ còn 5,39 triệu USD/dự

43

án nghĩa là bằng khoảng 1/3 qui mô bình quân của năm trước. Điều này có nghĩa là các nhà đầu tư nước ngoài chú trọng hơn đến các dự án nhỏ, khả năng thu hồi vốn nhanh để tranh thủ các ưu đãi của Chính phủ Việt Nam. Xét về lâu dài các dự án này không giúp ích nhiều cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam theo hướng công nghiệp hoa và chuyển giao công nghệ hiện đại vào Việt Nam.

Vốn bổ sung cho các dự án FDI đang hoạt đờng ở Việt Nam cũng có xu hướng giảm trong hai năm 1998, 1999 làm cho tổng vốn đăng ký mới và bổ sung của FDI vào Việt Nam trong giai đoạn này giảm. 2.2.2. Nguyền nhân của sự giảm sút FDI vào Việt Nam

Nguyên nhãn thứ nhất: Tính hấp dẫn của môi trường đầu tư ở Việt Nam giảm so với các nước trong khu vực

Như đã phân tích ở phần trên, mặc dù khủng hoảng không chỉ tác đờng tiêu cực đến môi trường đầu tư tại Việt Nam, những những tác đờng tích cực không đủ mạnh để át đi những tác đờng tiêu cực chính VI vậy nhím về tổng thể môi trường đầu tư Việt Nam kém sức hấp dẫn hơn các nước khác. Đây chính là lý do khiến cho tất cả các chủ đầu tư nước ngoài phải e ngại, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định đầu tư vào Việt Nam. Nguyên nhân này đặc biệt đúng vào năm 1997 khi khủng hoảng bắt đầu nổ ra ở châu Á. Tất cả các chủ đầu tư có xu hướng dừng các quyết định đầu tư của mình vào khu vực này lại để nghe ngóng, xem xét diễn biến của khủng hoảng, vì vậy FDI vào Việt Nam trong giai đoạn này giảm mạnh là điều dễ hiểu. Đến năm 1998 khi đã phần nào biết đuợc và dự đoán được diễn biến của cuờc khủng hoảng phải thừa nhận rằng môi trường đầu tư ở Việt Nam ít chịu ảnh hưởng xấu cua khủng hoảng hơn các nước khác, thêm vào đó là những nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam nên tốc đờ suy giảm FDI bắt nguồn từ nguyên nhân môi trường đầu tư đã được chặn lại. Nhưng năm 1998 cũng là năm mà các nước trong khu vực nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của FDI đối với nền kinh tế, chính vì vậy họ cũng nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư. Và những cố gắng này của họ đã phát huy tác dụng mạnh mẽ vào năm 1999 thông qua việc phục hồi và tăng mạnh dòng FDI vào mờt số nước châu Á. Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến tính hấp dẫn tương đối của FDI vào Việt Nam và khiến cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn lại mờt lần nữa trở thành nguyên nhân quan trọng làm giảm tới mức kỷ lục FDI vào Việt Nam năm 1999. Nguyên nhân thứ hai: Khó khăn về tài chính của các chủ đầu tư đặc biệt là các chủ đầu tư ở châu Á - đối tác chính cung cấp F DI cho Việt Nam

Trước năm 1997, các nước châu Á trong đó có những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng như Hàn Quốc, Thái Lan luôn dẫn đầu trong danh sách các nhà đầu tu lòn nhất vào Việt Nam với tổng vốn đăng ký chiếm tới khoảng 7 0% tổng FDI đăng ký vào Việt Nam giai đoạn 1988-

44

1996. Khủng hoảng nổ ra đã làm cho rất nhiều chủ đầu tư châu Á gặp khó khăn về mặt tài chính cả đối với vốn tự có của họ lẫn việc đi vay. N ăm 1997, năm bắt đầu khủng hoảng, FDI vào khu vực châu Á không tăng, mức tăng trưởng GDP của các nước châu Á giảm sút nghiêm trọng. Điều này làm giảm khả năng tích lũy từ GDP, nhất là từ khu vực tư nhân cho đầu tư tăng trưởng kinh tế trong nước và đầu tư ra nước ngoài. Vì vịy khả năng tăng FDI của các nước này vào Việt Nam rất hạn chế. Riêng Nhịt Bản, cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán và những biến động tài chính đã buộc chính phủ nước này phải có những điều chỉnh nhất định về chiến lược đẩu tư ra nước ngoài, tịp trung nguồn lực để giải quyết các vấn đề trong nước. Thêm vào đó do sự giảm giá của đồng Yên so với đồng đô la nên các công ty Nhịt Bản nhất là các công ty vừa và nhỏ quan tâm nhiều hơn đến thị trường trong nước, hạn chế đầu tư ra nước ngoài. Cuộc khủng hoảng đã làm phá sản hàng loạt các công ty, các tịp đoàn mạnh ở các nước, vốn là các đối tác chính của Việt Nam. Các công ty bên bờ vực phá sản buộc phải cắt giảm đầu tư ra nước ngoài.

Sự phá giá đồng nội tệ của một loạt nước đã làm cho giá trị nội tệ của các khoản nợ nước ngoài tăng lên tương ứng, nhiều công ty và ngân hàng châu Á mất khả năng chi trả. Nhiều ngân hàng phải đương đầu với những khoản thua lỗ lớn. Tại Nhịt Bản, các ngân hàng đã có tới 250 tỷ USD các khoản cho vay không có khả năng thanh toán từ những năm 1980. Riêng năm 1996, số nợ của lo nước châu Á và Hồng Kông đối với các ngân hàng Nhịt Bản đã lên tới 299 tỷ USD5. Tinh trạng tương tự cũng diễn ra ở các ngân hàng Hàn Quốc, Thái Lan, Inđônêxia.

Các công ty ở châu Á bị phá sản đã ảnh hưởng trực tiếp đến các ngân hàng thương mại của Mỹ và EU vì trong giai đoạn phát triển "thần kỳ" trước đây những ngân hàng này đã cho các công ty của các nước đang khủng hoảng vay những khoản khá lớn. Vì vịy mà nhiều ngân hàng của My và EU không còn đủ vốn để cấp cho các chủ đầu tư của các nước này. Trong tình hình khó khăn về tài chính và nhịn thức rõ ảnh hưởng xấu

của việc cho các doanh nghiệp vay nợ quá nhiều, các ngân hàng rất thịn trọng trong việc cho vay vốn đầu tư. Các điều kiện cho vay vốn khắt khe hơn. Công tác thẩm định các dự án cũng được chú trọng hơn. Chính vì vịy các chủ đầu tư khó có khả năng vay vốn ngân hàng để thực hiện dự án nếu không đệ trình được một luịn chứng kinh tế kỹ thuịt với sức thuyết phục cao. Tất cả các yếu tố nêu trên đã tác động tiêu cực tới khả năng tài chính của các nhà đầu tư, dẫn đến sự giảm sút FDI từ các nước châu Á và từ các khu vực khác vào Việt Nam. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng đến năm 1999 khả năng tài chính của nhiều nhà đầu tư châu Á đã phục hồi, vịy nên đây

5 Kinh tế 97-98 - Thời báo Kinh tế Việt Nam

45

không còn là một nguyên nhân quan trọng để lý giải sự sụt giảm của FDI vào Việt Nam trong năm 1999 và những thang đầu năm 2000.

Nguyên nhân thứ ba: Chính sách hạn chế đầu tư ra nước ngoài của chính phủ các nước bị khủng hoảng và của I MF

Trong thời gian khủng hoảng, dự trữ ngoại tộ của nhiều nước châu Á giảm mạnh, thâm hụt cán cân thanh toán gia tăng, nợ đến hạn phải trả ngày càng lớn, ... do vậy chính phủ nhiều nước đã thực thi những biện pháp, chính sách hạn chế nguẩn vốn ra nước ngoài. Các nhà đầu tư dù không gặp khó khăn và có sẩn vốn nhàn rỗi cũng gặp nhiều trở ngại trong việc chuyển tiền ra nước ngoài để đầu tư.

Bên cạnh đó IMF cũng buộc các nước đã ký "Hiệp định trợ giúp" với IMF và đề nghị các nước khác nên thực hiện chính sách ngân sách, tài chính khắc khổ và kiểm soát chặt chẽ hệ thống ngân hàng tài chính hiện đang gặp khó khăn. IMF khuyến cáo : mọi quyết định cho vay và đầu tư phải can cứ vào hiệu quả và độ rủi ro của dự án; những dự án nào không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp và độ rủi ro cao thì phải kiên quyết từ bỏ. Chính sự kiểm soát sát sao luẩng vốn đầu tư ra nước ngoài này cũng đã cản trở và làm giảm FDI của các nước châu Á vào Việt Nam.

Nguyên nhân thứ tư: Đầu tư mua chứng khoán, bất động sản, mua lại các doanh nghiệp ở khu vục bị khủng hoảng trở nên hấp dẫn hơn đầu tư vào Việt Nam

2.3. Nhiêu dự án FDI gặp khó khăn trong quá trình triển khai

Khủng hoảng tài chinh tiền tệ cháu Á không chỉ tác động đến quyết định đầu tư mới của các chủ đầu tư mà còn tác dộng cả đến việc triền khai các dự án mà chủ đầu tư

nước ngoài đã được cấp giấy phép tại Việt Nam.

Giá trị tài sản nhất là cổ phiếu và bất động sản trong khu vực có xu hướng sụt giảm, làm tăng sức hấp dẫn đối với các chủ đầu tư nước ngoài thích mạo hiểm đầu cơ vào các tài sản này chờ lên giá. Gần đây FDI có xu hướng tăng vào các nước bị khủng hoảng ở khu vực để mua lại các doanh nghiệp bị phá sản, thua lỗ với giá rẻ, tăng việc hợp nhất, sáp nhập các doanh nghiệp. Thị trường chứng khoán của Việt Nam chưa phát triển nên không tiếp nhận được dòng vốn này.

2.3.1. Tình hình vốn thực hiện các dự án FDI giai đoạn 1997-1999

Vốn thực hiện của các dự án FDI tại Việt Nam cũng đang trên đà suy

giảm nhưng diễn biến của nó có hơi khác so với vốn FDI đăng ký vào Việt Nam. Sau sự sụt giảm của vốn thực hiện của các dự án FDI tại Việt Nam năm 1996, khoản vốn này trong năm 1997 đã tăng lên đáng kể và đạt mức kỷ lục về vốn thực hiện kể từ khi Việt Nam mở cửa thu hút FDI. Điều này có thể lý giải được bởi vì khủng hoảng đến tháng 7/1997 mới nổ ra nên các chủ đầu tư chưa bị ảnh hưởng. Hơn nữa, các dấu hiệu của khủng hoảng đã rõ nét ở nhiều nước nhưng không rõ nét ở Việt Nam, chính vì vậy các chủ đầu tư

46

vẫn yên tâm rót vốn vào Việt Nam. N ăm 1998 vốn thực hiện giảm mạnh khoảng gần 4 0% so với năm 1997. Sự giảm sút này là khó tránh khỏi do trên 6 0% vốn đăng ký chưa thực hiện là từ các nước châu Á - những nước đang lâm vào khủng hoảng. N ăm 1999, vốn thực hiện vẫn tiếp tục giảm khoảng 2 2% so với năm 1998, như vậy tốc độ giảm sút vốn thực hiện đã ở mức thờp hơn năm 1998.

Sự giảm sút của vốn thực hiện chứng tỏ các nhà đầu tư đang trì hoãn quá trình triển khai dự án do nhiều nguyên nhân khác nhau.

Bảng 2.3 : Danh mục một số dự án đầu tư lớn khó có khả năng triển

khai tính đến cuối năm 1998

Hiện trạng

Tên dự án

TT

Sản phẩm

Nước đầu tư Vốn đầu tư (triêu USD)

1

Đài Loan

260

Xi măng

Thái Lan

Xi măng

2

250

Cty Xi măng Hoàn Cờu Cty Xi măng H ải Long X N LH TF Vũng Tàu Inđônêxia

3

133

Khó khăn về thị trường Khó khăn về thị trường và tài chính Bên nước ngoài không đưa vốn vào Khó khăn về tài chính

147,8

Hàn Quốc

4

Cty T N HH Kolon

5

Cty Samsung Vina

Hàn Quốc

192,7

105

6

Cty T N HH M i no VN Australia

Khó khăn về thị trường Chậm triển khai, x in thôi thuê đờt Khó khăn về tài chính

Nhật Bản

7

8

Chậm triển khai dự án

Cty LD ô tô Nissan VN Cty LD Chrysler

Hoa Kỳ

191,5

no

Thực phẩm Sợi, nan sợi Sợi, nhuôm Khung nhôm Lắp ráp ô tô Lắp ráp ô tô Nguồn : Vụ Quản lý dự án - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Trong năm 1997 có 8 dự án FDI từ các nước Đông Nam Á vào Việt Nam phải hoãn hoặc ngừng hẳn đầu tư như khách sạn Wisma-OSC liên doanh với Singapore, dự án sản xuờt sợi polyeste của Hàn Quốc, khách sạn Corca Furture liên doanh với Hàn Quốc, dự án công viên Nguyễn Du liên doanh với Hồng Kông,... Tổng số vốn của các dự án trên là 274,6 triệu USD, trong đó từ các nước ASEAN là 23,7 triệu USD,'các nước khác là 225,3 triệu USD.

Vốn thực hiện dự án của các nước trong khu vực như Hàn Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, Philippin, Malaysia năm 1998 giảm 5 0% so với năm trước, của Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan giảm 30-40%.

Qua số liệu sơ bộ có thể thờy lượng dự án xin hoãn triển khai trong

lĩnh vực kinh doanh bờt động sản rờt nhiều. Trong tổng số vốn đầu tư chưa thực hiện, khoảng 5 0% nằm trong các dự án xây dựng và kinh doanh bờt động sản như khách sạn, văn phòng cho thuê, nhà cao tầng, xây dựng các khu đô thị mới, ... Các dự án bờt động sản khó có khả năng thực hiện ước

47

tính tổng vốn đẩu tư lên tới 4 tỷ USD. Tổng số vốn của các dự án xin giãn tiến độ triển khai lên tới trên Ì tỷ USD. Nhiều dự án FDI trong các lĩnh vực chế biến nông sản, sản xuất vải sợi, may mặc, giày dép, sắt thép xây dựng, linh kiện điện tử, ... cũng gặp khó khăn trong triển khai. Tổng số vốn đăng ký của các dự án xin dạng hoặc giãn tiến độ triển khai trong các lĩnh vực này khoảng 1,7-2 tỷ USD trong đó riêng các dự án dạng triển khai trong các khu công nghiệp có tổng vốn đăng ký lên tới gần Ì tỷ USD (tính đến quí ì năm 1998). Như vậy tổng vốn đăng ký của các dự án dạng hoặc giãn tiến độ triển khai khoảng 6-7 tỷ USD chiêm 18-22% tổng vốn đầu tư đang ký. Tính đến tháng 3/1999, trong số 14 doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô, có ba dự án không triển khai là Oưysler, Nisan, vietsin; dự án Mercedes-Benz tạm ngạng đầu tư tiếp; liên doanh Mekong đã ngạng sản xuất.

Nhiều dự án do không triển khai được hoặc triển khai không đúng qui định của giấy phép đầu tư đã bị thu hồi giấy phép. N ăm 1998 là năm đạt kỷ lục về số lượng dự án và tổng vốn đăng ký của các dự án FDI bị giải thể ở Việt Nam với 95 dự án và 2426 triệu USD vốn đăng ký, nếu so vói 352 triệu vốn đăng ký của các dự án bị giải thể năm 1997 thì con số trên quả là đáng lo ngại. N ăm 1999 tình trạng này đã bị chặn lại, số dự án bị giải thể trong năm chỉ là 57 và số vốn của các dự án này chỉ bằng 1/5 của năm trước. Các dự án bị rút giấy phép trước thời hạn phần lớn có qui mô nhỏ, trong đó trên 8 8% số dự án có vốn dưới lo triệu USD. Những nước có dự án bị rút giấy phép nhiều nhất là Hồng Kông ( 2 7% số dự án hiện có tại Việt Nam, 1 2% vốn đăng ký), Pháp và úc.

Theo báo cáo của các doanh nghiệp FDI, có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc

chậm hoặc không triền khai được dự án trong dó hai nguyên nhân chính là khó khăn về thị trường và tài chính. Trong đó khó khăn về tài chính chủ yếu từ phía chủ đầu tư nước ngoài. Bên Việt Nam chủ yếu góp vốn bằng giá trị quyền sử d ng đất nên không gặp phải khó khăn về tài chính.

23.2. Nguyên nhân của việc chậm hoặc ngừng triển khai dự án

Ngoài lý do chi phí đầu tư tăng tương đối so với các nước khác, khó khăn về tài chính của các chủ đầu tư và hạn chế của Chính phủ một số nước đối với việc chuyển vốn ra nước ngoài như đã trình bày ở phần trên, còn có một số nguyên nhân khác làm cho dự án FDI chậm thực hiện hoặc không thực hiện được. Cụ thể là :

- Sự mất giá của đồng tiền ở nước chủ đầu tư làm cho phần góp vốn của chủ đầu tư qui ra nội tệ của họ tăng lên

Thông thường các nhà đầu tư châu Á đầu tư vào Việt Nam bằng vốn tự có của doanh nghiệp tức là bằng đổng bản tệ hoặc bằng vốn đi vay mà chủ yếu vay tạ các ngân hàng trong nước cũng bằng bản tệ. Nhưng khi đầu tư vào Việt Nam thì phần vốn góp của các bên thường được tính bằng USD. Như vậy khi đồng tiền của nước chủ đầu tư bị mất giá chủ đầu tư bị hụt nguồn vốn để góp vốn pháp định cho các dự án FDI tại Việt Nam, với mức độ tuy vào sự mất giá của đổng nội tệ ở tạng nước. Các nhà đầu tư Thái Lan,

48

Malaixia, Inđônêxia và Hàn Quốc gặp nhiều khó khăn hơn cả (4 nước này chiếm khoảng 1 9% tổng FDI tại Việt Nam tính đến cuối năm 1997). Họ phải bù thêm từ 15-50% vốn đầu tư bằng nội tệ, tương đương với 1-3,5 tỷ USD để bù đắp thiếu hụt về vốn đầu tư đã cam kết bằng USD6.

Khịng hoảng làm giá nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu từ

các nước ngoài khu vực qui ra tiền các nước trong khu vực tăng. Điều này cũng ảnh hưởng bất lợi đến việc góp vốn bằng máy móc thiết bị cịa các chị đầu tư trong khu vực và việc triển khai dự án.

Dự án xây dựng Bến Thành-Winhorst Tovver Building, cao ốc phức hợp văn phòng - căn hộ - trung tâm thương mại 55 tầng tại số 5 công trường Mê Linh thành phố Hồ Chí Minh đã phải đình hoãn, mặc dù đã giải phóng xong mặt bằng từ tháng 10/1995 với chi phí đền bù hơn 4 triệu USD và phía nước ngoài đã thay đổi đối tác từ Hồng Kông sang Đức. Khi lập dự án đầu tư, chị đầu tư nước ngoài đã tìm được nguồn vốn vay từ Thái Lan, Singapore và Nhật Bản nhưng khịng hoảng đã làm cho các dự định này không thực hiện được.

- Khó khăn về thị trường

Bên cạnh khó khăn về tài chính cịa chị đầu tư, tình trạng suy thoái và bão hoa cịa thị trường cịa nhiều sản phẩm và dịch vụ cũng khiến các chị đầu tư phải tạm ngừng triển khai hoặc từ bỏ hẳn dự án. Ví dụ tiêu biểu nhất là lĩnh vực bất động sản cịa khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng. Cung trên thị trường vượt quá cầu, nhiều công trình hoàn thành và đưa vào sử dụng nhưng không cho thuê được, các công ty xây dựng hiện phải trả những khoản chi phí lớn để bảo quản. Ngành khách sạn - du lịch cũng đang trong giai đoạn khó khăn. Khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam giảm, tỷ lệ phòng có khách thấp nên nhiều khách sạn, nhà nghỉ phải giảm giá để tăng sức cạnh tranh. Ngoài ra, do FDI vào Việt Nam giảm nền nhiều công trình xây dựng văn phòng cho thuê, trung tâm thương mại, ... cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự.

Luận chứng kinh tế kỹ thuật không còn phù hợp với tình hình thực tế kinh doanh

Trước đây khi nghiên cứu chuẩn bị lập luận chứng kinh tế kỹ thuật, môi trường đầu tư ở Việt Nam cũng như ở các nước khác tương đối ổn đinh. Nay môi trường đầu tư đặc biệt là môi trường kinh tế đã thay đổi làm cho luận chứng không còn tính khả thi nữa. Nhiều dự án luận chứng kinh tế kỹ thuật được đánh giá rất cao nhưng tại thời điểm hiện tại khi đánh giá lại các chị đầu tư thấy rằng nếu tiếp tục thực hiện dự án thì những tổn thất, thua lỗ là không thể tránh khỏi và rất lớn. Do đó chị đầu tư đã quyết định tạm ngừng triển khai hoặc từ bỏ hẳn dự án mặc dù biết rằng làm như vậy là sẽ mất không khoản chi phí chuẩn bị dự án khá lớn.

6 Tạp chí nghiên cứu kinh tế- Viện Kinh tế học??? Số 12/1997, 1/1998, 4/1998, 5/1998, 6/1998 8/1998 9/1998

49

2.4. Tác động đến cơ cấu FDI tại Việt Nam

- F DI phân bổ theo chủ đầu tư có sự thay đổi

Từ 1993-1997 Malaixia, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc luôn là đối tác hàng đầu trong FDI vào Việt Nam (năm 1994 Singapore dẫn đầu, 1995 Nhật, 1996 Singapore, 1997 Nhật với tổng vốn đầu tư 875 triệu USD, thứ hai trong năm 1997 là Hàn Quốc với 792 triệu USD và thứ ba là Pháp với 764 triệu USD).

Năm 1998 có sự thay đổi lớn, các nước châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc đã giảm mạnh FDI vào Việt Nam. Vị trí thứ nhất thuộc về Nga với số vốn đầu tư 1300 triệu USD, thứ hai là Singapore với 893 triệu USD, thứ ba là vương quốc Anh với 481 triệu USD.

Trong năm 1998, chữ có 49 dự án FDI từ các nước ASEAN vào Việt Nam với số vốn đăng ký là 902,4 triệu USD, chiếm 23,15% tổng vốn FDI đăng ký tại Việt Nam. Tuy so với năm 1997 (994 triệu USD), FDI từ các nước ASEAN vào Việt Nam chữ giảm 9,3% (mức giảm khá thấp trong bối cảnh giảm sút đầu tư nói chung) nhưng cần lưu ý vốn đầu tư đăng ký trong năm 1997 ở mức thấp chữ bằng 5 2% năm 1996. Hơn nữa, trong năm 1998, riêng FDI của Singapore vào Việt Nam đã là 867,4 triệu USD chiếm 96,2% tổng FDI từ ASEAN vào Việt Nam, các nước ASEAN còn lại chữ chiếm 3,8%. Như vậy nếu không kể Singapore thì các nước ASEAN chữ đầu tư vào Việt Nam 34,6 triệu USD, giảm mạnh so với mức 470,6 triệu USD năm 1997. Hai nước Thái Lan và Malaixia, năm 1997 đầu tư hàng trăm triệu USD vào Việt Nam song đến năm 1998 chữ còn hơn chục triệu USD. Inđônêxia năm 1997 còn có một dự án đầu tư vào Việt Nam với số vốn 2,3 triệu USD nhưng đến năm 1998 và 1999 không có dự án nào. Những nước ít chịu ảnh hưởng của khủng hoảng như Đài Loan và Hổng Kông, tuy duy trì được nhịp độ đầu tư vào Việt Nam nhưng qui mô đầu tư vẫn có xu hướng giảm từ 1997. Tình hình đầu tư của Nhạt Bản và Hàn Quốc vào Việt Nam, hai nước chịu ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng cũng không mấy sáng sủa, mức đầu tư giảm từ trên 600 triệu USD mỗi nước trong năm 1997 xuống còn 179 và 13 triệu USD năm 1998.

N ăm 1999, FDI vào Việt Nam tiếp tục có sự thay đổi về đối tác đầu tư. Vị trí số Ì trong năm thuộc về Pháp với tổng vốn đầu tư là 300 triệu USD, Singapore giữ vị trí thứ hai với số vốn đầu tư bằng nửa Pháp.

Đầu tư của các nước ASEAN vào Việt Nam vẫn tiếp tục suy giảm. Trong năm 1999, các nước ASEAN có 31 dự án đầu tư tại Việt Nam với số vốn đạt 322,9 triệu USD (chiếm 11,6% số dự án và 2 2% vốn đăng ký). So với năm 1998, số dự án FDI của các nước ASEAN vào Việt Nam giảm 3 5% và vốn đăng ký giảm trên 64%. Riêng Singapore (vốn đăng ký 52 triệu USD) và Malaixia (vốn đăng ký 161,7 triệu USD) vẫn thuộc nhóm 5 nước đứng đầu trong FDI tại Việt Nam. Đầu tư của Malaixia vào Việt Nam tăng rõ rệt so với 1998, các nước ASEAN còn lại đầu tư vào Việt Nam không đáng kể; riêng Inđônêxia liên tục 2 năm không có dự án FDI mới nào tại Việt Nam.

50

Các nền kinh tế Đông Á tuy tiếp tục duy trì FDI tại Việt Nam nhưng FDI của Nhật Bản (62 triệu ƯSD), Hồng Kông (40,8 triệu ƯSD), Đài Loan (136 triệu USD) vào Việt Nam vẫn tiếp tục giảm. Riêng FDI của Hàn Quốc vào Việt Nam đã tăng lên, năm 1999 co 26 dự án, vốn đăng ký gần 164 triệu USD. Lý do là do nền kinh tế nước này phục hồi rất nhanh sau khủng hoảng, FDI vào nước này tăng đáng kể trong mấy năm vừa qua tạo điều kiện thuận lợi về tài chính cho các doanh nghiệp Hàn Quốc đầu tư ra nước ngoài trong đó có đầu tư vào Việt Nam.

Cũng như năm 1998, FDI trong năm 1999 từ các nước châu Âu, Mứ chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng vốn đầu tư. Riêng Pháp có 12 dự án, vốn đăng ký 303 triệu USD, đứng đầu trong các nền kinh tế đầu tư tại Việt Nam. Mứ có 14 dự án với số vốn đầu tư khoảng in triệu USD. Đầu tư của Anh, Canada, Đức vào Việt Nam năm 1999 con nhỏ, không đáng kể chỉ trên dưới 10 triệu USD. Trong năm 1999, FDI của các nước G7 vào việt Nam đạt 520,4 triệu USD, chiếm 35,6% tổng FDI tại Việt Nam. - FDI theo ngành cũng có nhiều biến động

Lĩnh vực có hiện tượng giảm sút vốn nhanh nhất lại chính là các lĩnh vực có tốc độ tăng vốn đầu tư dẫn đầu trong những năm trước. Tiêu biểu nhất là ngành kinh doanh khách sạn, văn phòng cho thuê với tỷ lệ giảm kỷ lục tới 8 5% về vốn đầu tư và 3 9% về số dự án của năm 1997 so VỚI 1996^. Trong ngành này các cơ quan quản lý nhà nước cũng khắt khe hơn trong việc thẩm định các dự án. Trong khi đó đầu tư vào một số ngành công nghiệp, nông nghiệp,... tuy tăng chậm trong thời gian đầu nhưng trong giai đoạn suy giảm này lại tương đối ổn định, thậm chí có ngành còn tang.

- FDI phân theo hình thức đầu tư:

Biểu đồ 2.7.: FDI tại Việt Nam theo Biểu đồ 2.8.: FDI tại Việt Nam theo

dự án 1997-1999

tổng vốn đầu tư 1997-1999

BCC

100% BÓC

Liên doanh

vốn n ước l ỵ*

49%

ngoài

2 4%

M ^ L i én

1 0 0 % v Ố n^ _ _ B _ _ _^ nước n g o à i ^ ^ ^ B l ^ ^ ^^

4

5%

doanh 66%

Nguồn : Vụ quản lý dự án - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Có thể nói các doanh nghiệp liên doanh chiếm ưu thế trong FDI tai Việt Nam và đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên trong một vài năm gần đây, đặc biệt là sau khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, hình thức này đã bộc lộ những hạn chế của nó, nhiêu liên doanh làm ăn thua lỗ và có xu hướng chuyển thanh 1 0 0% vốn nước ngoài. Chỉ riêng năm 1998 đã có 21 trường hợp doanh nghiệp liên

7 Báo Đầu tư 4/5/1998

51

doanh chuyển thành 100% vốn nước ngoài, chủ yếu thuộc lĩnh vực chế biến thực phẩm, nước giải khát, may mặc, sản xuất hàng mây tre, ...

2.5. Tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam

Nếu dựa vào bảng tổng kết của bộ Kế hoạch và Đầu tư về một số chỉ tiêu phản ánh hoạt động của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam thì có thể thấy, về tổng thể hoạt động của các dự án FDI tại Việt Nam vẫn tiếp từc tăng. Doanh thu của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam năm 1997 tăng 4 0% so với năm 1996, một tốc độ tăng trưởng khá cao, năm 1998 tốc độ tăng chỉ là 6%, mức thấp nhất từ trước đến nay, năm 1999 doanh thu có tăng nhanh hơn đạt 20%. Tỷ lệ đóng góp của các doanh nghiệp FDI cho GDP cũng tiếp từc tăng từ 7,4% năm 1996 lên 9,1% năm 1997, 10,1% năm 1998 và 10,3% năm 1999. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp trong khu vực FDI luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của cả nước. K im ngạch xuất khẩu của khu vực này vẫn tiếp từc tăng với tốc độ luôn cao hơn tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân của cả nước. N ăm 1997 kim ngạch xuất khẩu của khu vực này tăng 2 8% so với năm trước, năm 1998 chỉ tiêu này giảm xuống rất thấp chỉ còn 1 1 %, năm 1999 xuất khẩu của khu vực này được phừc hồi và đạt tốc độ tăng 30%. N ăm 1997 là năm các dự án FDI đưa vào triển khai ở Việt Nam đạt mức kỷ lừc về vốn thực hiện, điều này góp phần lý giải sự tăng trưởng mạnh của kim ngạch nhập khẩu của khu vực này trong năm với tốc độ tăng lên tới 42%. N ăm 1998, kim ngạch nhập khẩu của khu vực này giảm chút ít so với năm trước, nhưng năm 1999 lại tiếp từc tăng cao tới 28%. Nhìn chung kim ngạch nhập khẩu của các dự án FDI vẫn luôn cao hơn kim ngạch xuất khẩu của khu vực này mặc dù đã có rất nhiều dự án FDI đi vào hoạt động. Số tiền mà các doanh nghiệp FDI nộp cho ngân sách nhà nước không thay đổi cùng chiều với mức tăng doanh thu của khu vực này. Cừ thể là nộp ngân sách nhà nước của khu vực FDI năm 1997 chỉ tăng 2 0% so với năm trước, năm 1998 chỉ tăng chưa đến 1% và năm 1999 thậm chí còn giảm 14%. Điểu này một phần được lý giải bởi những biện pháp ưu đãi bổ sung về thuế đối với các dự án FDI tại Việt Nam và một phần chứng tỏ doanh thu tăng không có nghĩa là doanh nghiệp làm ăn có lãi. Số lao động sử dừng trong các dự án FDI vẫn tiếp từc tăng trong những năm gần đây.

Tất cả những sự tăng trưởng phân tích ở trên không có nghĩa là các hoạt động FDI ở Việt Nam không chịu ảnh hưởng của khủng hoảng. Nếu đi sâu vào phân tích tình hình hoạt động của các dự án FDI tại Việt Nam sẽ thấy tình hình không khả quan như những con số tổng kết ở trên. Nhiều doanh nghiệp FDI phải thu hẹp qui mô sản xuất, hoạt động cầm chừng khoảng 50-60% công suất thiết kế, xin giảm tỷ lệ xuất khẩu và tăng tỷ lệ tiêu thừ nội địa, trì hoãn kế hoạch bổ sung vốn của các giai đoạn sau, ... Số doanh nghiệp làm ăn không có lãi tăng nhanh làm tỷ trọng số doanh nghiệp bị lỗ trong tổng số doanh nghiệp FDI tại Việt Nam lên tới 2/3. Trong các lĩnh vực kinh doanh như công nghiệp thực phẩm, bưu chính viễn thông, xây dựng, kinh doanh văn phòng, căn hộ cho thuê, ..." những lĩnh vực vẫn được coi là

52

hấp dẫn, tỷ suất lợi nhuận cao - tỷ lệ số doanh nghiệp làm ăn có lãi chỉ đạt 38-40%. Trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thúy sản, kinh doanh khách sạn, cơ sở hạ tầng khu công nghiệp,... số doanh nghiệp FDI làm ăn có lãi còn thấp hơn nhiều, chỉ khoảng 2 0% .

- Doanh t hu của một sô dự án F DI có xu hướng giảm trong đó giảm mạnh nhất là trong các ngành giao thông vận tải và bưu điện, khách sạn- du lẹch, tài chính - ngân hàng,...

Bảng 2.4: Doanh thu của các doanh nghiệp FDl trong một số ngành

Đơn vẹ : Ư SD

STT Ngành Doanh thu 1998/1997 Doanh thu năm 1997 Doanh thu năm 1998

67.23% 11,620,068 1 Xây dưng ha tầng KCN- 17,284,838 KCX '

72.68% 315566927 2 Công nghiệp thực phẩm 434,197,889

86.68% 313,187,522 271,465,839 3 Nông, lâm nghiệp

25.35% 182,327,608 46,228,426 4 Khách sạn - du lẹch

37,426,685 23,938,165 63.96% 5 Xây dưng văn phòng, căn hộ

361,095,881 54,272,720 15.03% 6 Giao thông vận tải - bưu điện

19,738,283 11,675,563 59.15% 7 Thúy sản

Nguồn : Vụ quản lý dự án - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

92,188,860 42,323,670 8 Tài chính, ngân hàng 45.91%

Sở đĩ doanh thu của các dự án FDI có xu hướng giảm là do thẹ trường bẹ thu hẹp lại, sức mua giảm, đồng thời sức cạnh tranh của hàng hoa sản xuất tại Việt Nam bẹ giảm so với các nước trong khu vực.

- Thẹ trường xuất khẩu của các doanh nghiệp F DI giảm sút và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp này cũng giảm

Châu Á luôn là thẹ trường xuất nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam cho đến trước khi xảy ra khủng hoảng. N ăm 1997 khu vực này chiếm 6 0% k im ngạch xuất khẩu (trong đó ASEAN chiếm 2 0 %) và 7 0% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam (trong đó ASEAN chiếm 28%). Singapore là thẹ trường xuất nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam trong khu vực, chiếm 2/3 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào ASEAN và 3/4 kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ ASEAN.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư

53

Theo nghiên cứu của bộ Thương mại tiến hành đối với khu vực FDI ở phía Nam Việt Nam, khu vực thị trường xuất khẩu quan trọng nhất của các doanh nghiệp được nghiên cứu là Nhật Bặn và các nước công nghiệp mới ở châu A. Thương mại giữa các công ty trong nội bộ hệ thống, tức là giữa công ty con và công ty mẹ hoặc giữa các công ty con với nhau là kênh thương mại chủ yếu.

Khủng hoặng làm cho sức mua của các nước này giặm mạnh khiến qui mô của các thị trường này giặm sút. Việt Nam cũng như các nước trong khu vực tập trung nhiều vào các mặt hàng sử dụng nhiều lao động và nguyên vật liệu nhập ngoại như dệt, may, giày dép, hàng điện tử,... Mà như đã phân tích ở phần trên, chi phí đầu tư vào Việt Nam nhìn chung tăng so với các nước khác trong khu vực. Khặ năng cạnh tranh của hàng Việt Nam vốn đã yếu nay lại càng yếu hơn do đồng tiền của các nước trong khu vực mất giá mạnh hơn đồng tiền Việt Nam. Trước đây, Ì USD hàng xuất khẩu chỉ đem lại cho nhà xuất khẩu Thái Lan 24-25 Bạt, nhưng năm 1998 họ có thể thu về tới 40-45 bạt/USD. Chính vì vậy hàng xuất khẩu của Thái Lan cũng như của nhiều nước khác trong khu vực (Hàn Quốc, Inđônêxia, Malaixia, ...) có thể bán với giá bán tính theo USD thấp hơn. Cạnh tranh đặc biệt mạnh về các mặt hàng dệt may, giày dép, nông sặn, hặi sặn chế biến, .... Những mặt hàng nguyên liệu, sơ chế, hàng gia công của các nước trong khu vực rẻ hơn hàng cùng loại của Việt Nam từ 20-30% mà vẫn có lãi

Từ khi khủng hoặng nổ ra đến hết quý ì năm 1999, tổng k im ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang năm thị trường hàng đầu khu vực (Nhật Bặn, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông) giặm tới 600 triệu USD. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoặng thể hiện rõ nhất trong các ngành dệt may, da giầy; giá gia công giặm 15-20%, số đơn đặt hàng của Nhật Bặn và Hàn Quốc giặm 30-40% 9.

- Thị trường nội địa bị t hu hẹp và bị hàng nhập khẩu cạnh tranh mạnh

Do ặnh hưởng của khủng hoặng, kinh tế Việt Nam chững lại, thất nghiệp gia tăng, thu nhập giặm sút nên người dân Việt Nam có xu hướng hạn chế, cắt giặm tiêu dùng. Sức mua nội địa giặm làm cho việc tiêu thu sẩn phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp FDI nói riêng và các doanh nghiệp Việt Nam nói chung gặp nhiều khó khăn. Chính phủ Việt Nam đã phặi thực thi nhiều chính sách, biện pháp kích cầu để khuyến khích dân chúng tiêu thụ hàng hoa, dịch vụ.

Ngoài ra, trong những năm gần đây ngân sách Nhà nước thường thâm hụt ở mức cao (khoặng 4-5%), trong khi nhu cầu chi thường xuyên và chi cho đầu tư phát triển rất lớn, nên Chính phủ buộc phặi hạn chế cắt giặm những khoặn chi chưa thực sự cấp thiết. Ví dụ : hạn chế mua sắm ô tô xây dựng trụ sở, văn phòng, ... cho các cơ quan thuộc khối hành chính sự nghiêp bằng nguồn vốn ngân sách. Chi tiêu công cộng chiếm một tỷ trọng lớn trong

9 Báo Lao dộng - xã hội 6/6/1999

54

tổng chi tiêu của quốc gia, do đó việc cắt giảm chi tiêu của Chính phủ có ảnh hưởng lớn đến tình hình tiêu thụ của nhiều mặt hàng do các doanh nghiệp FDI sản xuất như ô tô, xi măng, sắt thép,...

Đồng Việt Nam mất giá so với USD trong khi các doanh nghiệp FDI lại chủ yếu hướng vào thị trường nội địa và nguyên liệu thì phải nhỷp khẩu là chính. Vỷy là các doanh nghiệp bị lỗ do chênh lệch tỷ giá. Điều này thể hiện khá rõ trong ngành công nghiệp điện tủ' gia dụng vì 70-80% linh kiện của ngành này phải nhỷp khẩu. Hàng của các doanh nghiệp Việt Nam trong đó có doanh nghiệp FDI vì vỷy khó cạnh tranh về mặt giá cả so với hàng nhỷp khẩu từ các nước trong khu vực. Giá nhiều mặt hàng nhỷp khẩu thấp hơn giá xuất xưởng của hàng sản xuất tại Việt Nam từ 10-15%, ví dụ : giá xi măng thấp hơn 30-35%, giá đường RS thấp hơn 20-50%, phân u rê 30-40%, ... xét tại thời điểm quí ì năm 1999.

Bảng 2.5: Giá một số mặt hàng sản xuất trong nước so với giá hàng

nhập khẩu - quý ì năm 1999

Đơn vị: USD/tấn

Giá xuất xưởng Giá nhập khẩu - Sản phẩm CIF Giá xuất xưởng/giá nhập khẩu CIF (%)

130-135 40-45 50-60 Xi măng

120-150 260-300 360-400 Đường RS

110-112 260-280 300 Thép xây dựng

130-140 115-125 160-180 Phân u rê

Nguồn : Báo cáo của Ban vật giá Chính phủ.

Bên cạnh đó trong một số ngành tình trạng thị trường đã bão hoa và cung vượt cầu như khách sạn, bia, nước giải khát, điện tử gia dụng, lắp ráp ô tô, chất tẩy rửa, ... cũng gây trở ngại cho việc tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp FDI.

Chính các khó khăn trên đã dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Ví dụ như trong lĩnh vực sản xuất, lắp ráp ô tô chỉ có duy nhất một liên doanh Toyota đã có lãi, còn lo liên doanh khác đều thua lỗ. Liên doanh ô tô Hoa Bình trước năm 1997 hoạt động có lãi nhưng từ năm 1998 bị lỗ do mức tiêu thụ giảm. Ngành dược có 23 dự án FDI đến giữa năm 1999 mới chỉ có 9 dự án đi vào hoạt động trong đó chỉ có hai dự án có lãi. Hầu hết các khách sạn, sân Golf, khu vui chơi giải trí, văn phòng cho thuê, trung tâm thương mại, ... những năm gần đây đều gặp khó khăn và chịu lỗ, công suất sử dụng chỉ đạt 30-40%. N ăm 1997, hệ số sử dụng phòng của các khách sân 4 và 5 sao giảm xuống ở mức 40%, năm 1998 còn 20%. Cạnh tranh khiến các doanh nghiệp phải giảm giá thuê phòng xuống chỉ còn bằng 30-40% giá dự kiến làm cho doanh nghiệp lô ngay cả khi công suất sử dụng đạt 50-60%.

55

- Nhiều doanh nghiệp F DI phải giãn, giảm bớt lao động

N ăm 1998 số lao động phải nghỉ việc trong các doanh nghiệp FDI lên tới 28000 người, chiếm 8% số lao động hiện có trong khu vực này. Còn số lao động phải nghỉ việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất lên tới 27- 3 0% tổng lao động trong các khu này. Đặc biệt các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong các ngành như may mặc, sản xuất giầy dép, lắp ráp điện tử, ô tô, kinh doanh khách sạn, ... tữ lệ lao động thất nghiệp tăng rất cao. Tữ lệ này trong ngành sản xuất ô tô khoảng trên 30%. Có công ty sa thải tới trên 5 0% nhân công do đối tác nước ngoài gặp khó khăn vế tài chính buộc phải cắt giảm qui mô đầu tư10. Thu nhập bình quân của người lao động trong khu vực này cũng giảm. Điều này gây khó khăn cho người lao động và làm phát sinh những vấn đề kinh tế xã hội.

Việc sản xuất kinh doanh trong khu vực FDI gặp khó khăn kéo theo các lĩnh vực khác có liên quan cũng bị giảm qui mô sản xuất, giảm lao động theo "hiệu ứng dây chuyền".

Sự giảm sút FDI trong thời gian vừa qua đã làm tăng thêm sự lãng phí

về tài nguyên, tiền của, nhất là ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Tinh đến tháng 5 năm 1999 cả nước có 65 khu công nghiệp và khu chế xuất với tổng diện tích giai đoạn đầu là 10375,5 ha (không kể khu công nghiệp Dung Quất 14000 ha) trong đó có 13 khu công nghiệp do các doanh nghiệp FDI xây dựng cơ sở hạ tầng. Đến cuối năm 1998 vốn đầu tư cho các khu công nghiệp lên tới 2150 triệu USD. Trong bối cảnh thiếu hụt vốn đầu tư như hiện nay, tình trạng bỏ trống đất đai tại các khu này càng rõ nét. Đến đầu năm 1999, chỉ có 2 4% diện tích qui hoạch cho các KCN, KCX được lấp kín bằng các dự án đầu tư,... Một số khu công nghiệp và khu chế xuất sau khi xây dựng tường bao rồi bỏ đất hoang hoa, cuối cùng phải giải thể như khu chế xuất Hải Phòng. - Tác động của việc giảm F DI đến nền kinh tê Việt Nam

Sự sụt giảm FDI đã tạo ra sự hẫng hụt lớn nguồn vốn đầu tư do vậy ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Theo tính toán vốn đầu tư toàn xã hội năm 1998 giảm 2,6% so với năm 1997 trong đó vốn trong nước tăng 4%, vốn nước ngoài giảm 13%, đặc biệt FDI giảm tới 55,8%. Vốn đầu tư thực hiện năm 1998 chỉ đạt ở mức 7 1 %, tăng 3% so với năm 1997 - năm thấp nhất trong vòng 6 năm trở lại đây. Tữ lệ vốn đầu tư so với GDP cũng giảm : năm 1997 đạt 28,7%, năm 1998 ước chỉ còn 23 8%". Thiếu vốn đầu tư các cơ sở sản xuất kinh doanh sẽ không có tiền để mua nguyên liệu sản xuất đầu vào, đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ ... Kết quả là sản xuất đình trệ, doanh thu của các doanh nghiệp thấp, tổng sản lượng của các doanh nghiệp giảm, tích lũy nội bộ nền kinh tế giảm và tái đầu tư giảm. Chỉ xét riêng ngành công nghiệp, sự giảm sút FDI ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng của toàn ngành. Thực tế cho thấy ngành công

10 Tạp chí "Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương" số Ì nam 1999 11 Kinh tế 98-99 - Thời báo Kinh tế

56

nghiệp Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào khu vực FDI. Tỷ trọng của khu vực này trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước không ngừng gia tăng. N ăm 1991, các doanh nghiệp FDI chiếm 1 6% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của Việt Nam, năm 1995 tỷ trọng này lên tới 25,1% và năm 1997 là 28,5%. N ăm 1995, nếu không có sự tăng nhanh của công nghiệp khu vực FDI thì tốc độ tăng trưởng toàn ngành công nghiệp chỉ đ t 12,6% thay vì mức thực tế đã đ t được là 14,5%. Các con số này của năm 1996 là 1 4% và 11,6%. Chính vì sự phụ thuộc này mà khi FDI vào Việt Nam giảm sút tốc độ tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp Việt Nam giảm, năm 1997 chỉ còn 13,2%, 1998 còn 12,7%, 1999 con 1 2.

1 2 12 Bộ Kế ho ch và Đầu tu

57

C H Ư Ơ NG IU

CÁC GIẢI PHÁP HẠN CHÊ TÌNH TRẠNG SUY G IÁM FDI DO KHUNG HOANG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ VÀ TĂNG CƯỞNG THU HÚT FDI TRONG GIAI ĐOẠN Tới

ì. TRỂN VỌNG THU HÚT roi TẠI VỆT NAM TRONG THỜI GIAN

TỚI

1. Nhiệm vụ thu hút FDI trong thời gian tới

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V UI cấa Đảng đã nêu mục tiêu: Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp với cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế phù hợp, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với sự phát triển cấa lực lượng sản xuất, đời sống vật chất tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Để đạt được mục tiêu này, Đảng và Nhà nước ta chấ trương: Giữ vững độc lập tự chấ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước. Trong cơ cấu các nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thì dự kiến vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm khoảng 3 0% - 3 1 %. Theo chấ trương cấa Đảng và Nhà nước thì " F DI hướng vào những lĩnh vực, những sản phẩm và dịch vụ có công nghệ tiên tiến, có tỷ lệ xuất khẩu cao. về địa bàn đầu tư, cần có chính sách và biện pháp hữu hiệu để thu hút vào những nơi có tiềm năng nhưng trước mắt còn khó khăn. Hình thức đầu tư cần tiếp tục đa dạng hóa,

chú ý thêm những hình thức mới. về đối tác đầu tư, cần tăng cường quan hệ hợp tác với các công ty đa quốc gia để tranh thấ được công nghệ nguồn, tiếp cận cách quản lý hiện đại và thâm nhập nhanh vào thị trường quốc tế". Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ và đánh giá cao vai trò cấa F DI trong chiến lược phát triển kinh tế cấa quốc gia.

Trước mắt, chỉ tính riêng trong thời kỳ 2001-2005, nhu cầu vốn đầu tư cấa nền kinh tế đã rất lớn, ước tính sơ bộ lên tới 65-70 tỷ USD. Vì vậy, bên cạnh việc mở rộng các kênh thu hút vốn trong nước, cần phải tiếp tục đẩy mạnh việc thu hút và tận dụng các nguồn vốn bên ngoài. Trong tương lai, nguồn vốn O DA có xu hướng giảm do các nhà tài trợ và các tổ chức tài chính đều giảm nguồn tài trợ O DA và giảm mức độ ưu đãi. Mặt khác, tốc độ giải ngân còn phụ thuộc vào tiến trình thực hiện cam kết điều chỉnh cơ cấu kinh tế do các nhà tài trợ đưa ra và khả năng huy động vốn đối ứng cấa Việt Nam. Do đó, chúng ta cần tăng cường khai thác nguồn vốn roi. H uy động từ 13- 15 tỷ USD vốn F DI thực hiện ( bình quân 2,5- 3 tỷ USD/ năm ), trong bối cảnh cạnh tranh thu hút F DI ngày càng gay gắt là một nhiệm vụ rất khó khăn, đòi hỏi chúng ta phải có một nỗ lực rất lớn.

58

2. Thuận lợi và khó khăn trong thu hút FDI.

2.1. Thuận lợi

Thứ nhất, triển vọng nền kinh tế thế giới trong tương lai thuận lợi cho quá trình thu hút vốn FDI.

Xu hướng toàn cầu hoa nền kinh tế tiếp tục mở rộng buộc các nước, các tập đoàn kinh tế phải liên kết chặt chẽ với nhau, mở rộng quan hệ thương mại, tăng cường đầu tư chiếm lĩnh thị trường.

Các nước công nghiệp phát triển đang tiếp tục phục hấi kinh tế và tăng trưởng. Trong số đo, Mỹ vẫn là nước có nền kinh tế mạnh nhất và việc ký kết Hiệp định thương mại Việt nam - Hoa kỳ vừa qua (tháng 7 năm 2000) sẽ tạo cơ hội cho việc các nhà đẩu tư nước ngoài, đặc biệt các nhà đầu tư Mỹ tích cực đầu tư vào Việt nam hơn. Sự ra đời của đấng EURO vào 1/1/1999 đã góp phần tăng thêm sức mạnh của khối các nước trong liên minh châu Au. Do đó, trong tương lai gần khả năng tăng trưởng của các nước này là chắc chắn. Nhờ vây mà khả năng đầu tư của các nước cũng sẽ lớn mạnh hơn. Đấng thời sau cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính châu Á, các công ty đa quốc gia của Mỹ và Tây Âu vẫn tiếp tục đầu tư vào khu vực này. Do đó, Việt Nam cũng có nhiều cơ hội thu hút vốn FDI.

Các nước châu Á đã bắt đầu có dấu hiệu phục hấi kinh tế sau khủng hoảng. Điều đó sẽ tạo khả năng tiếp tục thực hiện các dự án đang tạm hoãn và đầu tư mới vào Việt Nam.

Thứ hai, Việt Nam có thể phát huy những lợi thế của mình trong thu hút vốn FDI.

Quan hệ kinh tế, chính trị, đối ngoại của Việt Nam vẫn không ngừng được mở rộng, gia nhập ASEAN, ký Hiệp định khung với EU...Đặc biệt Hiệp định thương mại Việt- Mỹ đã được ký kết, đã mở ra một trang mới cho quan hệ thương mại đầu tư giữa hai nước. Đổng thời, khi chúng ta đã được hưởng chế độ tối huệ quốc của Mỹ thì đầu tư của các nước khác trên thế giới vào Việt Nam cũng sẽ tăng nhằm tân dụng ưu thế này. Thêm vào đó, trong tương lai không xa, chúng ta sẽ trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới. Chắc chấn lúc đó quan hệ thương mại, đầu tư với các nước trên thế giới sẽ thuận lợi hơn.

Công cuộc đổi mới nền kinh tế đang tiếp tục được đẩy mạnh, chúng ta đã đạt được một số thành tựu nhất định, củng cố thêm lòng tin của các nhà đầu tư.

59

Chính phủ Việt Nam đã có rất nhiều cố gắng để cải thiện môi trường đầu tư. Các Nghị' định 10-CP ngày 23/1/1997, Quyết đinh 53/ Q Đ- TTg ngày 26/3/ 1999, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 9/6/2000, Nghị Định 24/2000/NĐ-CP. .. đã được ban hành nhằm khuyến khích hơn nữa hoạt động FDI. Các nhà đầu tư nước ngoài ngày càng tin tưởng vào môi trường đầu tư tại Việt Nam.

2.2. Khó khăn

Cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới ngày càng

gay gắt. Trong k hu vực châu Á - Thái Bình Dương, sau cuộc khủng hoảng, nhận rõ được mặt tích cực của FDI, ngay cả những nước như Nhật Bản, Hàn Quốc từ chỗ hạn chế thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nay đã coi huy động vốn đầu tư nước ngoài là m ột giải pháp quan trọng cho chiến lược phát triởn k i nh tế. H ơn nữa, sau khủng hoảng, các nước đều tích cực cải tổ nền kinh tế, nhờ đó môi trường đầu tư của họ trở nên hấp dẫn và có tính cạnh tranh cao hơn. ( X em phụ lục l b)

Khả năng phục hồi k i nh tế sau khủng hoảng của các nước là có thở, nhưng cũng cần phải có thời gian. H ơn nữa, chính những cải cách nền kinh tế của các nước này đã làm tăng nhu cầu đầu tư trong nước, hạn chế việc đầu tư ra nước ngoài, giảm khả năng tài trợ cho các dự án F DI đang triởn khai ở nước ngoài. Điều này sẽ làm cho dòng v ốn roi trên thế giới suy giảm.

Về chủ quan, Việt Nam cũng gặp nhiều bất l ợ i. Những hạn chế của môi trường đầu tư nước ngoài tại V i ệt Nam cũng cần có thời gian m ới có thở khấc phục hết được. L ợi thế so sánh của V i ệt Nam về sức lao động rẻ đang mất dần ý nghĩa. Nền kinh tế chưa ổn định, hệ thống luật pháp chưa hoàn thiện đang đặt ra cho chúng ta rất nhiều thách thức.

Để khắc phục khó khăn do cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ vừa

qua gãy ra, đẩy mạnh thu hút vốn FDI, chúng ta cần không ngừng nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư. Song, ưu đãi đẩu tư không phải là yếu tố duy nhất tác động tới việc thu hút vốn FDỈ. Do đó, cùng với việc đưa ra các chính sách, biện pháp ưu đãi đẩu tư, điều quan trởng hơn là phải cải thiện đồng bộ các điêu kiện đầu tư khác, cải thiện mồi trường kinh doanh nói chung. Các nhân tố quan trởng tác động tới việc thu hút FDI có thể kể đến: mức độ hoàn thiện về cơ sở hạ tầng; quy mô, đặc điểm của thị trường; chi phí sản xuất, chi phí vận chuyển, chì phí giao dịch; trình độ lao động; chuyển đổi ngoại tệ; sự ổn định về chính trị; mức độ hoàn thiện của môi trường pháp lý; chế độ đối xử dành cho các nhà đẩu tư nước ngoài, các biện pháp bảo đảm, bảo hộ đẩu tư ...Trong đó cẩn nhấn mạnh vai trò quan trởng của việc hoàn thiện các thủ tục hành chính vì yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí giao dịch cũng như niềm tin của các nhà đầu tư. Để hoàn thiện được tất cả các yếu tố này, có được sức hấp dẩn mạnh mẽ các nhà đầu rư nước ngoài, chúng ta cẩn tiến hành kết hợp một số giải pháp chung lâu dài, bao trùm và các giải pháp cụ thể,cấp bách. Có như vậy, hy vởng rằng trong thời gian nhất định Việt nam có thể khắc phục được hậu quả của cuộc khủng hoảng, tiếp tục thu hút nguồn vốn FDI.

60

QUẢ CỦA KHỦNG HOẢNG VÀ TẢNG CƯỜNG THU HÚT FDI

n. MỘT số G I ẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM KHẮC PHỤC HẬU

TRONG GIAI ĐOẠN TỚI

ĩ. Một số giải pháp chung chủ yếu.

Trong bản dự thảo báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương trình Đại hội Đ C S VN lần thứ 9 khẳng định toàn cầu hoa nền kinh tế thế giới là qua trình khách quan, do đó chúng ta cần có thái độ rõ ràng và rứt khoát về chủ trương h ội nhập kinh tế khu vực và thế giới của Viọt nam. Chúng ta không thể không hội nhập vì đó là xu thế khách quan, nhưng cần chủ động hội nhập với những toan tính chi tiết, với những cách thức, phương thức khoa học và bước đi thích hợp. Cụ thể:

+ Viọt Nam cần tiếp tục ủng hộ mạnh mẽ các sáng kiến tăng cường

hợp tác khu vực cả trong hiọn tại và tương lai.

+ Cần chuẩn bị tích cực hơn về thể chế và các nghiọp vụ kỹ thuật phục vụ sử dụng bản tọ cho thanh toán các giao dịch n ội bộ ASEAN, cho viọc hình thành khu vực đầu tư A S E AN cũng như cho viọc đẩy nhanh tiến trình AFTA. Cần tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi với cCc ưu đãi dành cho đầu tư nước ngoài không thua kém trình độ khu vực.

+ Hàng hoa của Viọt Nam nói chung, cũng như của các doanh nghiọp

F DI nói riêng cần phải có chỗ đứng trên thị trường thế giới, cũng có nghĩa là hàng hoa của ta phải đạt chất lượng quốc tế với giá cả hợp lý. M u ốn vậy, phải khai thác những hàng hoa mà ta có thế mạnh riêng, phải thu hút công nghọ tiên tiến và cần có sự hỗ trợ của Nhà nước để có thể cạnh tranh về giá cả ... Thực hiọn tốt giải pháp "Tăng cường các biọn pháp khuyến khích xuất khẩu " sẽ rất có ý nghĩa trong viọc tạo ra một vị trí nhất định cho hàng xuất khẩu của Viọt Nam trên thị trường thế giới.

Viọt Nam cam kết tham gia A F TA và thực hiọn CFPT vào năm 2006,

khi tham gia A F TA phải bãi bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, có nghĩa Viọt Nam phải chấp nhận cạnh tranh. K hó khăn hiọn nay của các ngành công nghiọp Viọt Nam là sức cạnh tranh thấp nôn trong điều kiọn chênh lọch về trình độ công nghọ như hiọn nay thì hàng hoa của các nước vào Viọt Nam sẽ rẻ hơn so với hàng sản xuất trong nước. M u ốn nâng cao năng lực cạnh tranh cần phải cải cách họ thống các doanh nghiọp nhà nước, đẩy mạnh cổ phần hoa. Đó là con đường nâng cao hiọu quả hoạt động của các doanh nghiọp và tạo thêm sức thu hút đầu tư, tiếp nhận công nghọ hiọn đại để nâng cao năng lực sản xuất.

+ Để hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới,cần xây dựng chính sách tỷ giá ngoại hối linh hoạt hơn theo sát thị trường, từng bước tạo điều kiọn để

61

1.1. Tăng cường hơn nữa quá trình hội nhập kỉnh tế quốc tê, cần chủ dộng hội nhập và cụ thể hoa chiên lược hội nhập.

đồng n ội tệ có k hả năng chuyển đổi, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động chống buôn lậu, gian lân thương mại.

1.2. Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ

Hoạt động đầu tư trực tiếp nưục ngoài không chỉ chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nưục ngoài, mà còn liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp t ụi nhiều luật khác.Vì vậy, để tạo thuận l ợi cho hoạt động F D I, chúng ta không chỉ hoàn thiện Luật đầu tư nưục ngoài, mà cần phải tạo dựng m ột hệ thống luật kinh tế, đầu tư hoàn thiện, đồng bộ.

Cần tiếp tục bổ sung và hoàn thiện hệ thống luật k i nh tế tạo môi trường pháp lý hoàn chỉnh cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Hệ thống pháp luật của chúng ta hiện nay chưa bao quát hết được các hoạt động k i nh doanh trong nền kinh tế thị trường.Do đó, chúng ta cần sụm ban hành các sắc luật cần thiết như: Luật kinh doanh bất động sản, Luật chứng khoán, Luật cạnh tranh và chống độc quyền,các văn bản hưụng dẫn thực hiện Luật thương mại...Cần hoàn chỉnh các văn bản dưụi Luật về Quy chế cổ phần hoa, bảo vệ môi trường, chuyển giao công nghệ, đấu thầu,...cho phù hợp vụi thông lệ quốc tế.

Đặc biệt, thị trường chứng khoán V i ệt Nam m ụi đi vào hoạt động, đang thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư, nên cần xây dựng m ột hệ thống gồm luật phát hành chứng khoán và giao dịch chứng khoán, luật về quản trị kinh doanh, tư vấn đầu tư chứng khoán và các văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề sở hữu v ốn và tài sản, về chuyển nhượng vốn, về quyền lợi, trách nhiệm, của người đi vay, người cho vay, người môi giụi, về k i ểm tra, thanh tra, xử lý các trường hợp vi phạm,...Bên cạnh đó phải có những biện pháp nghiêm ngặt để đảm bảo cho luật pháp được thực hiện m ột cách nghiêm chỉnh. Tập trung nhất là hình thành luật về chứng khoán và giao dịch chứng khoán. Luật này sẽ là nền tảng pháp lý căn bản cho việc phát hành, giao dịch tất cả các loại chứng khoán và cũng là cơ sở pháp lý để điều chỉnh hoạt động của các sở giao dịch chứng khoán. Bên cạnh đó, cần bổ sung, hoàn thiện các luật có liên quan để tạo nên m ột môi trường pháp lý đồng bộ, chặt chẽ, bảo đảm cho hoạt động của thị trường chứng khoán an toàn và có hiệu quả. Có như vậy m ụi thu hút được các nhà đầu tư nưục ngoài.

Xây dựng m ột hệ thống pháp luật cho phù hợp vụi thông lệ quốc tế là

một đòi h ỏi hết sức quan trọng trong quá trình h ội nhập. Do đó cần nghiên cứu kỹ các tập quán quốc tế, tình hình thực tế của V i ệt Nam, từ đó xây dựng một hệ thống các vãn bản pháp luật chặt chẽ, thông thoáng, đảm bảo được quyền lợi của mình nhưng vẫn hấp dẫn các nhà đầu tư và không m âu thuẫn vụi thông lệ quốc tế và các "luật chơi" của h ội nhập k hu vực và quốc tế.

62

- Tập trung xây dựng một hệ thông pháp luật đầy đủ, đồng bộ, ổn định, phù hợp vụi thông lệ quốc tê, đồng thòi phải tạo được thê cạnh tranh.

- Bên cạnh việc xây dựng một môi trường pháp luật tổng thể như

trên, cần tiếp tục cải thiện môi trường pháp lý về đầu tư để tăng sức cạnh tranh trong thu hút F DI vói các nước trong khu vực.Cụ thể là:

+ Hệ thống hoa lại các văn bản pháp luật về hoạt động đầu tư nước ngoài, nhằm giải quyết tình trạng lộn xộn, chồng chéo, gây khó khăn cho việc thi hành luật. Chính phị cần rà soát lại toàn bộ hệ thống văn bản pháp luật, thống nhất lại những quy định thiếu rõ ràng và mâu thuẫn nhau.

+ Tiếp tục nghiên cứu, ban hành hướng dẫn, thực hiện tốt Luật sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam đã được ban hành năm 2000 và các văn bản dưới luật nhằm đáp ứng nguyện vọng hợp lý cịa các nhà đầu tư, bảo vệ lợi ích cịa Việt Nam, phù hợp với thông lệ quốc tế, tăng tính hấp dẫn cịa môi trường đầu tư. Luật sửa đổi bổ sung Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành năm 2000 và Nghị định 24/2000/NĐ-CP cịa Chính phị đã giải quyết thoa đáng được một số yêu cầu cịa hoạt động FDI tại Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn không ít vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu, đó là:

Cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty cổ phần và được phát hành cổ phiếu thay vì chỉ được phép thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn như hiện nay. Có như vậy các doanh nghiệp FDI mới có điều kiện huy động thêm vốn, dễ dàng chuyển nhượng cổ phần, nhất là trong điều kiện thị trường chứng khoán Việt Nam đã bắt đầu hoạt động và ngày càng có tính phổ biến.

Tạo điều kiện thuận lợi để cho các thành phần kinh tế có điều kiện trực

tiếp tham gia hợp tác đầu tư với các đối tác nước ngoài. Hiện nay, chị yếu chỉ có các doanh nghiệp nhà nước tham gia doanh nghiệp liên doanh (chiếm khoảng 90%).

Phải bảo đảm những tài sản mà người cho vay đang cầm giữ là cưỡng chế thi hành được. Người cho vay phải được phép sở hữu tài sản gắn liền với đất và giá trị quyền sử dụng đất một cách vô điều kiện trong trường hợp người vay không trả được nợ.

Mở rộng hom nữa lĩnh vực được phép đầu tư

Các nước trong khu vực quy định về vấn đề này tương đối thông thoáng hơn Việt nam, cụ thể:

Trung quốc: Trung Quốc chia các dự án đầu tư nước ngoài thành bốn

loại: Danh mục các dự án khuyến khích; Danh mục các dự án hạn chế • Danh mục các dự án cấm và các dự án được phép bao gồm các dự án không thuộc 3 loại trên. Các Danh mục nêu trên được sửa đổi bổ sung trong từng thời kỳ.Lần sửa đổi gần đây nhất có hiệu lực từ ngày 1/1/1998. Theo đo, Các lĩnh vực cấm đầu tư nước ngoài chỉ gồm: truyền thanh; truyền hình và điện ảnh; báo chí; sản xuất vũ khí; đua ngựa; và dịch vụ liên quan đến tình dục.

Indonesia: Theo quy định mới nhất được ban hành năm 1998, chỉ có: 9 lĩnh vực cấm đối với đầu tư nước ngoài; 8 lĩnh vực không cho phép sở hữu

63

100% vốn nước ngoài; 9 lĩnh vực đầu tư có điều kiện; 16 lĩnh vực hoàn toàn cấm đối với cả đầu tư trong nước và nước ngoài.

Malaysia: Không cấp giấy phép đầu tư đối với một số ít ngành như

sản xuất ôtô, thép tròn, thép thanh, dây thép, dầu cọ, mùn cưa, gỗ dán, ván ép.

Philippine: các lĩnh vực hạn chế hoặc cấm đầu tư nước ngoài vào Philippine là các lĩnh vực mà Philippine ưu tiên dành cho công dân của mình; các lĩnh vực đầu tư nước ngoài chỉ được tham gia cổ phần ẻ mức không vượt quá 40%; và các lĩnh vực sản xuất hiện nay đã đáp ứng được, không cần phải có thêm đầu tư nước ngoài. Cuối năm 1998, Philippine tuyên bố mẻ cửa ngành bán lẻ và kinh doanh phân phối hàng hoa cho đầu tư nước ngoài.

Singapore: mẻ cửa cho đầu tư nước ngoài đối với hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế, ngoại trừ các lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc gia, sức khoe cộng đồng và an toàn xã hội như: sản xuất vũ khí đạn dược và các trang thiết bị phục vụ quân đội do Nhà nước độc quyền quản lý; xuất bản báo chí; các dịch vụ công cộng; viễn thông; tài chính và bảo hiểm.

Hàn Quốc: Hàn Quốc đã mẻ cửa 98,9% tổng số các ngành nghề của mình cho đầu tư nước ngoài. Hiện nay, chỉ còn: 13 ngành đóng cửa đối với đầu tư nước ngoài, 18 ngành mẻ cửa một phần.

Thực tiễn tình hình cho thấy, sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, các nước trong khu vực Châu á đã và đang tiếp tục đẩy mạnh việc mẻ cửa nền kinh tế để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có nhiều lĩnh vực Việt Nam còn hạn chế đầu tư nước ngoài thì một số nước khác đã mẻ cửa thu hút đầu tư nước ngoài như: thương mại bán lẻ, kinh doanh phân phối sản phẩm, tài chính, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản...Các nước quy định các lĩnh vực, ngành nghề, sản phẩm khuyến khích, cấm hoặc hạn chế đầu tư rất cụ thể, trong khi các danh mục của Việt nam còn khá chung chung, chưa cụ thể dẫn đến khó khăn trong việc thực hiện.

+ Cho phép thành lập liên doanh hoạt động trong nhiêu lĩnh vực thay vì chỉ hoạt động trong một lĩnh vực nhất định

Để đảm bảo sự kiểm soát của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, mỗi khi muốn thực hiện một dự án mới nào thì hoặc phải khai báo hoặc tuy thuộc vào quy mô vốn, địa điểm dự án mà phải có sự đồng ý trước của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Theo quy định của luật pháp hiện hành ẻ Việt Nam, hầu như các nhà đầu tư không được phép thành lập doanh nghiệp đa mục đích hay đa dự án. Điều này khiến cho các nhà đầu tư gặp phải một số khó khăn. Thứ nhất, các chủ đầu tư buộc phải thành lập một thực thể pháp luật đối với mỗi dự án, và như vậy chi phí ban đầu để thành lập doanh nghiệp sẽ bị tăng lên không ít. Thứ hai, thời gian bắt đầu dự án sẽ bị châm lại, vì các dự án này chỉ có thể được triển khai sau khi có giấy phép đầu tư. Thứ ba, nó không cho phép củng cố các kết quả đã đạt được ẻ các dự án khác nhau cùng thực thể, bẻi vì thực thể

64

này không thể lấy phần l ợi nhuận ở m ột số hoạt động để bù lỗ hoặc trang trải chi phí cho các hoạt động khác.

+ Tiên tới xây dựng một khung pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đẩu tư nước ngoài, nhằm tạo một môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, thực sự coi các doanh nghiệp có vốn FDI ị kể cả các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) là một bộ phận hữu cơ c a nên kinh tế Việt Nam,các doanh nghiệp FDỈ là c a Việt nam.

+ Thể chế hoa hơn nữa hoạt động tư vân pháp luật vê đầu tư. Hoạt động tư vấn pháp luật ở V i ệt Nam phần lớn mang tính tự phát. Chính phủ cần khứn trương ban hành nghị định về hoạt động tư vấn pháp luật, quy định cụ thể về trách nhiệm của các văn phòng tư vấn, mức thu lệ phí, quy định cụ thế về tiêu chuứn cán bộ và tổ chức nhân sự của các văn phòng tư vấn, công ty tư vấn. Tăng cường quản lý nhà nước hoạt động tư vấn pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả của các công tác này. V i ệt Nam có thể tham khảo k i nh nghiệm của các nước, thành lập trung tâm dịch vụ tư vấn đầu tư miễn phí, m ột cửa. Tại đó có đại diện của các cơ quan thuộc chính phủ, chuyên gia của các bộ, ngành chủ chốt được giao nhiệm vụ là đầu m ối cung cấp miễn phí các dịch vụ tư vấn đầu tư, tiếp nhận và xử lý hồ sơ x in phép đứu tư, cung cấp các dịch vụ và hỗ trợ đầu tư ban đầu cho các nhà đầu tư nước ngoài. Các trung tâm kiểu này đã hoạt động rất hiệu quả tại Malaysia, Philippine, Thái Lan, Singapore...

+ Tiếp tục hoàn thiện chính sách thuê đối với hoạt động đầu tư nước ngoài. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có v ốn F DI giảm chi phí đầu tư làm ăn có lãi.

Chính sách thuế ảnh hưởng trực tiếp đến l ợi nhuận của nhà đầu tư vì vậy có tác động lớn tới quyết định đầu tư. Chính sách thuế ổn định, rõ ràng về mức thuế và thời gian hiệu lực, những ưu đãi hợp lý luôn hấp dẫn các nhà đầu tư. M u ốn đạt được những yêu cầu này, cần cải cách hệ thống chính sách thuế theo hướng sau:

Điều chỉnh các quy định chưa hợp lý về thuế V Á T, thuế suất thuế nhập

khứu quá cao đang gây khó khăn cho các doanh nghiệp có v ốn F D I.

Vướng mắc lớn nhất hiện nay là thuế xuất nhập khứu và thuế V Á T, thuế nhập khứu đối với các sản phứm, linh kiện và nguyên vật liệu phục vụ chương trình nội địa hoa còn nhiều bất cập. Thuế suất thuế nhập khứu đánh vào linh kiện, phụ tùng, nguyên vật liệu để tiến hành sản xuất trong nước đôi lúc còn cao hơn thuế suất nhập khứu sản phứm hoàn chỉnh. Chẳng hạn, nhập nguyên khung nhà thép thuế 0%, trong lúc đó nhập nguyên vật liệu về sản xuất thành khung nhà hoàn chỉnh phải chịu thuế 1 5 %. Chính phủ cho nhập miễn thuế đối với xe chở rác và thiết bị xử lý rác, trong lúc đó VietPan nhập linh k i ện về để gia công sản xuất mặt hàng tương tự lại chịu mức thuế khá cao. Nhập sản phứm vải keo chịu thuế 2 0 %, trong lúc đó nhập nguyên liệu vải mộc và vải pha phải chịu mức thuế gấp đôi (40%).Đây là m ột trong

65

những nguyên nhân làm cho một số mặt hàng trong nước có giá thành cao, khó cạnh tranh với hàng ngoại nhập.

Còn về' thuế V ÁT thì sao? Hiện nay có khá nhiều nhà đầu tư nước ngoài băn khoăn với thuế V Á T. Theo ước tính sơ bộ, với thuế V Á T, mức chênh lệch chịu thuế tăng thêm 8-9% so với thuế doanh thu trước đây, điều này khiến các nhà sản xuất khó giảm giá thành sản phẩm.

Về thuế thu nhập cá nhân, nhiều ý kiến cho rằng, hiện nay loại thuế này đang gây bất lợi cho ta trong việc cạnh tranh thu hút FDI, cản trự các doanh nghiệp trong việc thuê các chuyên gia có trình độ cao về công nghệ và quản lý, vì mức khựi điểm chịu thuế quá thấp, thuế suất cao hơn so với mặt bằng chung của các nước trong k hu vực từ 10-12%. T h uế thu nhập của người Việt Nam như hiện nay đang đẩy những người V i ệt Nam ra k h ỏi các vị trí quản lý của mình trong các doanh nghiệp FDI, đặc biệt là trong các doanh nghiệp 1 0 0% vốn nước ngoài. Lãnh đạo các doanh nghiệp thấy rằng, thuê một người Việt Nam đảm nhận một nhiệm vụ nào đó phải trả lương và đóng thuế thu nhập cho họ, tổng lại sẽ đắt hơn thuê người nước ngoài. Chính sách như vậy sẽ không tạo ra được một đội ngũ các nhà quản lý thay thế người nước ngoài và cũng không giúp thực hiện một chủ trương của nhà nước là học tập bằng được cách quản lý tiên tiến của nước ngoài. ( X em phụ lục l ồ)

Bên cạnh đó, các nhà đầu tư nước ngoài còn phải gánh chịu m ột số lệ phí vụn vặt do các ngành, các địa phương tự ý đặt ra. Để giải quyết những vướng mắc trên,tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư, chúng ta cần tiến hành những giải pháp sau:

Khẩn trương khắc phục tình trạng thuế suất thuế nhập khẩu một số linh kiện và nguyên liệu cao hơn sản phẩm nguyên chiếc. Nghiên cứu l ại thuế V Á T, sửa đổi những bất hợp lý đối với doanh nghiệp có vốn FDI. Rà soát lại các loại phí và lệ phí đối với các nhà đầu tư nước ngoài, theo hướng đơn giản hoa hệ thống thuế và phí, tháo gỡ bớt khó khăn cho hoạt động F DI nhưng vẫn đảm bảo nguồn thu cho ngân sách.

X em xét, hạ thấp thuế thu nhập đối với các cá nhân V i ệt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn FDI, nhằm khuyến khích việc sử dụng lao động V i ệt Nam trong những cương vị quan trọng như quản lý, điều hành doanh nghiệp.

. Xử phạt nghiêm m i nh các hành động trốn thuế để đảm bảo tính công

bằng trong k i nh doanh.

.Theo dõi sát sao việc thực hiện các H i ệp định tránh đánh thuế hai lần

nhằm đảm bảo quyền l ợi cho các nhà đầu tư.

. Công bố chính sách thuế xuất, nhập khẩu của V i ệt Nam với các nước nói chung và với các nước A F TA nói riêng từ nay đến n ăm 2006, k hi V i ệt Nam thực hiện xong chương trình cắt giảm thuế theo CFPT. Việc này sẽ giúp các nhà đầu tư yên tâm hoạch định chính sách xuất khẩu sản phẩm của mình.

66

- Nâng cao ý thức chấp hành luật, xoa bỏ tình trạng thi hành luật pháp

tùy tiện.

Cùng với việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, cần chú trọng hơn nữa công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật sâu rộng tới m ọi đối tượng tham gia hoạt động hợp tấc đầu tư. Xử lý nghiêm m i nh các trưắng hợp vi phạm pháp luật, cửa quyền, sách nhiễu, gây phiền hà cho các nhà đầu tư. Đồng thắi, cũng cần khắc phục tình trạng "hình sự hoa" các quan hệ kinh tế, các giao dịch dân sự như dư luận gần đây đã lên tiếng.

M ục tiêu của các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài là tối đa hoa l ợi nhuận . Chính vì vậy, họ chỉ tìm đến những nơi nào có cơ sở hạ tầng thuận lợi cho hoạt động đầu tư của mình. M ột cơ sở hạ tầng hiện đại sẽ làm cho môi trưắng đầu tư thêm hấp dẫn và ngược lại. Tăng cưắng đầu tư cho cơ sở hạ tầng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thu hút FDI.

Quá trình đầu tư, kinh doanh ở V i ệt Nam đang gặp phải trở ngại lớn do

sự lạc hậu của hệ thống cơ sở hạ tầng . Trở ngại này vốn đã tồn tại từ nhiều thập kỷ nay và càng trở nên gay gắt khi nền kinh tế đang ngày càng phát triển, sản xuất trong nước đang ngày càng gia tăng, V i ệt Nam cần tâng cưắng hội nhập kinh tế quốc tế. Tình trạng quá tải và lạc hậu của m ột số cảng biển, cảng hàng không và hệ thống giao thông đưắng bộ , đưắng s ắ t, cũng như sự thiếu hụt điện năng, nguồn cung cấp nước công nghiệp chưa đảm bảo. Hệ thông cấp thoát nước trong những thành p hố lớn đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Nhiều k hu dân cư vẫn đang chịu sự khan hiếm về nước, nhất là vào m ùa hè

là những biểu hiện cụ thể của những trở ngại đó .

Thắi gian gần đây, các đưắng bay quốc tế cũng như trong nước đã được mở thêm, nhưng việc đi lại bằng đưắng hàng không với các nước vẫn còn nhiều khó khăn do thiếu các chuyến bay trực tiếp tới các nước và các trung tâm kinh tế lớn. Hệ thống sân bay, hàng không dân dụng còn lạc hậu so với nhiều nước trong k hu vực, cần được nâng cấp, cải tạo.. . Bằng những nỗ lực trong nước và sự hợp tác với nước ngoài, trong vài n ăm lại đây, hệ thống thông tin liên lạc của V i ệt Nam đã được cải thiện đáng kể. T uy nhiên, những tiến bộ đạt được m ới tập trung vào liên lạc quốc tế ở các thành p hố và trung tâm đô thị lớn.về điện năng, những cố gắng trong những n ăm qua nhằm gia tăng sản lượng điện là đáng kể. Nhưng, sản lượng điện còn thấp so với nhu cầu sản xuất và tiêu dùng, mất cân đối trong cơ cấu nguồn, thiếu sự đồng bộ giữa phát triển nguồn và phát triển mạng lưới điện, giữa mạng lưới chuyển tải và mạng lưới phân phối...

Trong những n ăm tới, V i ệt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa huy động vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, vừa đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước, vừa làm cho môi trưắng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại V i ệt N am thêm hấp dẫn.

1.3. Tiếp tục táng cường đẩu tư cho cơ sở hạ tầng.

67

V i ệc cải thiện cơ sở hạ tầng đòi h ỏi phải có m ột lượng vốn đầu tư rất lớn. Do đó, m u ốn nhanh chóng hoàn thiện cơ sở hạ tầng, chúng ta cần phải huy động t ối đa m ọi nguồn vốn hiện có.

Nhà nước cần tiếp tục thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn O DA

cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Do vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng là rất lớn, thừi gian thu h ồi vốn chậm nên các nhà đầu tư tư nhân thưừng ít quan tâm đến lĩnh vực này. Trong k hi đó, việc huy động vốn trong nước còn nhiều hạn chế, nguồn v ốn đầu tư từ ngân sách nhà nước lại hạn hẹp. Do đó, cần tranh thủ m ọi nguồn O DA không gắn với các ràng buộc về chính trị , phù hợp với chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ k i nh tế đối ngoại của Việt Nam. Thực tế, các nước cung cấp O DA chủ yếu cho ta cũng đồng thừi là những nước có nhiều nhà đầu tư tư nhân vào V i ệt N am ( Nhật, Pháp và các nước EU khác. ). Chính phủ các nước này thông qua việc cung cấp O DA cho V i ệt Nam để gián tiếp tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước mình tăng cưừng đầu tư vào V i ệt Nam. Đây là m ột nguồn v ốn đầu tư rất quan trọng cho cơ sở hạ tầng. Nhưng nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định, cho nên đồng thừi cần nghiên cứu , tìm ra những biện pháp hữu hiệu để khai thác các nguồn vốn trong nước, vốn từ ngân sách nhà nước, v ốn huy động trong dân,

Cần đầu tư cho cơ sở hạ tầng theo cách có trọng điểm, tránh phân tán , dàn trải. Trước hết, nên tập trung vào các vùng trọng điểm như: khu công nghiệp, k hu chế xuất, các vùng có nhiều tài nguyên thiên nhiên và các vùng kinh tế động l ự c.

Dành nhiều ưu đãi hơn nữa cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào cơ sở hạ tầng theo hình thức B Ó T, BTO, BT...MỞ rộng hình thức B ÓT đối với các công trình lớn, vốn đầu tư nhiều. Đồ ng thừi, kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng tất cả các hình thức vào những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng nhỏ hơn, thừi gian thu hồi vốn nhanh hơn.

Trong xây dựng các công trình đưừng xá, cầu cống...cần k ết hợp theo hình thức nhà nước và nhân dân cùng làm , tức là vừa sử dụng vốn ngân sách của nhà nước , vừa phát hành trái phiếu công trình để huy động vốn trong nhân dân.

Thành lập các công ty cổ phần trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng. Cổ đông của các công ty này có thể bao gồm cả ngưừi V i ệt Nam và ngưừi nước ngoài. Cho phép các công ty được tự do mua bán cổ phiếu , trái phiếu trên thị trưừng chứng khoán V i ệt Nam.

H i ện nay, việc thu hút và sử dụng vốn F DI tại V i ệt Nam đang đứng trước những thử thách to lớn. Do những lệch lạc trong hoạt động thương mại, m ột phần lớn v ốn F DI đã được đưa vào các ngành công nghiệp với chế độ bảo hộ rất cao. Điều đáng lo ngại là, bộ phận v ốn nàv được sử dụng k ém hiệu quả. H ơn nữa, m ột phần lớn nguồn v ốn F DI đã đi vào hoạt động p hi

1.4. Cụ thể hoa chính sách để mọi nguồn vốn được sử dụng với hiệu quả tối đa

68

thương mại. H ai chiều hướng này có thể gây ảnh hưởng tới quá trình tăng trưởng k i nh tế. Các kết quả điều tra về hoạt động F DI tại V i ệt Nam cho thấy hoạt động F DI tại V i ệt Nam đạt hiệu quả còn thấp. Các doanh nghiệp có v ốn FDÌ khai lỗ ngày càng nhiều. Vì vậy, Chính phủ cần k i ểm soát chặt chẽ vay nợ nước ngoài và khuyến khích việc sử dựng có hiệu quả nguồn vốn F D I. Bên cạnh đó, cần tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dựng nguồn vốn ODA. Vì m ỗi nguồn vốn có thế mạnh liêng, không thể thay thế cho nhau. M ặt khác, trong k hi nguồn vốn tích l ũy n ội bộ còn hạn c hế thì sự gia tăng của đầu tư nước ngoài dễ dẫn đến tình trạng nền k i nh tế bị phự thuộc vào nguồn v ốn nước ngoài. Chính vì vậy, bên cạnh việc tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dựng vốn FDI, vốn ODA, cần phải khuyến khích mạnh đầu tư trong nước. M ọi nguồn vốn và tài sản sẩn có cần phải được sử dựng hiệu quả hơn, phải có chính sách cự thể hơn, triệt để hơn nhằm huy động ở mức cao nhất các nguồn vốn đầu tư trong nước.

Chính sách thương mại của V i ệt Nam cho đến nay vẫn chủ yếu là khuyến khích thay thế nhập khẩu và bảo hộ thị trường trong nước. Chỉ có chuyển hướng mạnh sang xuất khẩu, đầu tư vào các ngành sản xuất hàng xuất khẩu thì các nhà đầu tư m ới chú trọng đưa công nghệ hiện đại vào sản xuất để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Việc chuyển mạnh từ chính sách thay t hế nhập khẩu sang chính sách hướng về xuất khẩu đòi hỏi phải đổi m ới tư duy trong hàng ngũ những nhà hoạch định chính sách. về phần mình, các nhà đầu tư nước ngoài cũng có nhu cầu mở rộng thị trường cho sản phẩm của mình, sau k hi đã khai thác hết " công suất " của thị trường V i ệt Nam. Vì vậy, cần tăng cường hơn nữa các biện pháp khuyến khích xuất khẩu. Trong k hi đó,việc V i ệt Nam duy trì tỷ giá ổn định tương đối lâu đã hạn chế xuất khẩu, nhà nước cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp để đẩy mạnh xuất khẩu.

+ Chính phủ nên sớm ban hành các chính sách ưu đãi về thuế đối với hàng xuất khẩu.Thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế sử dựng v ốn ngân sách nhà nước...hiện còn cao, khiến nhiều doanh nghiệp F DI gặp khó khăn, giảm sức cạnh tranh trong xuất khẩu.

+ Mở rộng việc vay v ốn ngân hàng dành cho các doanh nghiệp F DI đã

có phương án k hả t hi và có thị trường xuất khẩu ổn định, để các doanh nghiệp này kịp thời có vốn đầu tư cho sản xuất và tái sản xuất mở rộng. Để kịp thời động viên các doanh nghiệp, chính phủ cần có chính sách khen thưởng kịp thời đối với các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu đạt thành tích tốt, xuất khẩu nhiều mặt hàng, đạt chỉ số k im ngạch cao.

+ Mở rộng thị trường, chuyển đổi cơ cấu thị trường xuất khẩu theo

hướng giảm tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường châu Á, tăng tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường châu Au và châu Mỹ.

+ Cải tiến công tác quản lý nhà nước hoạt động xuất nhập khẩu, giảm bớt những thủ tực hành chính rườm rà, không cần thiết, để giảm bớt chi phí

1.5.Tiếp tục tăng cường các biện pháp khuyên khích xuất kháu.

69

và tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất k i nh doanh hàng xuất khẩu.

+ Nên khuyến khích phương thức hàng đổi hàng và thanh toán bù trừ. Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính - tiền tệ vừa qua, các nước đều thiếu ngoại tệ mạnh, nên quan hệ thương mại gặp nhiều khó khăn. Chăng hạn, Malaixia, Inđônêxia ... cần mua gạo, nông sản của V i ệt Nam nhưng không có ngoại tệ để thanh toán, trong k hi đó V i ệt Nam lại cần nhập phân bón từ Malaixia, Inđônêxia... thì cách giải quyết tỗt nhất là các nước áp dụng phương thức hàng đổi hàng.

Tăng cường các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu, nhưng chúng ta cũng cần đề phòng tình trạng xuất khẩu thừa trên thế giới. K h ủ ng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á vừa qua thực chất là khủng hoảng sản xuất thừa các mặt hàng chế biến truyền thỗng trên thế giới. Do vậy, k hi h ội nhập vào k i nh tế thế giới và k hu vực, m ột cách khách quan đòi hỏi chúng ta phải quan tâm đến những diễn biến m âu thuẫn giữa cung và cẩu trên thị trường thế giới, đề phòng nguy cơ xuất khẩu thừa trên thị trường thế giới. H i ện tượng giảm mạnh giá cà phê hiện nay làm cho các cơ sở sản xuất xuất khẩu lao đao cũng chính là do chúng ta chưa thực sự quan tâm tới công tác nghiên cứu và dự báo thị trường thế giới.

Theo các chuyên gia kinh tế, nhìn chung , trên thị trường t hế giới ngày nay xuất khẩu thừa có thể bắt nguồn từ ba nguyên nhân chủ yếu. M ột là, chu kỳ phát triển của nền kinh tế thế giới. K hi nền kinh tế thế giới bước vào thời kỳ suy thoái, các nước đều giảm nhập khẩu, dẫn đến xuất khẩu thừa đỗi với nước xuất khẩu. H ai là, xuất khẩu thừa trên thế giới làm cho thu chi quỗc tế giữa các nước bị thâm hụt, cán cân thu nhập ngoại h ỗi mất cân đỗi, các quỗc gia và k hu vực này phải hạn chế nhập khẩu, thực hiện chính sách phá giá đồng n ội tệ để kích thích sản xuất xuất khẩu, làm cho các nước g iữ nguyên tỷ giá chịu sức ép lớn về xuất khẩu. Ba là, sự không cân bằng về khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, đó là tình trạng xuất khẩu thừa của các nước lạc hâu về khoa học công nghệ.

Để ngăn chặn xuất khẩu thừa, bên cạnh việc n ám bắt thị trường, tìm ra những sản phẩm xuất khẩu có lợi thế riêng, thì các sản phẩm xuất khẩu phải hội tụ được hai điều kiện cơ bản sau: M ột là, sản phẩm phải có ưu thế cạnh tranh về giá cả, nghĩa là ưu thế về giá thành thấp. H ai là, sản phẩm phải có ưu thế về kỹ thuật. Loại ưu thế thứ nhất nói chung không lâu bền, trong tình hình mức sỗng và mức tiêu dùng từng bước nâng cao, và các đỗi thủ cạnh tranh hạ giá đồng tiền thì nước có đồng tiền ổn định sẽ mất ưu thế cạnh tranh về giá cả trong xuất khẩu. Do vậy, chỉ có con đường phát triển công nghệ kỹ thuật cao, nâng nhanh h àm lượng khoa học công nghệ của sản phẩm xuất khẩu m ới chiếm lĩnh được thị trường thế giới, ngăn chặn được tình trạng sản xuất thừa hàng xuất khẩu. Chính sự phát triển mạnh công nghiệp kỹ thuật

cao đã giúp các nước Âu, Mỹ đẩy nhanh được xuất khẩu, phát triển ổn định

kinh tế, ngược với tình trạng khủng hoảng của các nước châu Á.Thực tế phát triển thị trường thế giới đã cho thấy khoa học công nghệ là sức sản xuất sỗ

70

một. Muốn tránh được thất bại trong cạnh tranh quốc tế, trước hết phải chiếm lĩnh được điểm cao về khoa học công nghệ.

Các doanh nghiệp cần nâng cao sức cạnh tranh bằng chất lượng hàng hoa. Phải chú trọng nhập khẩu những dây chuyền công nghệ mới để tăng sức cạnh tranh cựa hàng xuất khẩu, đồng thời, thích nghi, cải tiến công nghệ nhập khẩu, tạo ra công nghệ riêng để đẩy nhanh trình độ công nghệ cựa doanh nghiệp cũng như cựa Việt Nam lên hàng quốc tế. Để giúp các doanh nghiệp thực hiện được điều này,Nhà nước cần cải tiến chính sách nhập khẩu công nghệ theo hướng hiện đại hoa công nghệ. Không quá thiên về mục tiêu tạo việc làm cho người lao động. Cần chu ý tới nhung công nghệ cho sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc te và không gây nguy hại cho môi trường. Việc đấu thầu mua sắm máy móc thiết bị đa lam giảm được chi phí về mua sắm rất nhiều, nhưng nếu chú ý nhiều tới trình độ công nghệ, tránh tình trạng ngay sau khi mua sắm công nghệ đã lạc hậu thi trong vài năm tới sẽ khựng hoảng về nguyên liệu và gây tình trạng lãng phí vốn. 2. M ột số giải pháp cụ thể, trực tiếp chự yếu nhằm khác phục hậu quả cựa khựng hoảng, tăng cường thu hút FDI.

2.1.Cải tô hệ thống tài chính- ngân hàng.

Mặc dù đã có nhiều chuyển biến đáng kể, song trong lĩnh vực tài chính

- ngăn hàng còn nhiều tồn tại. Thực tế cho thấy, các nước xảy ra khủng hoảng tài chính đều có một hệ thống tài chính - ngân hàng kém hiệu quả. Đây là một bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Để tránh được những sai lầm của các nước này, chúng ta cần có những giải pháp cải t hệ thống tài chính ngăn hàng của mình đủ sức đáp ứng những yêu cầu của hội nhập.

- Cải tổ hê thống nẹân hàng cựa Việt Nam hiên nay

Hệ thống ngân hàng cựa ta hiện nay còn yếu kém, khả năng thu hút tiền gửi dân cư còn hạn chế. Trong khi đó, tiền huy động thì lại cao. Nợ khó đòi cựa hầu hết các ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng thương mại quốc doanh khá lớn. N ăm 1997, nợ quá hạn cựa hệ thống ngân hàng lên tới 1 0% tổng số dư nợ và gấp 2 lần so với năm 1996. Ngoài ra, còn có khoảng 5 0% số nợ quá hạn không có khả năng thu hồi đã được chính phự cho phép xoa nợ. Như vậy, nợ quá hạn đã lên tới 1 5% tổng dư nợ. Thâm hụt cán cân vãng lai cũng ở tình trạng báo động như ở các nước trước khi xảy ra khựng hoảng. N ăm 1996, thâm hụt cán cân vãng lai chiếm gần 1 0% GDP, năm 1997 chiếm khoảng trên 5% (ở Thái Lan, Malaysia, tỷ lệ này là 8%). Nợ nước ngoài lớn tổng số nợ nước ngoài chiếm trên 8 0% GDP, trong đó nợ nước ngoài cựa các doanh nghiệp là 30505,5 tỷ VND, chiếm 2 5% tổng số nợ nước ngoài. Vièc sử dụng vốn vay kém hiệu quả.

Tinh hình trên cho thấy, chúng ta phải kiên quyết và khẩn trương cải tổ hệ thống tài chính-ngân hàng. Cần cựng cố, lành mạnh hoa và nâng cao hiệu quả hoạt động cựa hộ thống ngân hàng. Trước hết, khẩn trương hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên quan đen hoạt động ngân hàng, các văn bản

71

hướng dẫn Luật ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng...để tạo dựng m ột hành lang pháp lý an toàn cho m ọi hoạt động ngân hàng, đảm bảo hoạt động của ngân hàng được lành mạnh, hiệu quả cao.

. Cần đốc biệt chú trọng các nội dung như quyền hạn , trách nhiệm của tổ chức thanh tra, giám sát , k i ểm toán hoạt động ngân hàng-tài chính, điều kiện đảm bảo tiền vay, an toàn tiền gửi cho các ngân hàng thương mại.

. Từng bước đưa các Ngân hàng Thương mại Quốc doanh hoạt động kinh doanh theo đúng chức năng và Chính phủ không nên can thiệp quá sâu vào các hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại.

. Thiết lập hệ thống bảo vệ, phòng ngừa, xử lý tổn thất trong kinh doanh nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng như quỹ dự phòng r ủi ro, quỹ bảo toàn tiền gửi cho người gửi tiền, phát triển thị trường và nghiệp vụ bảo h i ểm để bảo đảm an toàn cho sản xuất kinh doanh và hệ thống ngân hàng.

. Mở rộng phạm vi hoạt động cho các ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại V i ệt Nam. Cần cho phép các ngân hàng có uy tín chủ động hơn trong việc huy động vốn trong nước cũng như chuyển giao kiến thức và công nghệ cho các ngân hàng trong nước. Tạo điều kiện thuận l ợi cho các ngân hàng nước ngoài kinh doanh bình đảng, hợp pháp tại V i ệt nam.

. Phát triển hệ thống các ngân hàng thương mại đủ tiêu chuẩn kinh doanh, thích ứng được với cơ chế thị trường, được phân định rõ giữa thực hiện nhiệm vụ chính sách và kinh doanh, thực hiện tốt vai trò trung gian tài chính.

. Chú trọng chấn chỉnh các ngân hàng thương m ại cổ phần. Nghiên cứu, áp dụng các loại hình ngân hàng, công ty tài chính mới, bao gồm trong đó có tổ chức dạng quỹ, công ty đảm trách việc xử lý tài sản thế chấp, mua bán nợ để thu hồi vốn cho ngân hàng. Nhà nước nên hạn chế việc chỉ đạo cho vay vốn, việc huy động và cho vay là nghiệp vụ của các ngân hàng thương mại.

. Tích cực chống tham nhũng, nâng cao trình độ nhận thức, nghiệp vụ,

ngoại ngữ cho cán bộ hoạt động trong lĩnh vực tài chính- ngân hàng.

Thực hiên chính sách tiền tê và chính sách tỷ giá linh hoạt

+ Về chính sách tiền tê:

K i nh nghiệm của các nước đã cho thấy, cần phải có chính sách quản lý vốn đầu tư nước ngoài m ột cách hiệu quả và phải có biện pháp k i ềm chế tác động tiêu cực của nó thì m ới có thể tránh được khủng hoảng. Bởi vì cùng với những ảnh hưởng tích cực, vốn đầu tư nước ngoài cũng gây cho các nước tiếp nhận không ít vấn đề phức tạp. V i ệc thu hút vốn nước ngoài gây nên những tác động không nhỏ tới chính sách tiền tệ của m ột quốc gia. Vì thu hút vốn sẽ tạo sức ép làm tăng giá trị bản tệ do cung ngoại tệ trên thị trường tăng, do đó sẽ làm tăng tổng phương tiện thanh toán và gây sức ép tăng l ạm phát. Các

72

Ngân hàng Trung ương thường phải mua ngoại tệ để điều hoa thị trường, như vậy sẽ làm tăng lượng cung tiền tệ và gây sức ép tăng l ạm phát. T h êm vào đó, đối với các nước đang phát triển, vốn nước ngoài thường có lãi suất thấp hơn lãi suất bản tệ nên dễ hình thành khuynh hướng các doanh nghiệp trong nước muốn vay nước ngoài hơn là vay trong nước mà hậu quả là sẽ làm tăng gánh nợ nước ngoài và giảm tiết k i ệm trong nước... Tất cả các vấn đề này đặt ra cho chính sách tiền tệ quốc gia nhiệm vụ hết sức quan trọng và khó khăn là phải dung hoa được các tác đầng tiêu cực của việc thu hút v ốn nước ngoài với sự gia tăng k h ối lượng vốn đầu tư nước ngoài.

Ngân hàng phải thực hiện chính sách quản lý ngoại h ối hợp lý, chặt

chẽ để có thể tránh được việc đầu tư chui của các chủ đầu tư nước ngoài, các phần tử maíia quốc tế, l ợi dụng thông qua hoạt đầng đầu tư để rửa tiền.

K h u y ến khích các ngân hàng thương mại cho vay nhưng phải tuân theo những nguyên tắc k i nh doanh tín dụng của k i nh tế thị trường. Bỏ hạn ngạch tín dụng đối với những ngân hàng thương mại có tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khó đòi thấp.

Từ tháng 8 n ăm 2000, Ngân hàng N hà nước đã quy định cơ chế lãi suất mới, lãi suất tín dụng đã thực sự giảm, nhưng hiện nay vẫn còn cao so với tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc. N ên xác định lãi suất tiền gửi theo đúng nguyên tắc của k i nh tế thị trường:

Do thị trường tài chính tiền tệ nước ta còn quá nhỏ bé, nên dù lãi suất ngân hàng giảm, người có tiền vẫn phải gửi tiền vào ngân hàng. Vì vậy, k hi quy định lãi suất nên ưu tiên người đầu tư hơn người gửi tiền.

Ngân hàng N hà nước cần linh hoạt, m ềm dẻo hơn trong quản lý các

ngân hàng thương mại, đặc biệt về lãi suất, quy định tỷ lệ dự trữ bắt buầc. Nên điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buầc thường xuyên hơn theo nhu cầu tín dụng và quản lý tiền tệ hàng quý.

+ Vé chính sách tỷ giá:

Tỷ giá h ối đoái là m ầt công cụ vĩ mô trong việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, chịu ảnh hưởng trực tiếp của cơ chế quản lý ngoại hối. Trên cơ sở Q uy chế quản lý ngoại h ối m ới đã được chính phủ ban hành, Ngân hàng Nhà nước cần khẩn trương tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện.

Nước ta đã duy trì tỷ giá ổn đinh khá lâu. V ào những n ăm 1991-1992, khi tỷ giá có những biến đầng, N hà nước đã có chủ trương và biện pháp ổn định tỷ giá. Tỷ giá trên thị trường tự do đã giảm từ mức 14600 VND/USD ( mức cao nhất của cơn sốt tỷ giá ) xuống ở mức xung quanh 14.000 VND/USD. Trong k hi đó, lạm phát các n ăm là 14,4%; 12,7%; 4,5%; 3,6%. Từ n ăm 1993 tới nay, tỷ lệ lạm phát dao đầng trong khoảng 5 - 8 %% nhưng tỷ giá hiện nay vẫn chỉ ở mức 14.500 VND/USD, tăng khoảng 1,2% (thị trường liên ngân hàng). K i nh nghiệm của các nước đã chỉ ra rằng, việc duy trì tỷ giá

73

Lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát dự báo

cố định quá lâu sẽ gây ra tình trạng đầu tư tích trữ ngoại tệ và là m ột trong những nguyên nhân gây ra lạm phát.Vì vậy, cho dù khả năng đầu tư ngoại tệ của ta còn thấp, nhưng việc ổn định tỷ giá quá lâu sẽ không khuyến khích kinh tế phát triển.

Việc đồng tiền các nước trong khu vởc mất giá nhiều so v ới USD trong khi tỷ giá VND/USD vẫn được khống chế, sẽ dẫn đến hàng hoa của các doanh nghiệp của V i ệt nam mất tính cạnh tranh tương đối so với các doanh nghiệp cùng loại ở các nước này. Để khuyên khích xuất khẩu, đảm bảo cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh được trên thị trường k hu vởc và thế giới, cần thiết phải giảm giá đối ngoại của đồng V i ệt Nam. Tuy nhiên, làm như vậy lại có thể gây hậu quả xấu cho các doanh nghiệp có v ốn F DI đang tiêu thụ phần lớn sản phẩm tại V i ệt Nam như các doanh nghiệp sản xuất bia, nước giải khát, hàng điện tử, ôtô, sắt thép,...Đồng thời, gây căng thẳng trầm trọng cho thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Trong k hi V ND mất giá so với USD thì cầu về ngoại tệ để nhập khẩu nguyên liệu và linh kiện cho những sản phẩm tiêu thụ tại V i ệt N am đang ngày càng gia tăng.

Tuy nhiên, V i ệt Nam chưa thể chủ động phá giá đồng tiền. Nền kinh tế

của chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi, tuy đã đạt được m ột số thành tởu đáng kể, nhưng chưa ổn định. Lòng tin vào các chính sách của Nhà nước, vào giá trị đồng n ội tệ còn yếu thì việc phá giá đồng tiền sẽ gây phản ứng dây chuyền trong nền kinh tế. Tình trạng đôla hoa, vàng hoa sẽ quay trở l ạ i, và rất có thể dân chúng sẽ kéo đến các ngân hàng đòi rút tiền như đã xảy ra ỏ

một số nước k i nh tế chuyển đổi và các nước Đông Nam Á vừa qua, hay như tình trạng đổ vỡ của hệ thống tín dụng những n ăm trước đây.

Những phân tích trên cho thấy, trong thời gian tới, Nhà nước nên chủ

động duy trì chế độ tỷ giá linh hoạt.

Tỷ giá hối đoái cần được điều chỉnh từng bước nhỏ theo sát tín hiệu thị trường, g iữ ổn định ở mức hợp lý, phù hợp cung cầu ngoại tệ, nhằm khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, tăng cường dở trữ ngoại tệ. H i ện nay, khi nền kinh tế ở các nước bị khủng hoảng đã từng bước đi vào ổn định thì Nhà nước cần can thiệp để điều chỉnh tỷ giá tàng nhẹ, không ảnh hưởng t ới thị trường.

Cần xây dởng hệ thống thông t in cung cấp kịp thời các số liệu về luồng ngoại tệ ra, vào V i ệt Nam. Từng bước hoàn thiện thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhằm góp phần dở báo chính xác cung cầu ngoại tệ trên thị trường.Thởc hiện những biện pháp nhằm hạn chế dần và đi đến xoa bỏ việc sử dụng ngoại tệ làm phương tiện lưu thông, thanh toán trên lãnh thổ V i ệt Nam, đặc biệt là nạn đôla hoa hiện nay.

Trong tương lai, cơ sở xác định tỷ giá đồng V i ệt Nam cần dởa trên " rổ ngoại tệ ", kết hợp quan hệ cung cầu và xu hướng biến động của các đồng tiền trên thị trường thế giới, có xét tới những bạn hàng có k im ngạch xuất,

74

nhập khẩu lớn với V i ệt Nam. Có như vậy m ới đánh giá chính xác được giá trị thực của đồng V i ệt Nam.

- Han chế và phân bổ chát chẽ những khoản cho vay m ới

Tăng cường các biện pháp k i ểm soát chặt chẽ các doanh nghiệp quốc doanh và các ngân hàng thương mầi quốc doanh vay nợ nước ngoài, áp dụng những quy định chặt chẽ về cân bằng ngoầi tệ theo Luật đầu tư nước ngoài và hần chế nhập khẩu để giảm sự mất cân bằng cán cân thanh toán.

Chính phủ cần k i ểm soát chặt chẽ vay nợ nước ngoài và khuyến khích

sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài.

V i ệc cho vay phải được thực hiện dựa trên cơ sở kết quả k i ểm toán đáng tin cậy và chỉ dành cho những doanh nghiệp đã chứng tỏ thực sự có lãi và ổn định. Căn cứ vào những bài học rút ra từ k hu vực, cần phải có những biện pháp cấp bách để tránh thất bầi do việc cho vay vốn và đầu tư quá mức cho các doanh nghiệp nhà nước. Có nguy cơ rất dễ xảy ra là các khoản nợ có thể lên tới mức nguy hiểm, sẽ đẩy lùi quá trình phát triển đất nước. Những doanh nghiệp nhà nước mà trong 5 n ăm qua trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế cao mà không thực sự có lãi thì cũng không thể có lãi trong bối cảnh tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lầi vào những n ăm sấp tới. Vì vậy, Nhà nước nên thận trọng với những khoản cho vay mới, tránh làm trầm trọng thêm sự mất cân đối hiện nay bằng các khoản nợ khó đòi tiếp theo.

Cần cắt giảm, hần chế đến mức tối thiểu và giám sát chặt chẽ việc cho vay vốn dưới sự bảo lãnh của nhà nước. Nhà nước cần công bố rộng rãi một chính sách rõ ràng và hết sức hần chế đối với bảo lãnh của nhà nước, dưới cả hình thức công khai lẫn ngầm định.

Hoàn thiện hệ thống văn bản về chính sách quản lý nợ nước ngoài, phân định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp và nhà nước trong công tác quản lý vay và trả nợ, cụ thể hoa hơn nữa chiến lược quản lý nợ nước ngoài.

Đây là biện pháp cần khẩn trương triển khai với sự phối hợp đồng bộ

của các ngành, các cấp. Cụ thể:

- Nhanh chóng công bố quy hoầch đầu tư phát triển của từng vùng, từng địa phương và theo từng ngành nghề. Đồ ng thời, tâng cường tuyên truyền, giới thiệu các tiềm năng, lợi ích có thể thu được nếu đầu tư vào các vùng, địa phương, ngành ngành nghề này. V i ệc này rất cần thiết để tăng tính hấp dẫn, thu hút đầu tư vào các dự án mới, và tầo điều kiện cho các nhà đầu tư chủ động lập kế hoầch kinh doanh lâu dài của mình

- Chính phủ có thể thành lập một tổ chức hỗ trợ cho hoầt động đầu tư

nước ngoài với những chức năng chính sau:

+ Tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách khuyến khích thu hút

vốn đầu tư nước ngoài của Chính phủ V i ệt Nam; cung cấp thông tin đáng tin cậy, đầy đủ, kịp thời đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư.

75

2.2.Tiêp tục cải tiên và đẩy mạnh công tác vận động xúc tiên đầu tư.

+ L àm môi giới giữa nhà đầu tư V i ệt N am với nhà đầu tư nước ngoài,

giúp cho các doanh nghiệp tìm được đối tác phù hợp.

+ Giúp đỡ nhà đầu tư theo những vụ việc cụ thể, như đăng ký và xin giấy phép đầu tư; thành lập công ty; tìm địa điểm bố trí vãn phòng, nhà xưởng, xử lý rác và chất thải; cung cấp điện, nước; tìm k i ếm các nhà cung cấp nguyên vật liệu theo chi nhánh ở địa phương...

- Phối hợp với cơ quan ngoại giao, tộ chức xúc tiến thương mại trong và ngoài nước để tăng cường vận động đẩu tư. Chuyển mạnh hướng thu hút đầu tư, để tìm k i ếm những đối tác đầu tư m ới nhằm tranh thủ công nghệ nguồn, kỹ thuật hiện đại để nâng cao sức cạnh tranh của nền k i nh tế. Nhưng đồng thời vẫn phải chú trọng thu hút vốn từ các đối tác Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc. Tăng cường thu hút đầu tư của các đối tác Tây Au, Bắc Au, Bấc Mỹ và các tập đoàn có tiềm lực lớn về vốn, công nghệ, thị trường tiêu thụ. Tăng cường thu hút vốn đầu tư vào các k hu công nghiệp, k hu chế xuất, k hu công nghệ cao.

Hợp tác đầu tư của nước ta cho đến nay vẫn tập trung vào m ột số nước,

trong k hu vực Đông Á tập trung vào Nhật Bản, Hàn Quốc , Đài Loan và trong khối A S E AN tập trung vào Singapo.

Đầu tư của ba nền kinh tế mạnh nhất thế giới là EU, Mỹ, Nhật vào Việt Nam đều ở mức thấp hơn nhiều so với tiềm năng, đặc biệt là Mỹ. Hàn Quốc và các nước A S E AN có tỷ lệ đầu tư cao như nền kinh tế các nước này lại không vững chắc và còn chịu hậu quả khả nặng nề của cuộc khủng hoảng vừa qua. Từ bài học trước đây, khi Liên Xô và các nước X H CH Đông Âu

sụp độ và gần đây khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á chúng ta có thể rút ra là V i ệt nam cần mau chóng mở rộng thị trường với các quốc gia và k hu vực khác. Đặc biệt, Hoa Kỳ là m ột đối tác mạnh, Hiệp định thương mại V i ệt - Mỹ đã được kỷ kết sẽ mở ra nhiều cơ hội m ới cho quan hệ hợp tác đầu tư giữa hai nước, đầu tư của các công ty H oa kỳ vào V i ệt N am sẽ tăng nhanh, Mỹ có thể sẽ trở thành nước đầu tư lớn nhất ở V i ệt N am và thị trường Mỹ sẽ là thị trường lớn nhất cho hàng hoa sản xuất từ V i ệt Nam. Chúng ta cần có sự chuẩn bị về nhiều mặt để tiếp nhân cơ hội đó như tăng cường đội ngũ cán bộ mạnh cả về lượng và chất; xây dựng m ột hệ thống pháp luật nói chung và kinh tế, đẩu tư nói riêng hoàn chỉnh, đồng bộ và phù hợp với thông lệ quốc tế; lành mạnh hoa k hu vực tài chính- ngân hàng; vân hành tốt thị trường chứng khoán; xây dựng m ột cơ sở hạ tầng đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư...

V i ệt N am cần m ột chất lượng hoạt động đầu tư ngày càng cao hơn.

Cần khai thác các nguồn đầu tư có công nghệ cao, có thể thu hút và sử dụng với hiệu quả k i nh tế- xã hội cao nhất.Xét về k hả năng đầu tư và chất lượng đầu tư, chúng ta thấy các đối tác đầu tư chính yếu, lâu dài của V i ệt Nam là Châu  u, Nhật, Mỹ. Các nước này có khả năng đầu tư vào V i ệt N am lớn cả về lượng và chất. Do khủng hoảng tài chính - tiền tệ vừa qua , V i ệt Nam gặp khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nhưng tình trạng này sẽ

76

được cải thiện nếu Việt Nam chó chính sách thu hút F DI mạnh mẽ từ các trung tâm kinh tế lớn này. Đồng thời, nhưng ở một khoảng cách là Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, một số nước Bắc Âu... Chính phủ cẩn xác định những đối sách cựn thiết cụ thể để thu hút các nhà đựu tư thuộc các khu vực khác nhau.

V ới bối cảnh hiện nay, trong khi vẫn coi trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước khác, ta cựn chú ý nhiều hơn tới các tập đoàn lớn. Cựn vận động đựu tư để có nhiều tập đoàn lớn tới nước ta thăm dò cơ hội và thiết lập quan hệ hợp tác đựu tư. Công việc này cựn sự phối hợp với các cơ quan tư vấn dịch vụ đựu tư, các tổ chức xúc tiến đựu tư thuộc các cơ quan quản lý đựu tư ở một số nước. Nên cử các đoàn ra nước ngoài, tới Mỹ, các nước châu Âu...để tuyên truyền vận động đựu tư. Tổ chức các diễn đàn Quốc tê về đựu tư nước ngoài. Theo kinh nghiệm ở các nước, mỗi tập đoàn lớn thường đựu vào hàng chục dự án, thuộc nhiều lĩnh vực, do vậy các cơ quan nhà nước cựn đàm phán trực tiếp với những người đứng đựu tập đoàn, phối hợp kế hoạch phát triển của hai bên, dành sẩn cho họ những dự án họ sẽ thực hiện, cũng như phải cho phép họ tổ chức điều hành theo mô hình quản lý của từng tập đoàn .

- Cựn học tập kinh nghiệm của các nước trong công tác vận động xúc tiến đựu tư, chẳng hạn, Pháp có Đại sứ lun động chuyên trách về xúc tiến đựu tư nước ngoài, đồng thời mỗi nhà ngoại giao cũng là một " tuyên truyền viên " cho chính sách thu hút đựu tư nước ngoài của họ.

- Để nâng cao hiệu quả của công tác vận động xúc tiến đựu tư cựn tăng cường hơn nữa tính công khai và cung cấp thông tin đáng tin cậy đặc biệt là về lĩnh vực ngân hàng và các doanh nghiệp.

Hiện nay, hơn 160 nước trên thế giới trong đó có nhiều nước kém phát triển hơn Việt Nam thường xuyên công bố các số liệu thống kê cơ bản về kinh tế trên tập san " Thống kê tài chính quốc tế " ra hàng tháng của IMF. Việt Nam chưa cung cấp thông tin cho tập san này. Hơn nữa, Việt Nam cũng là một trong số ít các nước trên thế giới không công bố các số liệu về ngân sách nhà nước. Mặc dù trong những năm gựn đây đã có thêm nhiều số liệu thống kê về các doanh nghiệp nhà nước, nhưng độ t in cậy chưa cao, vì vậy không thể dựa vào những sốliệu này để đánh giá thực trạng kinh doanh, tình hình tài chính của các doanh nghiệp.

Lý do chủ yếu của việc thiếu số liệu tin cậy là hệ thống hạch toán không nhất quán và chưa hoàn chỉnh. Vì vậy, Việt Nam cựn khẩn trương xây dựng một hệ thống kiểm toán độc lập, tin cậy, dựa trên những tiêu chuẩn quốc tế cho khu vực doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng, cung cấp cho Nhà nước những thông tin đáng tin cậy để trên cơ sở đó Nhà nước đưa ra những quyết định về cải cách và chính sách phát triển, cũng như giúp cho các nhà đựu tư trong và ngoài nước đưa ra các quyết định đựu tư.

Hơn nữa, cựn phải tăng cường tính công khai trong quá trình lập dự

thảo ngân sách và trong việc công bố ngân sách nhà nước. Như vậy sẽ góp

77

phần hạn chế rát nhiều tình trạng tham nhũng, làm các nhà đầu tư yên tâm hơn về môi trường đầu tư ở Việt Nam.

- Trước hết, cần phải đổi m ới n h ận thức về v ai trò của công tác quản lý nhà nước hoạt động F D I. Trong công cuộc xây dựng đất nước, trong tình trạng thiếu vốn của nước ta, nguồn vốn F DI có ý nghĩa rất quan trịng. Nhưng bên cạnh những đóng góp tích cực, hoạt động F DI không phải là không có những mặt có tiêu cực. Nếu thiếu sự định hướng, quản lý của nhà nước, hoạt động F DI có thể ảnh hưởng tới độc lập, chủ quyền quốc gia, ảnh hưởng tới nguồn tài nguyên thiên nhiên, tới môi trường, kéo theo những luồng văn hoa độc hại ảnh hưởng tới những truyền thống tốt đẹp của Việt Nam...Vai trò quản lý nhà nước ở đây là giảm thiểu những ảnh hưởng không tốt đó. Bên cạnh đó, quản lý nhà nước còn tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư, giải quyết những vấn đề vướng mắc của hị. Như vậy, quản lý nhà nước nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, hỗ trợ cho các doanh nghiệp có vốn F DI hoạt động có hiệu quả, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Nhưng, trong thực tế, từ trước đến nay, chúng ta chỉ thường chú trịng tới một vai trò của quản lý nhà nước là đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, mà xem nhẹ việc tháo gỡ vướng mắc của các nhà đầu tư, tạo thuận lợi cho hị. Công tác quản lý nhà nước chủ yếu là theo dõi hoạt động FDI, xem nhà đầu tư có vi phạm pháp luật không và xử phạt thế nào. Đây chính là sự lệch lạc trong nhận thức về vai trò của công tác quản lý nhà nước hoạt động F DI mà chúng ta cần kịp thời điều chỉnh. Vì quan hệ hợp tác đầu tư chỉ có thể tồn tại trên cơ sở bình đẳng, đôi bên cùng có lợi.

Chính phủ cần quan tâm, giúp đỡ giải quyết các khó khăn của các nhà

đầu tư trong quá trình hoạt động tại Việt Nam. Cụ thể là:

+ Đặt trịng tâm vào công tác tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các dự án đang triển khai. M u ốn tiếp tục thu hút thêm các dự án F DI mới, thì trước hết chúng ta hãy hỗ trợ các doanh nghiệp đã được cấp giấy phép đầu tư và đang gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh ở Việt nam. Đó chính là biện pháp vận động, xúc tiến đầu tư tốt nhất.

+ Cung cấp những thông tin xác thực giúp các nhà đầu tư nấm bắt nhu cầu thị trường, giải quyết khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm. Chính phủ có thể áp dụng một số điều kiện khuyến khích xuất khẩu hơn nữa cho các doanh nghiệp có vốn FDI.

+ Duy trì thường xuyên việc gặp gỡ, đối thoại với các nhà đầu tư để

kịp thời tháo gỡ những khó khăn, giúp đỡ các doanh nghiệp, thúc đẩy dự án tiến triển. Chính phủ và các Bộ, Ngành phải coi việc hỗ trợ các doanh nghiệp là mục tiêu quan trịng của công tác quản lý Nhà nước của mình.

- Cùng với đổi m ới n h ận thức về vai trò của công tác q u ản lý nhà

nước hoạt động F D I, cần tiếp tục cải tiến biện pháp q u ản lý. Cụ thể là:

78

2.3. Tiếp tục hoàn thiện công tác quản lý nhà nước hoạt động FDI

+ Cần xây dựng một mô hình quản lý gọn nhẹ, tinh giản, với một đội ngũ cán bộ có chuyên m ôn cao, đạt hiệu quả. Phải thực sự giảm biên chế bộ máy quản lý. Như vậy cường độ làm việc tăng, khối lượng công việc nhiều, nhưng trách nhiệm tập trung hơn và tiền lương tăng thoa đáng. Hiện nay, tình trạng tương đối phổ biến là chúng ta giảm biên chế một cách hình thức, vì nể nang nên chở thuyên chuyển công tác là chủ yếu, và không tăng lương hoặc thu nhập cho số người còn lại.Cần nghiên cứu để đề ra mức lương, thưởng, phạt thích đáng cho các cán bộ quản lý, nâng thu nháp cho cán bộ quản lý. Có như vậy mới nâng cao được hiệu quả hoạt động của bộ m áy quản lý, giảm được tệ nạn tham nhũng, hối lộ, sách nhiễu các nhà đầu tư...

+ Công cụ quản lý cần cải tiến. Quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp

nước ngoài là quản lý theo luật. Công cụ quản lý là các chính sách và thường xuyên thay đổi. Cần luật hoa tối đa m ọi chính sách. Bở ivì, hoạt động đầu tư cần sự ổn định và luật có tính ổn định cao hơn chính sách. Luật cũng rõ ràng, minh bạch hơn chính sách. Có luật nhà đầu tư có thể tiên lượng trước được mọi hoạt động của họ .

+ Chở quản lý những vấn đề nào thực sự cần quản lý, còn những gì có

thể để cho doanh nghiệp tự quản được thì nên để doanh nghiệp tự làm.

- C ải tiên công tác t h ẩm định dự án F D I. Chở cần thẩm định những chở tiêu quan trọng, không cần thẩm định nhiều chở tiêu như hiện nay. Thẩm định dự án chở nên chú trọng vào quy mô và hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án, cần giảm bớt những thủ tục mang tính chất can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp nhằm rút ngắn thời gian cấp giấy phép đầu tư. Nên triển khai rộng rãi và thực sự (tránh hình thức chủ nghĩa)việc đãng ký đầu tư đối với một số dự án quy mô nhỏ và đáp ứng đầy đủ các điều kiện. Cải tiến công tác thẩm định chắc chắn sẽ góp phần thiết thực giảm chi phí đầu tư.

- Nên chăng cần xem xét, đánh giá lại việc phân cấp q u ản lý tràn

lan như hiện nay, vì thực tê việc đó đã gáy khó khăn cho doanh nghiệp.

Ưu điểm của việc phân cấp quản lý và cấp giấy phép đẩu tư là phát huy tính chủ động sáng tạo, năng động, kết hợp hài hoa giữa đầu tư nước ngoài và quy hoạch tổng thể của địa phương, tạo nguồn thu ngân sách cho địa phương. Nhưng ngược lại, điều đó lại cũng có thể gây ra nhiều phiền toái, khó khăn, thậm chí nhiều tiêu cực nếu các địa phương được chính phủ phân cấp thực sự không có đủ khả năng thẩm định và cấp giấy phép đầu tư. Bởi vì, với tính phức tạp của các dự án đầu tư nước ngoài, việc tham gia quản lý đòi hỏi năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ địa phương, bộ phận chức năng thẩm định quảnlý dự án mà vốn dĩ ở các địa phương lại rất thiếu, còn nếu bổ sung thêm thì sẽ làm cho bộ m áy hành chính vốn đã cồng kềnh nay càng cồng kềnh hơn. Hơn nữa, việc giao thẩm định cấp giấy phép đầu tư cho U B ND tởnh, thành phố trực thuộc Trung ương sẽ tạo ra sự cạnh tranh giữa các tởnh, thành phố trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài và cũng có thể gây nên sự phân tán, cục bộ. Để tranh giành dự án về phía mình, U B ND tởnh có thể làm ngơ , cho qua, đễ dãi hơn đối với một số vấn đề cần thẩm định,

79

làm ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế - xã hội chung. Vì vậy, không nên phân cấp tràn lan như hiện nay, cần đề ra những yêu cầu cao hơn và cụ thể hơn đối với hân cấp quản lý. Chỉ những địa phương nào đạt được những yêu cầu đó, thửc sử có đủ năng lửc thẩm định và cấp giấy phép đầu tư thì m ới được phân cấp

T i ếp tục thửc hiện cải cách t hủ tục hành chính, đơn giản hoa thủ tục đầu tư, giảm bớt phiền hà qua các khâu t r u ng gian, t hi hành c hế độ " m ột c ử a" có hiệu lửc.

Quy trình làm thủ tục phải được hướng dẫn đầy đủ, rõ ràng, thống

nhất cho cả nhà đầu tư và cán bộ thừa hành. Các thủ tục hải quan, thủ tục xuất nhập khẩu, thủ tục vay vốn ngân hàng...cũng cần được cải tiến theo hướng nhanh gọn, thống nhất, giảm bớt thời gian và chi phí cho các doanh nghiệp trong quá trình hoạt dộng kinh doanh. Điều chỉnh hệ thống giá cả có liên quan nhằm giảm chi phí cho các chủ đầu tư, công khai hoa các loại phí ở từng khâu thủ tục.

Quản lý cần làm sao để xoa tình trạng quan liêu, muốn vậy cần làm

tốt công tác bồi dưỡng và đào tạo cán bộ, thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý, cần xây dựng một đội ngũ cán bộ có chuyên môn giỏi, phẩm chất tốt, do đó, cẩn tinh giảm biên chế thực sự, cải tiến lương, có chế độ thưững phai rõ ràng.

2.4. Bổ sung thêm các chính sách ưu đãi thiết thực đối với các dự án

đầu tư vào những lĩnh vực, ngành, vùng cần ưu tiên thu hút vốn.

Từ trước đến nay, những biện pháp ưu đãi chủ yếu của chúng ta là áp dụng thuế suất thấp, miễn thuế, giảm thuế trong một thời hạn nhất định...Nhưng, các dử án này thường gặp rất nhiều khó khăn, rủi ro, rất ít dử án làm ăn có lãi để được hưởng những ưu đãi này. Do đó, đối với các dử án un tiên, cần xây dửng một hộ thống chính sách tổng thể tạo thuận lợi cho dử án cả trước và sau k hi cấp giấy phép đầu tư. Ngoài việc ưu đãi hơn nữa về thuế nên tập trung vào việc hỗ trợ vốn, hỗ trợ hoạt động xuất nhập khẩu, bảo lãnh rủi ro, giúp xử lý m ối quan hệ với địa phương và người lao động, giảm thiểu tối đa thủ tục hành chính,... có như vậy thì chính sách ưu đãi mới có giá trị thửc hiện.

2.5. Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp

có vốn FDI giảm chi phí đầu tư, làm ăn có lãi.

Quyết định 53/1999/ QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 26/3/ 1999 và Nghị định 24/2000 của Chính phủ có quy định một số chính sách mới áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam, đó là bước đi đầu tiên thửc hiện lộ trình tiến tới tạo dửng một mặt bằng thống nhất giá hàng hoa, dịch vụ đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn F DI theo tinh thần Nghị quyết Trung ương IV. Tuy nhiên, sau bước điều chỉnh nói trên, một số hàng hoa dịch vụ của ta vẫn cao hơn các nước trong khu vửc, vẫn còn khoảng cách

80

giữa giá cả dành cho người trong nước và người nước ngoài. Để cạnh tranh thu hút vốn FDI, Việt Nam cần tiếp tục tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài giảm chi phí đẩu tư. Việc dần dần hủy bỏ chế độ hai giá chắc chắn có tác động tố tới các nhà đầu tư nước ngoài cả về mạt kinh tế lẫn về tâm lý. Biện pháp này sẽ giúp các doanh nghiệp hạ thứp chi phí sản xuứt trực tiếp cũng như gián tiếp. Ngoài ra, việc tạo cơ hội cho nhà đầu tư giảm chi phí đầu tư còn phụ thuộc vào hàng loạt vứn đề khác như cải tiến công tác thẩm định, đơn giản hoa thủ tục hành chính, đẩy mạnh hoạt động tư vứn đầu tư, hoàn thiện hệ thống thuế,...

Thị trường chứng khoán Việt Nam đã đi vào hoạt động, các nhà đầu tư

nước ngoài rứt quan tâm tới sự kiện này. Nhưng, cho đến nay, việc họ tham gia vào " sân chơi " này còn bị hạn chế rứt nhiều và không thực tế.

Do đó,cần gứp rút khắc phục những tồn tại trong môi trường pháp lý,

khẩn trương giải quyết những vứn đề hết sức cứp bách liên quan, chẳng hạn:

- Còn thiếu những quy định làm cơ sở cho nhà đầu tư nước ngoài chuyển nhượng cổ phiếu. Theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 145/1999/QĐ-TTg ngày 28-6-1999 về ban hành quy chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, cổ phiếu do các doanh nghiệp Việt Nam phát hành và bán cho nhà đầu tư nước ngoài phải là cổ phiếu ghi danh do Bộ tài chính in và quản lý. Quy định này làm hạn chế khả năng chuyển nhượng cổ phiếu loại này, và do đó làm giảm tính hứp dẫn của nó đối với nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, cần nghiên cứu để tìm cách xoa bỏ hạn chế này.

- Trong khi luật đầu tư nước ngoài cho phép đầu tư 1 0 0% ( doanh nghiệp 1 0 0% vốn nước ngoài ) thì các văn bản pháp lý về chứng khoán chỉ cho phép người nước ngoài sở hữu chứng khoán đến một tỷ lệ phần trăm nhứt định. Hơn nữa, quy định về tỷ lệ cổ phần được phép bán cho nhà đẩu tư nước ngoài cũng chưa rõ ràng. Theo quyết định 145/1999/ QĐ-TTg, tổng giá trị cổ phiếu được bán cho tứt cả các nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 3 0% vốn điều lệ của công ty, nhưng không quy định cụ thể tỷ lệ phần trăm tối đa số cổ phần mà một tổ chức nước ngoài hay một cá nhân nước ngoài được phép nắm giữ. Theo quyết định 139/1999/QĐ-TTg ngày 10-6-1999 về tỷ lệ tham gia của bèn nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam ban hành trước quyết định 145/1999/ QĐ-TTg các tổ chức cá nhân nước ngoài có thể nắm g iữ tối đa 2 0% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức phát hành hoặc 2 0% chứng chỉ đầu tư đang lưu hành của một quỹ đầu tư chứng khoán. M ột tổ chức nước ngoài chỉ được nắm tối đa 7% cổ phiếu đã phát hành, một cá nhân nước ngoài được phép nắm t ối đa 3% cổ phiếu đã phát hành. Tổ chức, cá nhân nước ngoài có thể nắm g iữ tối đa 4 0% tổng số trái phiếu đang lưu hành của một nhà phát hành, một tổ chức nước ngoài có thể nắm g iữ tối đa 1 0 %, một cá nhân nước ngoài được nắm g iữ tối đa 5%. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài vào một công ty chứng khoán t ối đa là 3 0 %. Vứn đề cần được giải đáp là:

81

2.6. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đấu tư thành lập công ty cổ phần và tham gia vào thị trường chứng khoán.

. K hi mua bán cổ phiếu theo quyết định 145/1999/ QĐ-TTg, văn bản được ban hành sau thì các nhà đầu tư nước ngoài có còn bị ràng buộc bởi các hạn chế về tỷ lệ theo quyết định 139/1999/QĐ-TTg không?

. Hạn chế nào được áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài trong trường hợp 3 0% vốn điều lệ của công ty cổ phần lớn hơn 2 0% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của công ty đó?

Áp dụng quy trình cổ phần hoa, vốn từ trước đến nay chữ coi là áp dụng riêng cho các doanh nghiệp Nhà nước, cho các doanh nghiệp có vốn rói?

Hiện nay, các doanh nghiệp có vốn F DI được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, và không được phép phát hành cổ phiếu. M ột công ty muốn được niêm yết trên thị trường chứng khoán cần phải có cổ phần. Vì vậy, bước " cổ phần hoa " này chính là một trong những viên đá đặt nền móng cho việc niêm yết của doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán. Bước sơ khởi là bán cổ phần trong một doanh nghiệp có vốn FDI, thực chất là chuyển nhượng vốn, và theo quy định hiện nay của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là cần có sự chấp thuận của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư nước ngoài để cho phép các doanh nghiệp có vốn F DI được phát hành cổ phiếu và bán những cổ phiếu đó mà không cần sự chấp thuận của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Giải pháp này phù hợp với lợi ích của cả hai bên, bởi vì:

Nếu Nhà nước muốn huy động vốn từ dân chúng để đầu tư vào các lĩnh vực cần thiết khác thì Nhà nước có thể xem xét việc bán quyến sở hữu của mình không chữ trong các doanh nghiệp nhà nước, mà cả trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nữa. Trên thực tế thì có lẽ phần vốn của Nhà nước trong các liên doanh sẽ dễ bán hơn là vốn Nhà nước trong doanh nghiệp nhà nước.

Bởi vì, hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện chế độ kế toán và quản lý theo thông lệ quốc tế. Những doanh nghiệp này luôn có các báo cáo tài chính đã được kiểm toán để m ọi người có thể kiểm tra. Do đó, các nhà đầu tư tin tưởng những doanh nghiệp này và có thể sẽ mua cổ phần của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đối với doanh nghiệp nhà nước, người ta phải mua cổ phần mới thay đổi được cơ chế quản lý, còn với doanh nghiệp F DI thì có thể mua một doanh nghiệp đã có sẩn cơ chế quản lý tốt rồi. Các doanh nghiệp có vốn F DI đang hoạt động theo cách thức của nền kinh tế thị trường, trong khi nhiều doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa quen với cơ chế này. Hơn nữa, một vấn đề lớn trong quá trình cổ phần hoa doanh nghiệp Nhà nước là Nhà nước phải hỗ trợ công nhân viên mua cổ phần, trong trường hợp cổ phần hoa doanh nghiệp có vốn F DI thì vấn đề này sẽ dễ giải quyết hơn vì người lao động trong các doanh nghiệp có vốn F DI thường có thu nhập cao hơn nên có khả năng mua cổ phần. Các bên trongliên doanh sẽ thu hồi được vốn của mình sớm hơn dự kiến. Đây sẽ là một cách

82

giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài thu hồi vốn nhanh mà không cần phải đợi đến k hi dự án bắt đầu có lãi. Mặt khác, áp dụng quy trình cổ phần hoa cho các doanh nghiệp có vốn F DI còn tạo cơ hội cho người lao động trong doanh nghiệp trở thành chữ doanh nghiệp, tạo động lực để họ làm việc tích cực hơn và được hưởng những thành quả cữa mình k hi giá cổ phiếu tăng lên.

2.7. Chú trọng hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực.

Cần chú trọng hơn nữa tới công tác đào tạo con người, xây dựng một đội ngũ cán bộ, công nhân có trình độ chuyên m ôn cao, năng lực quản lý vững, và có khả năng tiếp thu công nghệ hiện đại. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong các công việc cần làm để cải thiện môi trường đầu tư ở nước ta. Không những vì yếu tố con người luôn giữ vai trò quyết định, mà còn vì từ nay về sau các nhà đầu tư sẽ không chú trọng nhiều đến lợi thế về nhân lực dồi dào và giá rẻ bằng lợi thế về chất lượng nhân lực. Hơn nữa, từ nhiều năm nay, các nước trong khu vực như Malayxia, Thái Lan, ... đều đã có chiến lược đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, dành một phần ngân sách lớn hơn đầu tư cho giáo dục, do đó, trình độ lao động cữa họ được nâng cao rất nhiều. Nếu chúng ta vẫn giữ nguyên trình độ lao động yếu kém như hiện nay thì sức cạnh tranh thu hút đầu tư sẽ giảm đi đáng kể. Chúng ta cần đầu tư nhiều công sức và tiền cữa hơn cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo nhân lực nói chung và cho lĩnh vực thu hút, sử dụng vốn F DI nói riêng. Cụ thể là:

Dành một khoản ngân sách lớn hơn cho đầu tư phát triển các trường dạy nghề. Có thể nói, ở Việt Nam hiện nay, tình trạng " ít thợ nhiều thầy " khá trầm trọng. Chúng ta phải khẩn trương đào tạo một đội ngũ thợ lành nghề, đáp ứng được yêu cầu cữa nhà đẩu tư.

Có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư trong, ngoài nước đầu tư vào các dự án xây dựng mới, hoặc nâng cấp các trường dạy nghề. Phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo cữa hệ thống các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề để tăng nhanh đội ngũ công nhân lành nghề.

Phát triển và thể chế hoa các trung tâm giới thiệu việc làm. Các trung tâm này sẽ giúp nghiên cứu nhu cầu đa dạng cữa thị trường lao động để từ đó hướng dẫn cho các cơ sở đào tạo nghề có định hướng đúng.

Định hướng đào tạo nhân lực phù hợp với thực tế, theo nhu cầu thị trường, tránh tình trạng quá thừa hoặc quá thiếu trong một số ngành như hiện nay.

Các khu chế xuất, khu công nghiệp lớn cũng cần có trường đào tạo công nhân chuyên ngành để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng nhân công cữa các doanh nghiệp hoạt động tại đây.

Nên xây dựng một phương án tiền lương hợp lý vừa đảm bảo tiền

lương thực tế cho người lao động, vừa đảm bảo quyền lợi cho liên doanh, và có tác dụng khuyến khích người lao động tự bồi dưỡng nâng cao trình độ.

83

Cần đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ làm việc trong các lĩnh

vực liên quan tới hoạt động F DI theo hướng:

+ Nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, kiến thức về luật pháp.

+Thi tuyển cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực đảm nhiệm những chức vụ quan trọng trong liên doanh. Chấm dứt tình trạng bên Việt Nam hử có đất là mặc nhiên được cử người của mình vào H ội đồng quản trị hoặc Ban giám đốc mà không xét kỹ tới trình độ chuyên môn, hoặc việc cử người để giải quyết chế độ.

+ Bộ giáo dục và đào tạo cần nghiên cứu và triển khai chương trình đào tạo chính quy cán bộ có trình độ đại học và trên đại học chuyên ngành đầu tư nước ngoài. Hiện nay, trong một số trường đại học cũng đã bắt đầu xây dựng bộ m ôn đầu tư (như K i nh tế đầu tư của Trường Đại học kinh tế quốc dân Hà nội, Bộ m ôn Đầu tư và Chuyển giao công nghệ của Trường Đại học Ngoại thương...w) và các m ôn học về đầu tư nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng, nhưng phần lớn là xuất phát từ nhu cầu thực tiửn và sáng kiến của các cơ sở đào tạo, còn hầu như không có một chiến lược cụ thể và sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chính vì vậy, hiện tượng tự phát, lộn xộn và chạy đua đã xảy ra và phần nào đã làm cho chất lượng đào tạo giảm đi. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có chương trình đào tạo với các phương án đầu tư trọng điểm cho một trường Đại học nào đó có khả năng và kinh nghiệm chịu trách nhiệm xây dựng chương trình đào tạo cử nhân trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài và thực hiện chương trình đó. Trước mắt, Bộ Giáo dục và Đào tạo nên bổ sung thêm mã ngành và chuyên ngành : Đầu tư nước ngoài trong hệ thống mã ngành, chuyên ngành đào tạo đại học, trên đại học.

Trên đây là một số các giải pháp chủ yếu, theo chúng tôi gồm các giải pháp có tính chung, bao trùm, lâu dài và các giải pháp cụ thể cần thực hiện trong thời gian trước mắt nhằm khác phục tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng, cũng như hậu quả của nó đối với F DI ở Việt nam, để tiếp tục tăng cường thu hút F DI trong những năm tới. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện có thể trong cùng một lúc tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, nhưng cần tập trung dứt điểm các giải pháp đang làm cản trở hoạt động kinh doanh hợp pháp của các doanh nghiệp FDI, như thủ tục hành chính còn phức tạp, hệ thống thủ tục còn chồng chéo các quy định còn thiếu thống nhất, m âu thuẫn và khó thực hiện, trên cơ sở đó từng bước tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp cơ bản, bao trùm.

84

K€TLUẬN

Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Đông Á đã qua đi và tưởng chừng ảnh hưởng không nhiều tới nền k i nh tế nước ta. Nhưng thực tế qua nghiên cứu của chúng tôi, không phải hoàn toàn như vậy, mà cuộc khủng hoảng này đã tác động sâu sắc đến đới sóng k i nh tế toàn cầu, trong đó có V i ệt nam. Đối với V i ệt nam, tuy mức độ không dữ dội, nhưng hậu quả và dư âm của nó kéo quá dài và những lĩnh vực tác động lớn nhất là lĩnh vực xuất nhập khỉu, lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài và lĩnh vực tài chính - tiền tệ.

K hi tập trung nghiên cứu tác động của cuộc khủng hoảng tới F D I,

chúng tôi thấy trong n ăm 1997, vốn F DI đăng ký đã giảm ngay 4 8% so với n ăm 1996 và các n ăm sau này thì cứ n ăm sau lại giảm nhiều so với n ăm trước. Trong n ăm 2000, mặc dù cuộc khủng hoảng tưởng chừng đã đi qua, nhưng chỉ bằng khoảng 2 5% của n ăm 1996.

Ngoài ra, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ k hu vực, hàng trăm doanh nghiệp F DI đã phải dãn hoặc lùi tiên độ triển khai thực hiện, nhiều doanh nghiệp sản xuất k i nh doanh cầm chừng và làm ăn thua lỗ nặng, dẫn tới phá sản. K ết quả là hàng ngàn người lao động đã mất việc làm bổ sung vào đội ngũ khoảng Ì triệu người thất nghiệp trong quá trình cải tổ doanh nghiêp nhà nước đã gây áp lực nặng nề cho chương trình giải quyết việc làm cùa Nhà nước.

N hư vậy, tác động của cuộc khủng hoảng là thực sự nghiêm trọng và có thực.Khi chúng ta đã nhận thức đúng đắn và khách quan tác động nhiều chiều của cuộc khủng hoảng, trên cơ sở phân tích khoa học những nguyên nhân và thực trạng và tham khảo k i nh nghiệm của các nước nhằm đưa ra các giải pháp hữu hiệu, thì sẽ hạn chế tối đa những tác hại của khủng hoảng.

Tuy nhiên, tình trạng suy giảm F DI hiện nay ở V i ệt nam thì cuộc

khủng hoảng tài chính - tiền tệ k hu vực Đông Á cũng chỉ là m ột trong nhiều nguyên nhân. Trong số các nguyên nhân chủ yếu phải kể tới môi trường đầu tư của V i ệt nam ngày càng trở nên k ém hấp dẫn so với các nước trong k hu vực. Trong k hi các nước qua cuộc khủng hoảng vừa qua đã rút ra được cho mình bài học và bằng m ọi cách cải thiện môi trường đầu ta để tăng cường thu hút F D I, thì môi trường đầu tư của nước dường như không khá hơn trước là bao, đầu tư vào V i ệt nam còn nhiều rủi ro, còn những cái l ợi có thể t hu được m ới chỉ trên giấy. Cho nên, để tiếp tục tăng cường thu hút F DI trong những n ăm đầu t hế kỹ 21 thì chúng ta phải đồng thời áp dụng đồng bộ các giải pháp, giải pháp chiến lược lâu dài cũng như các giải pháp cấp bách. Có như vậy, môi trường đầu tư ở V i ệt nam m ới thực sự được cải thiện và chúng ta m ới có thể vươn lên trong cuộc cạnh tranh với các nước k hu vực nhằm thu hút nhiều hơn nữa, hiệu quả hơn nữa nguồn v ốn FDI.

85

PHÂN PHỤ LỤC

Phụ lục la: Diễn biến cuộc khủng hoảng châu Á

Năm 1997 đánh dấu một năm đầy biến động trên thị trường Tài chính thế giới, đặc biệt là khu vực Đông Bắc á với những cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng bắt đầu tậ Thái Lan, sau đó lan sang các nước ASEAN, rồi đến Hàn Quốc, Nhật Bản.

(Những nét chính của bức tranh về khủng hoảng tài chính-tiền tệ từ ngày 2/7/1997 đến đầu tháng 7 năm 1998)

NĂM 1997

2/7: Sau khi tung ra gần 24 tỷ USD để giữ giá đồng Baht nhưng không thành công, Ngân hàng trung ương Thái Lan buộc phải tuyên bố thả nổi đồng Baht, mở đầu cho cuộc khủng hoảng tài chính châu á.

Đồng Baht lập tức mất giá trên 2 0% (tậ 24,25 Baht/1 USD còn 29,5 Bahĩ/USD)

11/7 Phillipines tuyên bố thả nổi đồng Peso.

26/7 Thủ tướng Malaysia lên án những kẻ đầu cơ tiền tệ lợi dụng "tự do

buôn bán" làm vũ khí chính trị chống lại nước nghèo, đồng thời chỉ đích danh George Soros là người chịu trách nhiệm về sự sụt giá của đồng Riggit (Cho tới 15/7 Ngân hàng trung ương Malaysia đã phải tung ra 3,4 tỷ USD để cứu trợ đồng Riggit, làm cho dự trữ ngoại tệ nước này giảm 12%, còn 34 tỷ USD).

5/8 Tiếp theo việc đóng cửa 16 công ty tài chính vào ngày 27/6, Ngân hàng

trung ương Thái Lan tạm ngậng hoạt động của 42 công ty tài chính, đưa tổng số công ty đóng cửa lên 58/90, với tổng số tài sản nợ 1391 tỷ Baht.

11/8 H ội nghị đạc biệt ở Tokyo của I MF chủ trì đưa ra chương trình viện trợ cả gói cho Thái Lan là 17,2 tỷ USD, kèm theo các điều kiện ngặt nghèo.

Cùng ngày, Malaysia tuyên bố không can thiệp vào thị trường ngoại hối.

14/8 Indonesia tuyên bố thả nổi đồng Rupiah sau k hi Ngân hàng trung ương đã chi 1,5 tỷ USD để can thiệp vào thị trường, mở rộng biên độ giao dịch tậ 8% lên 1 2% nhưng không khắc phục được tình hình.

19/8 Singapore tuyên bố không can thiệp vào thị trường ngoại hối.

19/9 Bộ trưởng Tài chính Phillipines được các nước châu á uy quyền đứng ra đề nghị thành lập Quỹ hỗ trợ Tài chính khu vực châu Á (quy mô 100 tỷ USD) theo sáng kiến của Nhật Bản.

23/10 Thị trường chứng khoán Hongkong sụt 10,4% (1211,47 điểm) mở đừu

đạt khủng hoảng tài chính tiền tệ toàn cừu.

27/10 Lừn đừu tiên kể từ năm 1987, Thị trường chứng khoán Mỹ đã phải

đóng cửa nửa giờ sau khi giá cổ phiếu giảm 350 điểm.

28/10 Sở Giao dịch chứng khoán Toronto ngừng giao dịch 30' khi chỉ số

T S E g i ả m 5 %.

29/10 Phó Thủ tướng Thái Lan Viraphoong kêu gọi chấm dứt phê phán Thái Lan là nguyên nhân gây khủng hoảng kinh tế và hợp tác để giải quyết khủng hoảng.

31/10 I MF công bố khoản viện trợ cả gói 43 tỷ USD cho Indonesia sau khi Chính phủ Indonesia công bố các biện pháp cải cách kinh tế trong 3 năm tới theo thoa thuận với I MF (tiết kiệm chi tiêu, xóa bỏ độc quyền, xoa bỏ bảo hộ mậu dịch...)

3/11 Thủ tướng Thái Lan Chavalit tuyên bố từ chức.

9/11 Quốc vương Thái Lan ký sắc lệnh bổ nhiệm ông Xuôn Lịch Phai làm

thủ tướng thứ 23 của Thái Lan.

17/11 Đồ ng Won Hàn Quốc giảm giá mạnh, vượt qua mức tâm lý 1000

Won/Ì[ USD, đạt 1008,6 Won/l USD. '

21/11 Bộ trưởng Tài chính Hàn Quốc thông báo Chính phủ Hàn Quốc chính

thức đề nghị I MF hỗ trợ.

24/11 Yamaichi-1 trong 4 công ty chứng khoán lớn nhất Nhật Bản tuyên bố phá sản, kết thúc 100 năm tồn tại, để lại khoản nợ không có khả năng thanh toán lên tới 3000 tỷ Yên (25 tỷ USD). Đây là vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử Nhật Bản.

3/12 I MF đã công bố khoản hỗ trợ tài chính cả gói 57 tỷ USD cho Hàn

Quốc sau một tuừn đàm phán căng thẳng.

23/12 Đồng Won giảm xuống mức kỷ lục: 1926 Won/l USD do có tin Hàn Quốc nợ tới 220 tỷ USD. I MF và G7 quyết định giải ngân khẩn cấp cho Hàn Quốc 10 tỷ USD.

NĂM 1998

5/1 Mở đừu chiến dịch quyên góp vàng để khắc phục khủng hoảng của Hàn Quốc. Chiến dịch này được nhân dân Hàn Quốc hưởng ứng mạnh mẽ (đến giữa tháng 3 đã quyên góp được 225 tấn xuất khẩu 196,3 tấn, thu 1,82 tỷ USD).

8/1 Đồng Rupiah của Indonesia lần đầu tiên đã vượt trên mức tâm lý (10.000

Rupiah/1 USD) lên 10.225 Rupiah/1 USD. Sau đó hàng loạt các đồng tiền khác trong khu vực đều bị mất giá ở mức kỷ lục mới. 2/2 Chính phủ Trung Quốc ra thông báo không phá giá đồng NDT.

11/2 Bộ trưởng Tài chính Indonesia thông báo Indonesia sẽ sớm thiết lập chế

độ bằn vị tiền tệ (CBS), theo đó tỷ giá Rupiah sẽ được công bố so với USD (giằi pháp ÌMF plus)

15/2 Hội nghị hàng năm lần thứ 33 các Thống đốc Ngân hàng TW ASEAN quyết định thành lập đội đặc nhiệm tiền tệ ASEAn nhằm nghiên cứu kỹ thuật cho việc áp dụng chế độ đồng tiền chung ASEAN.

6/4 IMF cho rằng thời điểm tồi tệ nhất của khủng hoằng kinh tế ở châu Á đã qua.

8/4 Cuộc đàm phán hơn 3 tuần giữa IMF và Indonesia đã kết thúc và đạt được thoa thuận về các chương trình cằi cách kinh tế của nước này.

5/5 Indonesia tăng giá xăng lên 71,43%, dầu hoa 25%, điện dân dụng 60%, cước phí vận chuyển 50%,... gây bất bình lớn trong xã hội (Việc tăng giá này nằm trong khuôn khổ thoa thuận với IMF ngày 15/1/1998 nhằm từng bước xoa bỏ bao cấp về giá).

25/5 Giá đồng Yên/USD trên thị trường Nhật Bằn đã giằm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 8/1991- 137,07 Yên/1 USD. Báo hiệu nguy cơ khủng hoằng vòng 2 của khu vực.

1/6 Tỷ giá Yên/ƯSD đã lên đến 138,9 Yên/1 USD, gần đạt mức kỷ lục 139,82 Yên/1 USD vào ngày 26/4/1991.

3/6 Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân tái khẳng định Trung Quốc không phá giá đồng NDT.

7/6 Giá đồng Yên trên thị trường New York tiếp tục giằm ỏ mức kỷ lục mới- 140,13 Yên/Ì USD.

9/6 Bộ trưởng cao cấp Lý Quang Diệu cho rằng việc đồng Yên tiếp tục mất giá sẽ gây sức ép phá giá đồng NDT. Tuy nhiên ông tin rằng Trung Quốc sẽ làm tất cằ để bằo vệ đồng NDT và họ có thể bằo vệ được ít nhất trong một năm.

12/6 Chỉ số Hang Seng của TTCK Hongkong giằm 5% xuống dưới mức tâm lý 8.000 điểm, còn 7.979,37 điểm- đây là mức thấp nhất trong vòng 3 năm qua. Tại Đài Loan, chỉ số giá chứng khoán cũng giằm 3% xuồng mức thấp nhất trong 7 năm qua, trên thị trường tiền tệ mức giá đạt 34 896 TWD/1 USD- mức thấp nhất trong 11 năm qua, chỉ số giá chứng khoán giằm còn khoằng 300 điểm. 13/6 Cục quằn lý ngoại hối Trung Quốc công bố dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc đã lên tới 140,91 tỷ USD, tăng Ì tỷ USD so với đầu năm.

Đồng Yên Nhật đậ giảm còn 144,75 Yên/1 USD, mức thấp nhất kể từ tháng 8 năm 1990.

15/6 Đồng Yên Nhật đã mất giá gần tới điểm tâm lý 150 Yên/ Ì USD và đạt 146,55 Yên/1 USD gây ra sự lo sợ trên toàn cầu, và kéo theo sự mất giá của hầu hết các đồng tiền trong khu vực so với đồng USD. Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ đã khẩn cấp chỉ thặ cho các ngành liên quan và các chuyên gia kinh tế nhanh chóng vạch ra phương pháp đối phó với tình huống khi đồng Yên xuống dưới mức 150 Yên/1 USD.

Các bộ trưởng tài chính EU đã ra tuyên bố đặc biệt yêu cầu Nhật Bản củng cố hệ thống tiền tệ. 17/6 Mỹ vào cuộc. Lần đầu tiên sau 7 năm, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED)

đã phối hợp với Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) cứu trợ đồng Yên bằng cách cùng bỏ ra 2 tỷ USD. Theo AKP, sự phối hợp can thiệp "đáng kinh ngạc" của Mỹ và Nhật đã gây "sửng sốt" trên các thặ trường làm cho giá đồng Yên lập tức được khôi phục ở mức 136,2 Yên/1 USD. Dư luân thê giới rất hân hoan trước sự kiện này. Tâm lý lo sợ về cuộc khủng hoảng vòng 2 được giải toa.

20/6 Hội nghặ các Thứ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước nhóm G7 và li nước châu á Thái Bình Dương tại Tokyo thảo luận về việc ổn đặnh đồng Yên, ngăn chặn cuộc khủng hoảng tiền tệ lần thứ hai tại khu vực và tìm cách khôi phục nền kinh tế Nhật Bản đang suy thoái chưa từng có trong 23 năm. Hội nghặ ra tuyên bố 9 điểm, trong đó hoan nghênh sự phối hợp Nhật- Mỹ can thiệp vào thặ trường để hỗ trợ đồng Yên, hoan nghênh Trung Quốc cam kết tiếp tục duy trì tỷ giá đồng NDT, kêu gọi Nhạt Bản sớm điều chỉnh hệ thống tiền tệ, giải quyết các khoản nợ khó đòi và cải cách kinh tế của Indonesia nhằm ổn đặnh tình hình. 22/6 Phái đoàn IMF do Tổng Giám đốc điểu hành, ông Rscher dẫn đầu tới

Mátxcơva đàm phán về việc cho Nga vay 10-15 tỷ USD để ổn đặnh đồng Rúp, tránh sự sụp đổ tài chính ỏ Nga. Chính phủ Nhật Bản quyết đặnh thành lập Cục giám sát tài chính với khoảng 400 nhân viên dể tham gia các ngân hàng và đánh giá lại các khoản nợ khó đòi trong khu vực ngân hàng đang gặp khó khăn. (Theo ước tính, tổng số nợ khó đòi của tất cả các Ngân hàng có thể lên tới 100 nghìn tỷ Yên, riêng 18 ngân hàng lớn nhất của Nhật Bản thừa nhận đang đối đầu với tổng số nợ khó đòi là 21,7 nghìn tỷ Yên (164 tỷ USD). Đây là nguyên nhân chính gây ra sự suy thoái kinh tế ở nước này. 23/6 Thủ tướng Nga công bố chương trình ngăn chặn khủng hoảng, trong đó tăng thu 20 tỷ Rúp (3,2 tỷ USD); giảm chi 42 tỷ Rúp; cải cách thuế, giải quyết nợ lương 66, 6 tỷ Rúp (6,8 tỷ USD) và vay IMF 10-15 tỷ USD.

25/6 Indonesia đã đạt được thoa thuận mới với IMF về việc tiếp tục giải ngân

thêm Ì tỷ USD trong tổng số tiền cứu trợ cả gói 43 tỷ USD cho nước này. Đây là thoa thuận thứ tư giữa 2 bên kể từ tháng 10/1997. Việc giải ngân số tiền trên sẽ được coi là dấu hiệu về sự công nhận cộa IMF đối với Chính phộ Habibie. 29/6 Ngân hàng thế giới (WB) và Chính phộ Anh đã ký thoa thuận thành lập

Quỹ tín dụng ASEM (được khởi xướng tại Hội nghị thượng đỉnh Á Âu- ASEM-II hồi đầu tháng 4) để khắc phục hậu quả khộng hoảng. Dự kiến số vốn ban đầu cộa quỹ khoảng 35-40 tỷ USD.

30/6 Nhật Bản và 6 nước châu Á tuyên bố dự định thành lập cơ chê giám sát khu vực.

1/7 Người đứng đầu Quỹ tiền tệ quôc tế, ông Camdessus kêu gọi các nước đóng góp tài chính vì tổ chức này sắp cạn kiệt tiền do hỗ trợ các nước châu Á bị khộng hoảng.

2/7 Chính phộ Nhật Bản chính thức thông qua kế hoạch thành lập hệ thống ngân hàng cầu nối (theo Mô hình Mỹ) để giải quyết các khoản nợ khó đòi cộa các tổ chức tiền tệ đã bị phá sản (như thành toán nợ, giải quyết quyền lợi cộa những người gửi tiền, tiếp tục các dự án đầu tư và cho vay), quyết định này được dư luận hoan nghênh và ộng hộ.

Phụ lục lb : Chi phí đầu tư tại các thành phô lớn ở Châu Á

tháng 12/1999

Singa

Manila

Bang

Jarkata

TP

Hànội

Kuala lumper

Thượng hải

pore

kok

H CM

Đơn vị: USD

228 248 468 176 329 64 94 113 Lương công nhân 668 190 334 447 1.313 378 251 221 Lương kỹ sư

488 2.133 727 1.407 723 620 511 453 Lương quản lý trung cấp 24 42 13 17 16 19 28 23 Phí thuê văn phòng/tháng

2.000 1.970 1.850 1.800 1.500 2.285 1.420 920

Phí thuê nhà cho đại diện nước ngoài/tháng

8,52 8,52 4,3 2,23 3,11 2,61 2,59 3,78

Phí điện thoại quốc tế (3 phút gọi sang Nhật)

0,07 0,07 0,035 0,05 0,03 0,06 0,0177 0,09 Tiền điện dùng cho kinh doanh /Kwh

670 1.815 1.375 880 1.466 895 1.252 994

Vận chuyển container 40 ít (tờ nhà máy đến cảng gần nhất ở Nhật - cảng Yocohama)

0,74 0,34 0,29 0,138 0,35 0,31 0,31 0,3 Giá xăng dầu thông dụng/ Hít

Ghi chú: Lương bao g ồm tiền thưởng, trợ cấp, trợ thuế, ...w (theo tháng) và thuê nhà cho đại diện người nước ngoài: căn hộ trung bình, diện tích 100m2

Nguồn: Điều tra của Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật bản JETRO tháng 12/1999

5 0% 5 0% 3 7% 4 5% 2 9% 2 9% 3 0% 3 3% Thuế thu nhập cá nhân (mức cao nhất)

ã I

eo ị

!S 8 § R 8 *

ã 3-

ã

^ ị 2

I

2

Ị < p 9 co; Q

" co z5

m a N

SE- > n ê b

a ủ c

> £ = •£• -5 s.

ũ 5-

n ê l i h c ư h t

p ó g

'Q.S ra 1

ro -cụ "3 '2. 'O

-c o

OI >

n ẩ h P

lo to

n ố v co IZ o

LO

Li

3 0 0 /

3 . 0 1

o CSI

0 0 6 4

7 7 5 2

8 9 3 3

0 0 0 2 2 3

5^

ÔN TH

I

ó

8 9 9 1

2 8 9 1

3 . 3 2

3 2 8 3

co

8 6 6 2

7 9 9 1

oi

0 9 7 1

2 . 3 2

lo co

5 0 6 3

0 9 8 2

1 9« ÔN I-Í

0 0 0 0 7 2 0 0 0 0 5 2

3- õ -ã

co co

6 9 9 1

3 8 5 2

7 . 1 2

2 4 0 2

co CÓ Cvl

in ai

5 9 9 1

co CÓ

2 7 8 1

8 o 6 4 •>*• •q- 1

"I 5-

4 9 9 1

co oi

CM LÕ èo

CSI ìn oi

o o co

I € 'ã "So E 3 z

ế

3 9 9 1

co CÓ

ơi "ã-

r-- in oi

<4>. . — tì ta

CM

CM

2 9 9 1

co o CM

Ó)

1 9 9 1

CSl in

> 3 Ặ I

0 9 - 8 8

M c ca-

i

Ã

©**

ó**

ờ ư g N

D S U u ệ i r T

D S U u ệ i r T

D S U u ệ i r T

D S U u ệ i r T

h n í t ị v n ơ Đ

i

ố é

co

p ệ h g n

g n ô c

g n ở ư

u h t

P D G p ó g g n ó đ ệ

u ẩ h k p ậ h n h c ạ g n

i

i

u ẩ h k t ấ u x h c ạ g n m K

h n a o D

l ỷ T

m K

c ớ ư n à h n h c á s n â g n p ộ N

g n u d ử s g n ô đ o a l ố S

r t g n ă t ộ đ c ố T

co

CSI

m

co

TÀI Liệu THAM KHẢO

1. Đông Á: Từ thần kỳ tời khủng hoảng - những bài học có ích cho Việt nam, Edouard Answer Wattez, Báo cáo chuyên đề của nhân viên UNDP, Hà nội tháng 6/1998.

2. TS Lê Đăng Doanh, "Khủng hoảng tài chính khu vực Đông nam Á và tác

động của nó đến V i ệt nam". H ội thảo về "Khủng hoảng tài chính khu vực

Đông Nam Á và bài học đối với V i ệt nam"

3. GS.TS Tào Hữu Phùng,, "Khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở châu Á và một số giải pháp đối v ới V i ệt nam", Tạp chí Cộng sản, số 3, tháng 2/1998

4. GS.TS Tào H ữu Phùng," Khủng hoảng tiền tệ Thái lan và ảnh hưởng đến các nước trong k hu vực". Tạp chí Nghiên cụu kinh tế, sô 233, tháng 10/1997.

5. TS Caroly L. Gates, "Khủng hoảng kinh tế và tài chính Đông á: diễn biến

và giải pháp". H ội thảo về "Khủng hoảng tài chính k hu vực Đông Á và bài học đối với V i ệt nam".

6. Vũ Chí Lộc. Giáo trình Đầu tư nước ngoài, N hà xuất bản Giáo dục, Hà

Nội, 1998!

7. Vũ Chí Lộc. Giáo trình Chuyển Giao công nghệ, Trường Đại học Ngoại

thương, 1998.

8. GS.TS Nguyễn Mại. Cuộc khủng hoảng tiền tệ ở châu Á và bài học đối

với V i ệt nam.

9. PTS Nguyễn M i nh Tú, "Những tác động của khủng hoảng tài chính k hu vực đối với ASEAN/AFTA". H ội thảo về "Khủng hoảng tài chính k hu

vực Đông nam Á và bài học đối với V i ệt nam".

10. Báo cáo của Bộ tài chính về khủng hoảng tiền tệ ở một số nước châu Á,

tác động của nó đến Việt nam và những giải pháp.

11. Báo cáo của Ban cán sự Đả ng Ngân hàng Nhà nước V i ệt nam về khủng

hoảng tiền tệ châu Á, ảnh hưởng và giải pháp khắc phục.

12. Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Á và đối sách của chúng ta. Đề tài

khoa học cấp bộ. Bộ kế hoạch và đầu tư, V i ện chiến lược phát triển. Hà Nội, tháng 4/1999.

13. Khủng hoảng tài chính - tiền tệ Đông Á: nguyên nhân và những bài học.

Báo cáo chuyên đề của V i ện kinh tế học, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn.

14. Trương Thái Phương, Một số vấn đề về quản lý nợ nước ngoài ở Việt nam. Tạp chí Ngàn hàng, số 15/1999.

15. "Thực trạng viện trợ 1998-1999". NXB Chính trị Quốc gia, 1999.

16. "Khắc phục nguy cơ tụt hâu xa hơn". Thời báo Kinh tế, số 104, ngày 30/8/200(1

17. "Nặng nợ nước ngoài phải trả". Thời báo Kinh tế Việt nam, số 123, ngày 13/10/2000.

18. Bùi Trường Giang, "Nguy cơ suy thoái toàn cầu". Nhủng vấn đề kinh tế thế giới, so 5 (55), tháng 10/1998.

19. Nguyễn Bình Giang, "Vì sao Đài loan, Hồng công và Xingapo ít bị khủng hoảng tài chính". Nhủng vấn đề kinh tê thế giới, số 5(55), tháng 10/1998.

20. PTS Nguyễn Xuân Thắng. Phục hồi và triển vọng kinh tế ASEAN. Nhân dân, ngày 13/10/1999.

21. Chính sách ổn định và phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực. Báo cáo của Chính phủ CHXHCN Việt nam tại Hội nghị tư vấn, Paris, 7-8 năm 1998.

22. TS Lê Văn Châu. Thăng trầm tiền tệ thế giới: nhủng động cơ ẩn giấu. Nhân dân, ngày 9/12/1999.

23. Kinh tế các nước ASEAN năm 1999 và triển vọng năm 2000. Báo cáo kinh tế số 003/1999/DBKT/CLNH của Ngân hàng Nhà nước Việt nam, tháng 12/1999.

24. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 2000. Nhà xuất bản Thống kê, Hà nội,2000.

25. Nghị Định SỐ: 24 / 2000/ NĐ-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam.

26. The Intemational Financial Crisis, Interview with George Soros New York: Public Affairs, 1998.

27. Robert Wade and Frank Veneroso, The Asian Financial Crisis: The Unrecognized Risk of the IMFs Asia Package, 16 Jan 98.

28. Paul Krugman (MÍT), What Happens to Asia, Jan.98.

29. Joffrey Sachs (Harvard), The Wrong Medicine for Asia, New York Nov 3,97.

I

lun

DT.00036