TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 313-318<br />
<br />
TÁC DỤNG BẢO VỆ GAN CỦA CAO CHIẾT ETHYL ACETATE<br />
TỪ CÂY NGHỂ LÔNG DÀY (Polygonum tomentosum Willd.) VÀ RÂU MÈO<br />
(Orthosiphon aristatus (Blume) Miq.) TRÊN MÔ HÌNH GAN CHUỘT BỊ GÂY ĐỘC<br />
MÃN TÍNH BẰNG CARBON TETRACHLORIDE<br />
<br />
Nguyễn Ngọc Hồng1*, Huỳnh Ngọc Thụy2<br />
(1)<br />
Đại học Kỹ thuật công nghệ tp Hồ Chí Minh, (*)nguyengochong2003@gmail.com<br />
(2)<br />
Đại học Y Dược tp. Hồ Chí Minh<br />
<br />
TÓM TẮT: Cây râu mèo (Orthosiphon aristatus) là một cây thuốc được sử dụng rộng rãi trong y học dân<br />
gian Việt Nam và nhiều nước trên thế giới như là một thuốc lợi tiểu. Cây nghể (Polygonum tomentosum) là<br />
một loài cây mọc hoang dại, gặp ở nhiều nơi ở Việt Nam nhưng việc sử dụng làm thuốc ở trong nước cũng<br />
như trên thế giới vẫn còn hạn chế. Trong báo cáo này, tác dụng bảo vệ gan của cao chiết ethyl acetat cây<br />
nghể và râu mèo chống lại carbon tetrachlorid (CCl4) gây độc trên gan trong mô hình gây tổn thương gan<br />
chuột mãn tính trong thời gian 8 tuần được nghiên cứu và so sánh khả năng bảo vệ gan của các cao chiết ehyl<br />
acetat với silymarin, hợp chất có khả năng bảo vệ gan chống lại nhiều loại chất độc hiệu quả. Kết quả thử<br />
nghiệm cho thấy ở cùng liều thử nghiệm là 16 mg/kg, cao chiết ethyl acetat cây râu mèo có khả năng làm<br />
giảm 55% hoạt tính ALT trong huyết tương so với nhóm chứng độc, tương đương khả năng làm giảm hoạt<br />
tính ALT của silymarin trong khi khả năng làm giảm hoạt tính ALT huyết tương của cao chiết ethyl acetat<br />
cây Nghể là làm giảm 65% hoạt tính ALT so với nhóm chứng độc, có khả năng làm giảm hoạt tính ALT cao<br />
hơn silymarin. Từ các kết quả thu được, có thể kết luận là cao chiết ethyl acetat của cây Nghể và Râu mèo có<br />
tác dụng tốt trong việc bảo vệ gan chống lại CCl4 gây độc tính mãn và có nhiều triển vọng trong việc sử dụng<br />
điều trị các bệnh về viêm gan cấp và mãn tính, phòng ngừa bệnh xơ gan.<br />
Từ khóa: Orthosiphon aristatus, Polygonum tomentosum ALT, cao chiết ethyl acetat, CCl4, bảo vệ gan.<br />
<br />
MỞ ĐẦU tính do virút [11, 16]. Khi tế bào bị tổn thương,<br />
Gan là một cơ quan quan trọng về mặt enzyme transaminase như alanine<br />
chuyển hóa các chất của cơ thể. Một trong aminotransferase (ALT) tiết ra môi trường làm<br />
những chức năng rất quan trọng của gan là tham cho hoạt độ ALT đo được trong môi trường<br />
gia vào quá trình giải độc các chất nội sinh và tăng. Tiến hành đo hoạt lực enzyme này để đánh<br />
ngoại sinh. Trong các trường hợp bệnh lý hay giá mức độ thương tổn của tế bào gan.<br />
sự quá tải các chất độc trong gan, các tế bào gan Cây râu mèo (Orthosiphon aristatus) thuộc<br />
sẽ bị hủy hoại, dẫn đến các tổn thương trên gan, họ Hoa môi (Lamiaceae), là cây thuốc được sử<br />
dần dần làm các tổn thương không hồi phục như dụng rộng rãi trong y học dân gian Việt Nam và<br />
xơ gan, làm gan mất chức năng giải độc [13]. nhiều nước trên thế giới, được dùng như là một<br />
Bệnh gan là một trong những bệnh phổ biến thuốc lợi tiểu, điều trị viêm thận, sỏi thận, sỏi<br />
trong cộng đồng. Có nhiều loại bệnh gan trong mật, tê thấp, đau nhức, bệnh Goutte [7, 15] và<br />
đó thường gặp là những tổn thương gan gây ra điều trị bệnh tiểu đường [14].<br />
bệnh viêm gan dẫn đến xơ gan và ung thư gan, Cây nghể lông dày (Polygonum<br />
cuối cùng là gây tử vong, với nguyên nhân chủ tomentosum) thuộc họ Rau răm (Polygonaceae),<br />
yếu là do virút và nhiễm độc. là một loài cây cỏ nhiệt đới, mọc hoang dại ở<br />
Carbon tetrachloride (CCl4) là một chất gây nhiều vùng trong nước. Trong dân gian, chồi<br />
độc cho gan đã được biết từ lâu. Chất này gây non của cây nghể lông dày được dùng làm rau;<br />
bệnh viêm gan cấp tính và mãn tính, cũng như ngoài ra, còn làm thuốc có tác dụng thanh nhiệt,<br />
gây ra bệnh ung thư gan. CCl4 được dùng phổ giải độc, bổ, lọc máu và chữa ho [4]. Tuy nhiên,<br />
biến làm chất thử nghiệm để gây tổn thương gan việc nghiên cứu sử dụng cây nghể lông dày làm<br />
trên mô hình động vật. CCl4 gây nên sự xơ hóa thuốc vẫn còn hạn chế.<br />
gan và làm thay đổi các chỉ số sinh hóa của gan, Trong các nghiên cứu gần đây của chúng tôi<br />
với các triệu chứng tương tự với viêm gan cấp cho thấy, cao chiết ethyl ascetate từ cây râu mèo<br />
<br />
313<br />
Nguyen Ngoc Hong, Huynh Ngoc Thuy<br />
<br />
và cây nghể lông dày có tác dụng chống oxy thử nghiệm hoạt tính bảo vệ gan in vivo khi gan<br />
hóa mạnh cũng như có tác dụng bảo vệ gan trên bị gây độc mãn tính với CCl4.<br />
mô hình tế bào gan chuột bị tách rời và trên mô<br />
Khảo sát nồng độ CCl4 thích hợp để gây độc<br />
hình chuột bị gây độc cấp tính [9, 10]. Để đánh<br />
gan chuột: Chuột được chia thành 6 nhóm, mỗi<br />
giá khả năng bảo vệ gan khi gan bị gây độc mãn<br />
nhóm có 6 con. Cho chuột nhịn ăn 18 giờ rồi<br />
tính, cũng như so sánh khả năng bảo vệ gan của<br />
cho các nhóm chuột uống 0,2 ml dung dịch<br />
các cao chiết ethyl acetate với silymarin hướng<br />
CCl4 (pha với dầu oliu) tương ứng với các nồng<br />
đến việc nghiên cứu thuốc chữa bệnh gan cho<br />
độ: 100%, 50%, 30%, 25%, 20% và 10%. Sau<br />
người, chúng tôi sử dụng mô hình gan chuột bị<br />
khi uống CCl4, chuột được ăn uống bình thường.<br />
nhiễm độc CCl4 mãn tính trong thời gian 8 tuần.<br />
Quan sát và theo dõi ghi nhận hành vi, biểu hiện<br />
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
và sự sống chết của chuột trong các nhóm ngay<br />
sau khi gây độc và sau 24 giờ.<br />
Hóa chất<br />
Thử nghiệm tác dụng bảo vệ gan của cao<br />
CCl4 (Merck), dimethyl sulfoxide (Merck), chiết râu mèo và nghể lông dày trên mô hình<br />
silymarin (Sigma) và kit thử alanine gan chuột bị nhiễm độc CCl4 mãn tính: Được<br />
aminotransferase (Diagnosticum). Các hóa chất thực hiện theo phương pháp của Rana và<br />
khác đạt tiêu chuẩn phân tích. Avadhoot (1992) [12], nhưng có một số sự thay<br />
Vật liệu đổi, chuột đực có trọng lượng từ 20-25 g được<br />
chia thành 5 nhóm, mỗi nhóm có 8 con chuột.<br />
Phần trên mặt đất của cây râu mèo được thu<br />
Nhóm 1 là nhóm chứng trắng dùng để làm<br />
mua tại Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. Cây<br />
chuẩn so sánh, nhóm này được cho uống 0,2 ml<br />
nghể lông dày được thu hái ở Long An. Mẫu<br />
dầu oliu, sau 1 giờ, chuột được uống thêm 0,4<br />
được xác định bằng việc khảo sát đặc điểm hình<br />
ml nước có 1% DMSO (tỉ lệ DMSO phụ thuộc<br />
thái thực vật học dựa trên quan sát cây tươi.<br />
vào tỉ lệ DMSO được dùng để hòa tan cao<br />
Dược liệu được rửa sạch, phơi trong bóng râm<br />
chiết); nhóm 2 là nhóm chứng độc được uống<br />
đến khô, xay nhỏ làm nguyên liệu cho quá trình<br />
0,2 ml CCl4 pha trong dầu oliu (ở nồng độ thích<br />
chiết thu cao.<br />
hợp), sau 1 giờ chuột được uống thêm 0,4 ml<br />
Chuột nhắt (chủng Swiss albino) được mua nước có 1% DMSO; nhóm 3 là nhóm thử được<br />
từ Viện Vaccin và Sinh phẩm Nha Trang, uống 0,2 ml CCl4 trong dầu oliu, sau 1 giờ<br />
được nuôi và thử tại phòng thí nghiệm Dược lý, chuột được uống 0,4 ml dung dịch cao chiết<br />
Khoa Dược, Trường Đại học Y Dược thành phố ethyl acetate của nghể lông dày trong 1%<br />
Hồ Chí Minh. DMSO với liều 16 mg/kg; nhóm 4 là nhóm thử<br />
Phương pháp được uống 0,2 ml CCl4 trong dầu oliu, sau 1 giờ<br />
chuột được uống 0,4 ml dung dịch cao chiết<br />
Chuẩn bị mẫu thử: Hai loại nguyên liệu râu<br />
ethyl acetate của râu mèo trong 1% DMSO với<br />
mèo và nghể lông dày được chiết bằng phương<br />
liều 16 mg/kg; và nhóm 5 là nhóm chứng thuốc<br />
pháp ngấm kiệt với cồn 90%. Dịch chiết sau khi<br />
ngấm kiệt được thu hồi dung môi dưới áp suất được uống 0,2 ml CCl4 trong dầu oliu và chuột<br />
giảm thành dịch chiết đậm đặc. Dịch chiết đậm được uống 0,4 ml silymarin (16 mg/kg) trong<br />
1% DMSO sau 1 giờ. Quá trình thử nghiệm trên<br />
đặc cồn - nước này được phân tách thành các<br />
các nhóm chuột được thực hiện 2 ngày/tuần<br />
phân đoạn bằng phương pháp chiết phân bố<br />
trong thời gian 8 tuần.<br />
lỏng - lỏng với các dung môi có độ phân cực<br />
tăng dần là chloroform, ethyl acetate và Ngoài thời gian uống CCl4 và thuốc thử (cao<br />
n-butanol để thu được các phân đoạn cao chiết chiết của 2 cây và silymarin), các con chuột<br />
tương ứng. Phân đoạn cao chiết ethyl acetate có được ăn uống bình thường. 24 giờ sau khi uống<br />
hoạt tính chống oxy hóa và bảo vệ tế bào gan liều CCl4 cuối cùng (sau 8 tuần), lấy máu ở đuôi<br />
chống lại chất độc trên mô hình ex vivo tốt nhất chuột của để đo hoạt tính enzyme ALT.<br />
nên cao chiết ethyl acetate này được dùng để Thử nghiệm độc tính cấp diễn: Thử nghiệm<br />
<br />
<br />
<br />
314<br />
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 313-318<br />
<br />
xác định độc tính cấp diễn theo phương pháp Bộ các lần lặp lại, được xử lý bằng phần mềm<br />
Y tế Việt Nam ban hành [1, 6]. Cao chiết ethyl Statgraphics Plus V.3.0. Giá trị thể hiện là số<br />
actetate của từng cây được pha ở nồng độ cao trung bình và độ lệch chuẩn. So sánh sự khác<br />
nhất có thể pha loãng nhằm khảo sát độc tính biệt giữa các nghiệm thức bằng chương trình<br />
cấp. Chuột được chia thành 2 nhóm tương tự ANOVA.<br />
nhau, mỗi con ở cùng nhóm sẽ nhận cùng một<br />
liều khảo sát. Sự đánh giá dựa vào phản ứng KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br />
sống hay chết của chuột trong mỗi nhóm. Sau Khảo sát nồng độ CCl4 thích hợp để gây độc<br />
khi cho chuột uống thuốc với liều duy nhất gan chuột<br />
trong ngày, quan sát hành vi, thể trạng của<br />
chuột sau 24, 36 và 48 giờ. Ghi nhận giờ xuất Để khảo sát nồng độ CCl4 thích hợp để gây<br />
hiện các triệu chứng bất thường. Nếu có chuột độc trên gan cho mô hình in vivo, chuột được chia<br />
chết thì xét nghiệm đại thể chủ yếu gan, thận, thành 6 nhóm (mỗi nhóm 6 con) ứng với các nồng<br />
tim, phổi. độ CCl4 (pha với dầu oliu) như sau: 100%, 50%,<br />
30%, 25%, 20% và 10%. Sau khi cho các nhóm<br />
Đánh giá kết quả: Đo hoạt tính của enzyme chuột uống CCl4 (V = 0,2 ml) với các nồng độ<br />
ALT theo phương pháp đo của nhà sản xuất khác nhau như trên, tương ứng với các liều<br />
(Diagnosticum). dùng được trình bày trong bảng 1, 24 giờ sau<br />
Phương pháp xử lí số liệu: Các số liệu trong khi gây độc cho chuột, kết quả ghi nhận được<br />
các thử nghiệm được tính dựa trên trung bình chỉ ra trong bảng 1.<br />
<br />
Bảng 1. Kết quả gây độc của CCl4 trên các nhóm chuột thử nghiệm sau 24h<br />
Nhóm chuột uống CCl4 Nhóm chuột uống CCl4<br />
Tỉ lệ sống (%)<br />
Với các nồng độ (%) với các liều (ml/kg)<br />
100 10 0<br />
50 5 33<br />
30 3 67<br />
25 2,5 100<br />
20 2 100<br />
10 1 100<br />
<br />
Kết quả trên cho thấy, ở liều 10 ml/kg, 5 có thể pha loãng, tương ứng với liều 500 mg/kg<br />
ml/kg và 3 ml/kg, không đạt yêu cầu về tỷ lệ thể trọng chuột nhằm khảo sát độc tính cấp của<br />
sống của chuột, còn ở liều 2 ml/kg (164 ± 18 chất thử nghiệm. Chuột được chia thành 2 nhóm<br />
U/L) và 1 ml/kg (119 ± 20 U/L), tỷ lệ sống tốt và được uống cao chiết ethyl acetate từ cây nghể<br />
nhưng độc tính thể hiện không mạnh. Riêng lô lông dày và râu mèo. Quan sát hành vi của chuột<br />
bị gây độc bởi CCl4 25% tương ứng với liều 2,5 ngay sau khi uống các cao chiết với liều 500<br />
ml/kg (207 ± 12 U/L) thì vừa đạt yêu cầu về tỷ mg/kg cho thấy, chuột hơi lờ đờ nhưng dễ dàng<br />
lệ sống vừa thể hiện rõ độc tính như: ngay sau lấy lại sự linh hoạt, 48 giờ sau khi được uống các<br />
khi gây độc, chuột có biểu hiện mắt lờ đờ, mệt cao chiết, chuột hoàn toàn khỏe mạnh, di chuyển<br />
lả, thở dốc; 24 giờ sau khi gây độc, không có tốt và linh hoạt, không có dấu hiệu tổn thương.<br />
con nào chết. Như vậy, qua thử nghiệm độc cấp tính của<br />
Vì vậy, thử nghiệm in vivo gây độc gan cao chiết ethyl acetate từ cây nghể lông dày và<br />
bằng CCl4 mãn tính sử dụng chứng độc có nồng râu mèo cho thấy, các cao chiết an toàn cho<br />
độ CCl4 là 25%. chuột, không thể hiện độc tính ở liều thử nghiệm.<br />
Khảo sát độc tính của cao chiết cây nghể lông Thử nghiệm tác dụng bảo vệ gan của cao chiết<br />
dày và râu mèo ethyl acetate râu mèo và nghể lông dày trên mô<br />
Các cao chiết được pha ở nồng độ cao nhất hình gan chuột bị nhiễm độc CCl4 mãn tính<br />
<br />
<br />
315<br />
Nguyen Ngoc Hong, Huynh Ngoc Thuy<br />
<br />
Nhóm độc sau khi bị gây độc mãn tính trong acetate từ cây nghể lông dày và râu mèo được<br />
8 tuần cho kết quả hoạt tính enzyme gan tăng so sánh với silymarin, silymarin là một hỗn hợp<br />
66,9% so với nhóm chứng trắng. Kết quả thử gồm các flavonolignan được tách từ cây cúc gai<br />
nghiệm cho thấy, cao chiết ethyl acetate từ cây (Silybum marianum), được sử dụng làm thuốc<br />
râu mèo có khả năng làm giảm 55% nồng độ bảo vệ gan (phối hợp điều trị bệnh nhân bị viêm<br />
ALT so với nhóm chứng độc, cao chiết ethyl gan mãn tính và bệnh xơ gan), có tác dụng<br />
acetate từ cây nghể lông dày có khả năng làm chống lại nhiều loại chất độc có hại cho gan,<br />
giảm 65% nồng độ ALT so với nhóm chứng độc. trong đó có CCl4 [2, 8].<br />
Hiệu quả bảo vệ gan của các cao chiết ethyl<br />
<br />
300<br />
<br />
<br />
250<br />
Hoạt tính ALT (U/l)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
200<br />
<br />
<br />
150<br />
<br />
<br />
100<br />
<br />
<br />
50<br />
<br />
<br />
0<br />
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5<br />
<br />
Hình 1. Tác động của các cao chiết ethyl acetate từ cây nghể lông dày và râu mèo và chất chuẩn<br />
silymarin lên hoạt tính ALT huyết tương của chuột bị gây ngộ độc mãn tính bằng CCl4<br />
Nhóm chứng trắng, chuột được uống dầu oliu (nhóm 1): 31,9 ± 9,1 a U/l; nhóm chứng độc, chuột bị xử lý độc<br />
mãn tính với CCl4 (nhóm 2): 213,4 ± 28,2 a U/l; nhóm thử cao chiết cây nghể lông dày, chuột bị xử lý độc với<br />
CCl4 sau đó được uống cao chiết ethyl acetate của cây nghể lông dày (nhóm 3): 74,8 ± 17,7 a U/l; nhóm thử<br />
cao chiết cây râu mèo, chuột bị xử lý độc với CCl4 sau đó được uống cao chiết ethyl acetate của cây râu mèo<br />
(nhóm 4): 92,4 ± 7,2 a U/l; nhóm chứng thuốc silymarin, chuột bị xử lý độc với CCl4 sau đó được uống chất<br />
chuẩn silymarin (nhóm 5): 95,7 ± 25,8 a U/l. Kết quả trắc nghiệm phân hạng ở mức ý nghĩa 0,01. Các kết quả<br />
có cùng chữ cái thì sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).<br />
<br />
Hoạt tính làm giảm enzyme ALT trong nhóm chuột được dùng cao chiết ethyl acetate<br />
huyết tương của cao chiết ethyl acetate râu mèo của cây nghể lông dày và cây râu mèo (nhóm 3<br />
tương đương với silymarin (silymarin làm giảm và nhóm 4) và nhóm chuột dùng silymarin<br />
nồng độ ALT so với nhóm chứng độc là 55%), (nhóm 5) có màng phía ngoài bóng, không có lỗ<br />
trong khi hoạt tính làm giảm ALT của cao chiết nhỏ hay nổi sần, mô gan với các tế bào gan nhỏ,<br />
ethyl acetate cây nghể lông dày tốt hơn trơn láng và có màu đỏ đậm gần giống với hình<br />
silymarin khi sử dụng cùng liều là 16 mg/kg. thái mô gan của nhóm chứng trắng (nhóm 1),<br />
Liều dùng 16 mg/kg được sử dụng trong nghiên trong khi gan của nhóm chứng độc (nhóm 2) có<br />
cứu này là do việc nghiên cứu hoạt tính bảo vệ màu sắc gan đỏ nâu có màng phía ngoài khô,<br />
gan trong mô hình gây độc cấp tính trên gan mô gan hơi nổi sần và có một số những đốm<br />
chuột cho kết quả là các cao chiết có tác dụng trắng dạng sợi là dấu hiệu của mô hóa xơ.<br />
tốt hơn cả khi dùng liều thử nghiệm là 16 mg/kg Kết quả đo hoạt tính enzyme ALT trong<br />
[9, 10]. Kết quả hình ảnh tổng thể của gan trong huyết tương chuột và hình ảnh tổng thể của gan<br />
các nhóm chuột sau thời gian thử nghiệm 8 tuần trong nhóm 3 và nhóm 4 cho thấy, cao chiết<br />
(dùng CCl4 gây độc và được chữa trị bằng việc ethyl acetate từ cây nghể lông dày và râu mèo<br />
dùng cao chiết ethyl acetate và silymarin) được có tác dụng bảo vệ gan chống lại chất độc khá<br />
trình bày trong hình 2. Hình 2 cho thấy, các tốt. Hiệu quả bảo vệ gan của các cao chiết là do<br />
<br />
316<br />
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 313-318<br />
<br />
các cao chiết ethyl acetate có tác dụng loại các hơn silymarin). Hoạt tính bảo vệ gan của<br />
gốc tự do được sinh ra bởi CCl4 nên có kết quả silymarin thấp hơn so với cao chiết cây nghể<br />
làm giảm tác dụng độc của CCl4 in vivo. Hoạt lông dày có thể là do liều dùng silymarin trên<br />
tính bảo vệ gan của cao chiết cây nghể lông dày chuột chưa hợp lý cho việc chữa trị tổn thương<br />
tốt hơn so với silymarin ở điều kiện thực trên gan chuột (có thể là liều 16 mg/kg là cao<br />
nghiệm trên chuột với liều dùng là 16 mg/kg (vì hơn liều tối ưu để chữa tổn thương trên gan).<br />
có tác dụng làm giảm hoạt tính enzyme ALT cao<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5<br />
Hình 2. Hình ảnh tổng thể của gan chuột trong các nhóm thử nghiệm sau thời gian 8 tuần<br />
(hình chụp gan nằm trên cơ thể chuột khi mổ ổ bụng chuột)<br />
<br />
KẾT LUẬN Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. Trang 317.<br />
Như vậy, trong mô hình gây độc gan mãn 5. Đại học quốc gia Hà Nội, Viện Khoa học và<br />
tính bằng CCl4 trên cơ thể chuột, các cao chiết Công nghệ Việt Nam, 2005. Danh lục các<br />
ethyl acetate từ cây nghể lông dày và râu mèo loài thực vật Việt Nam, tập III. Nxb. Nông<br />
có hiệu quả bảo vệ gan chống lại chất độc CCl4. nghiệp, Hà Nội.<br />
Kết quả này đã mở ra một hướng mới cho việc 6. Đỗ Trung Đàm, 2003. Phương pháp nghiên<br />
nghiên cứu tác dụng chống viêm gan mãn tính cứu độc tính cấp của thuốc. Nxb. Y học.<br />
và ức chế xơ gan của cây cây nghể lông dày và<br />
cây râu mèo, từ đó ứng dụng vào việc bào chế 7. Englert J. and Harnischfeger G., 1992.<br />
thuốc chữa bệnh cho con người. Diuretic action of aqueous Orthosiphon<br />
extract in rats. Planta Medica, 58: 237-238.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO 8. Flora Kenneth, M. D., Hahn. Martin, Rosen<br />
Hugo, M. D., Benner Kent M. D., 1998.<br />
1. Bộ Y tế, 1996. Hướng dẫn nghiên cứu, đánh Milk Thistle (Silybum marianum) for the<br />
giá tính an toàn và hiệu lực thuốc Y học cổ Therapy of Liver Disease. The American<br />
truyền, Hà Nội. Journal of Gastroenterology, 93(2): 139-143.<br />
2. Corrigan D., Duke J. A., Wright J., 2000. 9. Tran Hung, Nguyen Ngoc Hong, Huynh<br />
Principles and Practice of Phytotherapy, Ngọc Thuy, Ho Huynh Thuy Duong, 2010.<br />
Churchill Livingstone. Antioxidant and hepatoprotective effects of<br />
3. Dianzani M. U., Muzia G., Biocca M. E., Polygonum tomemtosum on damage liver<br />
Canuto R. A., 1991. Lipid peroxidation in mice induced by carbon tetrachloride.<br />
fatty liver induced by caffeine in rats. Tạp chí Dược liệu, 2: 99-105.<br />
International journal of tissue reactions, 13: 10. Tran Hung, Nguyen Ngoc Hong, Huynh<br />
79-85. Ngọc Thuy, Ho Huynh Thuy Duong, 2010.<br />
4. Đại học quốc gia Hà Nội, Trung tâm Khoa Antioxidant and hepatoprotective effects of<br />
học tự nhiên và Công nghệ quốc gia, 2003. Orthosiphon aristatus on damage liver mice<br />
Danh lục các loài thực vật Việt Nam, tập II. induced by carbon tetrachloride, Tạp chí<br />
<br />
<br />
317<br />
Nguyen Ngoc Hong, Huynh Ngoc Thuy<br />
<br />
Dược liệu, 3: 157-163. Orthosiphon stamineus aqueous extract on<br />
11. Kumar V., Cotran R. S., Robbins S. L., plasma glucose concentration and lipid<br />
1992. Cell injury and adaptation; 5th ed. profile in normal and streptozotocin-induced<br />
Bangalore. India: Prime Books Publ, 3-24. diabetic rats. Journal Ethnopharmacology,<br />
109(3): 510-514.<br />
12. Rana A. C. and Avadhoot Y., 1992.,<br />
Experimental evaluation of hepatoprotective 15. Viện Dược liệu, 2004. Cây thuốc và động<br />
activity of Gymnema sylvestre and Curcuma vật làm thuốc ở Việt Nam, tập 2. Nxb. Khoa<br />
zedoaria. Fitoterapia, 63: 60-63. học và Kỹ thuật, Hà Nội.<br />
13. Shahani S., 1999. Evaluation of 16. Vogels B. A., Karlsen O. T., Mass M. A.,<br />
hepatoprotective efficacy of APCL-A Boveé W. M., Chamuleau R. A., 1997. L-<br />
polyherbal formulation in vivo in rats. ornithine vs. L-ornithine-L-aspartate as a<br />
Indian Drugs, 36: 628-631. treatment for hyperammonemia-induced<br />
encephalopathy in rats. Journal of<br />
14. Sriplang K., Adisakwattana S., Rungsipipat<br />
Hepatology, 26(1): 174-178.<br />
A., Yibchok-Anun S., 2007. Effects of<br />
<br />
<br />
HEPATOPROTECTIVE EFFECTS OF ETHYL ACETATE EXTRACTS<br />
OF Polygonum tomentosum Willd. AND Orthosiphon aristatus (Blume.) Miq.<br />
AGAINST CARBON TETRACHLORIDE INDUCED CHRONIC TOXICITY<br />
<br />
Nguyen Ngoc Hong1, Huynh Ngoc Thuy2<br />
(1)<br />
Ho Chi Minh city University of Technology<br />
(2)<br />
University of Medicine and Pharmacy, Ho Chi Minh city<br />
<br />
SUMMARY<br />
<br />
Orthosiphon aristatus Blume. is a medicinal herb useful as a diuretic agent, used popularly in Vietnam<br />
and in the world. Polygonum tomentosum Willd. is a perennial herb growing in marshy areas, along ditches<br />
and field margins in Vietnam, but the efficacy of this herb in treatment of diseases remains unknown. The<br />
purpose of the present study was to examine the ethyl acetate extracts of O. aristatus and P. tomentosum<br />
against chronic carbon tetrachloride (CCl4) induced liver damage for 8 weeks. The hepatoprotective effects of<br />
these extracts were found comparable to that of silymarin, a hepatoprotective agent against hepatotoxicity of<br />
various chemicals. At the dose of 16 mg/kg, ethyl acetate extract of O. aristatus showed protective effect<br />
against CCl4 damage on liver with ALT activity was decreased 55% compared to toxic group, which was<br />
equivalently compared with silymarin at the same dose. Ethyl acetate extract of P. tomentosum reduced 65%<br />
ALT activity in serum of chronic CCl4 induced hepatotocity in mice, this result revealed that ethyl acetate<br />
extract of Polygonum tomentosum had a better hepatoprotective activity than silymarin at the dose of 16<br />
mg/kg. The results of the present study indicate that P. tomentosum and O. aristatus are potential sources of<br />
natural hepatoprotection<br />
Keywords: Orthosiphon aristatus, Polygonum tomentosum, ALT, CCl4, hepatoprotective effect, ethyl<br />
acetat extract.<br />
<br />
Ngày nhận bài: 21-6-2012<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
318<br />