intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tác dụng bảo vệ gan của cao chiết Ethyl Acetate từ cây nghể lông dày (Polygonum tomentosum Willd.) và râu mèo (Orthosiphon aristatus (Blume) Miq.) trên mô hình gan chuột bị gây độc mãn tính bằng Carbon Tetrachloride

Chia sẻ: Trinhthamhodang Trinhthamhodang | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

53
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cây râu mèo (Orthosiphon aristatus) là một cây thuốc được sử dụng rộng rãi trong y học dân gian Việt Nam và nhiều nước trên thế giới như là một thuốc lợi tiểu. Cây nghể (Polygonum tomentosum) là một loài cây mọc hoang dại, gặp ở nhiều nơi ở Việt Nam nhưng việc sử dụng làm thuốc ở trong nước cũng như trên thế giới vẫn còn hạn chế. Trong báo cáo này, tác dụng bảo vệ gan của cao chiết ethyl acetat cây nghể và râu mèo chống lại carbon tetrachlorid (CCl4) gây độc trên gan trong mô hình gây tổn thương gan chuột mãn tính trong thời gian 8 tuần được nghiên cứu và so sánh khả năng bảo vệ gan của các cao chiết ehyl acetat với silymarin, hợp chất có khả năng bảo vệ gan chống lại nhiều loại chất độc hiệu quả. Kết quả thử nghiệm cho thấy ở cùng liều thử nghiệm là 16 mg/kg, cao chiết ethyl acetat cây râu mèo có khả năng làm giảm 55% hoạt tính ALT trong huyết tương so với nhóm chứng độc, tương đương khả năng làm giảm hoạt tính ALT của silymarin trong khi khả năng làm giảm hoạt tính ALT huyết tương của cao chiết ethyl acetat cây Nghể là làm giảm 65% hoạt tính ALT so với nhóm chứng độc, có khả năng làm giảm hoạt tính ALT cao hơn silymarin. Từ các kết quả thu được, có thể kết luận là cao chiết ethyl acetat của cây Nghể và Râu mèo có tác dụng tốt trong việc bảo vệ gan chống lại CCl4 gây độc tính mãn và có nhiều triển vọng trong việc sử dụng điều trị các bệnh về viêm gan cấp và mãn tính, phòng ngừa bệnh xơ gan.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tác dụng bảo vệ gan của cao chiết Ethyl Acetate từ cây nghể lông dày (Polygonum tomentosum Willd.) và râu mèo (Orthosiphon aristatus (Blume) Miq.) trên mô hình gan chuột bị gây độc mãn tính bằng Carbon Tetrachloride

TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 313-318<br /> <br /> TÁC DỤNG BẢO VỆ GAN CỦA CAO CHIẾT ETHYL ACETATE<br /> TỪ CÂY NGHỂ LÔNG DÀY (Polygonum tomentosum Willd.) VÀ RÂU MÈO<br /> (Orthosiphon aristatus (Blume) Miq.) TRÊN MÔ HÌNH GAN CHUỘT BỊ GÂY ĐỘC<br /> MÃN TÍNH BẰNG CARBON TETRACHLORIDE<br /> <br /> Nguyễn Ngọc Hồng1*, Huỳnh Ngọc Thụy2<br /> (1)<br /> Đại học Kỹ thuật công nghệ tp Hồ Chí Minh, (*)nguyengochong2003@gmail.com<br /> (2)<br /> Đại học Y Dược tp. Hồ Chí Minh<br /> <br /> TÓM TẮT: Cây râu mèo (Orthosiphon aristatus) là một cây thuốc được sử dụng rộng rãi trong y học dân<br /> gian Việt Nam và nhiều nước trên thế giới như là một thuốc lợi tiểu. Cây nghể (Polygonum tomentosum) là<br /> một loài cây mọc hoang dại, gặp ở nhiều nơi ở Việt Nam nhưng việc sử dụng làm thuốc ở trong nước cũng<br /> như trên thế giới vẫn còn hạn chế. Trong báo cáo này, tác dụng bảo vệ gan của cao chiết ethyl acetat cây<br /> nghể và râu mèo chống lại carbon tetrachlorid (CCl4) gây độc trên gan trong mô hình gây tổn thương gan<br /> chuột mãn tính trong thời gian 8 tuần được nghiên cứu và so sánh khả năng bảo vệ gan của các cao chiết ehyl<br /> acetat với silymarin, hợp chất có khả năng bảo vệ gan chống lại nhiều loại chất độc hiệu quả. Kết quả thử<br /> nghiệm cho thấy ở cùng liều thử nghiệm là 16 mg/kg, cao chiết ethyl acetat cây râu mèo có khả năng làm<br /> giảm 55% hoạt tính ALT trong huyết tương so với nhóm chứng độc, tương đương khả năng làm giảm hoạt<br /> tính ALT của silymarin trong khi khả năng làm giảm hoạt tính ALT huyết tương của cao chiết ethyl acetat<br /> cây Nghể là làm giảm 65% hoạt tính ALT so với nhóm chứng độc, có khả năng làm giảm hoạt tính ALT cao<br /> hơn silymarin. Từ các kết quả thu được, có thể kết luận là cao chiết ethyl acetat của cây Nghể và Râu mèo có<br /> tác dụng tốt trong việc bảo vệ gan chống lại CCl4 gây độc tính mãn và có nhiều triển vọng trong việc sử dụng<br /> điều trị các bệnh về viêm gan cấp và mãn tính, phòng ngừa bệnh xơ gan.<br /> Từ khóa: Orthosiphon aristatus, Polygonum tomentosum ALT, cao chiết ethyl acetat, CCl4, bảo vệ gan.<br /> <br /> MỞ ĐẦU tính do virút [11, 16]. Khi tế bào bị tổn thương,<br /> Gan là một cơ quan quan trọng về mặt enzyme transaminase như alanine<br /> chuyển hóa các chất của cơ thể. Một trong aminotransferase (ALT) tiết ra môi trường làm<br /> những chức năng rất quan trọng của gan là tham cho hoạt độ ALT đo được trong môi trường<br /> gia vào quá trình giải độc các chất nội sinh và tăng. Tiến hành đo hoạt lực enzyme này để đánh<br /> ngoại sinh. Trong các trường hợp bệnh lý hay giá mức độ thương tổn của tế bào gan.<br /> sự quá tải các chất độc trong gan, các tế bào gan Cây râu mèo (Orthosiphon aristatus) thuộc<br /> sẽ bị hủy hoại, dẫn đến các tổn thương trên gan, họ Hoa môi (Lamiaceae), là cây thuốc được sử<br /> dần dần làm các tổn thương không hồi phục như dụng rộng rãi trong y học dân gian Việt Nam và<br /> xơ gan, làm gan mất chức năng giải độc [13]. nhiều nước trên thế giới, được dùng như là một<br /> Bệnh gan là một trong những bệnh phổ biến thuốc lợi tiểu, điều trị viêm thận, sỏi thận, sỏi<br /> trong cộng đồng. Có nhiều loại bệnh gan trong mật, tê thấp, đau nhức, bệnh Goutte [7, 15] và<br /> đó thường gặp là những tổn thương gan gây ra điều trị bệnh tiểu đường [14].<br /> bệnh viêm gan dẫn đến xơ gan và ung thư gan, Cây nghể lông dày (Polygonum<br /> cuối cùng là gây tử vong, với nguyên nhân chủ tomentosum) thuộc họ Rau răm (Polygonaceae),<br /> yếu là do virút và nhiễm độc. là một loài cây cỏ nhiệt đới, mọc hoang dại ở<br /> Carbon tetrachloride (CCl4) là một chất gây nhiều vùng trong nước. Trong dân gian, chồi<br /> độc cho gan đã được biết từ lâu. Chất này gây non của cây nghể lông dày được dùng làm rau;<br /> bệnh viêm gan cấp tính và mãn tính, cũng như ngoài ra, còn làm thuốc có tác dụng thanh nhiệt,<br /> gây ra bệnh ung thư gan. CCl4 được dùng phổ giải độc, bổ, lọc máu và chữa ho [4]. Tuy nhiên,<br /> biến làm chất thử nghiệm để gây tổn thương gan việc nghiên cứu sử dụng cây nghể lông dày làm<br /> trên mô hình động vật. CCl4 gây nên sự xơ hóa thuốc vẫn còn hạn chế.<br /> gan và làm thay đổi các chỉ số sinh hóa của gan, Trong các nghiên cứu gần đây của chúng tôi<br /> với các triệu chứng tương tự với viêm gan cấp cho thấy, cao chiết ethyl ascetate từ cây râu mèo<br /> <br /> 313<br /> Nguyen Ngoc Hong, Huynh Ngoc Thuy<br /> <br /> và cây nghể lông dày có tác dụng chống oxy thử nghiệm hoạt tính bảo vệ gan in vivo khi gan<br /> hóa mạnh cũng như có tác dụng bảo vệ gan trên bị gây độc mãn tính với CCl4.<br /> mô hình tế bào gan chuột bị tách rời và trên mô<br /> Khảo sát nồng độ CCl4 thích hợp để gây độc<br /> hình chuột bị gây độc cấp tính [9, 10]. Để đánh<br /> gan chuột: Chuột được chia thành 6 nhóm, mỗi<br /> giá khả năng bảo vệ gan khi gan bị gây độc mãn<br /> nhóm có 6 con. Cho chuột nhịn ăn 18 giờ rồi<br /> tính, cũng như so sánh khả năng bảo vệ gan của<br /> cho các nhóm chuột uống 0,2 ml dung dịch<br /> các cao chiết ethyl acetate với silymarin hướng<br /> CCl4 (pha với dầu oliu) tương ứng với các nồng<br /> đến việc nghiên cứu thuốc chữa bệnh gan cho<br /> độ: 100%, 50%, 30%, 25%, 20% và 10%. Sau<br /> người, chúng tôi sử dụng mô hình gan chuột bị<br /> khi uống CCl4, chuột được ăn uống bình thường.<br /> nhiễm độc CCl4 mãn tính trong thời gian 8 tuần.<br /> Quan sát và theo dõi ghi nhận hành vi, biểu hiện<br /> PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> và sự sống chết của chuột trong các nhóm ngay<br /> sau khi gây độc và sau 24 giờ.<br /> Hóa chất<br /> Thử nghiệm tác dụng bảo vệ gan của cao<br /> CCl4 (Merck), dimethyl sulfoxide (Merck), chiết râu mèo và nghể lông dày trên mô hình<br /> silymarin (Sigma) và kit thử alanine gan chuột bị nhiễm độc CCl4 mãn tính: Được<br /> aminotransferase (Diagnosticum). Các hóa chất thực hiện theo phương pháp của Rana và<br /> khác đạt tiêu chuẩn phân tích. Avadhoot (1992) [12], nhưng có một số sự thay<br /> Vật liệu đổi, chuột đực có trọng lượng từ 20-25 g được<br /> chia thành 5 nhóm, mỗi nhóm có 8 con chuột.<br /> Phần trên mặt đất của cây râu mèo được thu<br /> Nhóm 1 là nhóm chứng trắng dùng để làm<br /> mua tại Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. Cây<br /> chuẩn so sánh, nhóm này được cho uống 0,2 ml<br /> nghể lông dày được thu hái ở Long An. Mẫu<br /> dầu oliu, sau 1 giờ, chuột được uống thêm 0,4<br /> được xác định bằng việc khảo sát đặc điểm hình<br /> ml nước có 1% DMSO (tỉ lệ DMSO phụ thuộc<br /> thái thực vật học dựa trên quan sát cây tươi.<br /> vào tỉ lệ DMSO được dùng để hòa tan cao<br /> Dược liệu được rửa sạch, phơi trong bóng râm<br /> chiết); nhóm 2 là nhóm chứng độc được uống<br /> đến khô, xay nhỏ làm nguyên liệu cho quá trình<br /> 0,2 ml CCl4 pha trong dầu oliu (ở nồng độ thích<br /> chiết thu cao.<br /> hợp), sau 1 giờ chuột được uống thêm 0,4 ml<br /> Chuột nhắt (chủng Swiss albino) được mua nước có 1% DMSO; nhóm 3 là nhóm thử được<br /> từ Viện Vaccin và Sinh phẩm Nha Trang, uống 0,2 ml CCl4 trong dầu oliu, sau 1 giờ<br /> được nuôi và thử tại phòng thí nghiệm Dược lý, chuột được uống 0,4 ml dung dịch cao chiết<br /> Khoa Dược, Trường Đại học Y Dược thành phố ethyl acetate của nghể lông dày trong 1%<br /> Hồ Chí Minh. DMSO với liều 16 mg/kg; nhóm 4 là nhóm thử<br /> Phương pháp được uống 0,2 ml CCl4 trong dầu oliu, sau 1 giờ<br /> chuột được uống 0,4 ml dung dịch cao chiết<br /> Chuẩn bị mẫu thử: Hai loại nguyên liệu râu<br /> ethyl acetate của râu mèo trong 1% DMSO với<br /> mèo và nghể lông dày được chiết bằng phương<br /> liều 16 mg/kg; và nhóm 5 là nhóm chứng thuốc<br /> pháp ngấm kiệt với cồn 90%. Dịch chiết sau khi<br /> ngấm kiệt được thu hồi dung môi dưới áp suất được uống 0,2 ml CCl4 trong dầu oliu và chuột<br /> giảm thành dịch chiết đậm đặc. Dịch chiết đậm được uống 0,4 ml silymarin (16 mg/kg) trong<br /> 1% DMSO sau 1 giờ. Quá trình thử nghiệm trên<br /> đặc cồn - nước này được phân tách thành các<br /> các nhóm chuột được thực hiện 2 ngày/tuần<br /> phân đoạn bằng phương pháp chiết phân bố<br /> trong thời gian 8 tuần.<br /> lỏng - lỏng với các dung môi có độ phân cực<br /> tăng dần là chloroform, ethyl acetate và Ngoài thời gian uống CCl4 và thuốc thử (cao<br /> n-butanol để thu được các phân đoạn cao chiết chiết của 2 cây và silymarin), các con chuột<br /> tương ứng. Phân đoạn cao chiết ethyl acetate có được ăn uống bình thường. 24 giờ sau khi uống<br /> hoạt tính chống oxy hóa và bảo vệ tế bào gan liều CCl4 cuối cùng (sau 8 tuần), lấy máu ở đuôi<br /> chống lại chất độc trên mô hình ex vivo tốt nhất chuột của để đo hoạt tính enzyme ALT.<br /> nên cao chiết ethyl acetate này được dùng để Thử nghiệm độc tính cấp diễn: Thử nghiệm<br /> <br /> <br /> <br /> 314<br /> TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 313-318<br /> <br /> xác định độc tính cấp diễn theo phương pháp Bộ các lần lặp lại, được xử lý bằng phần mềm<br /> Y tế Việt Nam ban hành [1, 6]. Cao chiết ethyl Statgraphics Plus V.3.0. Giá trị thể hiện là số<br /> actetate của từng cây được pha ở nồng độ cao trung bình và độ lệch chuẩn. So sánh sự khác<br /> nhất có thể pha loãng nhằm khảo sát độc tính biệt giữa các nghiệm thức bằng chương trình<br /> cấp. Chuột được chia thành 2 nhóm tương tự ANOVA.<br /> nhau, mỗi con ở cùng nhóm sẽ nhận cùng một<br /> liều khảo sát. Sự đánh giá dựa vào phản ứng KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br /> sống hay chết của chuột trong mỗi nhóm. Sau Khảo sát nồng độ CCl4 thích hợp để gây độc<br /> khi cho chuột uống thuốc với liều duy nhất gan chuột<br /> trong ngày, quan sát hành vi, thể trạng của<br /> chuột sau 24, 36 và 48 giờ. Ghi nhận giờ xuất Để khảo sát nồng độ CCl4 thích hợp để gây<br /> hiện các triệu chứng bất thường. Nếu có chuột độc trên gan cho mô hình in vivo, chuột được chia<br /> chết thì xét nghiệm đại thể chủ yếu gan, thận, thành 6 nhóm (mỗi nhóm 6 con) ứng với các nồng<br /> tim, phổi. độ CCl4 (pha với dầu oliu) như sau: 100%, 50%,<br /> 30%, 25%, 20% và 10%. Sau khi cho các nhóm<br /> Đánh giá kết quả: Đo hoạt tính của enzyme chuột uống CCl4 (V = 0,2 ml) với các nồng độ<br /> ALT theo phương pháp đo của nhà sản xuất khác nhau như trên, tương ứng với các liều<br /> (Diagnosticum). dùng được trình bày trong bảng 1, 24 giờ sau<br /> Phương pháp xử lí số liệu: Các số liệu trong khi gây độc cho chuột, kết quả ghi nhận được<br /> các thử nghiệm được tính dựa trên trung bình chỉ ra trong bảng 1.<br /> <br /> Bảng 1. Kết quả gây độc của CCl4 trên các nhóm chuột thử nghiệm sau 24h<br /> Nhóm chuột uống CCl4 Nhóm chuột uống CCl4<br /> Tỉ lệ sống (%)<br /> Với các nồng độ (%) với các liều (ml/kg)<br /> 100 10 0<br /> 50 5 33<br /> 30 3 67<br /> 25 2,5 100<br /> 20 2 100<br /> 10 1 100<br /> <br /> Kết quả trên cho thấy, ở liều 10 ml/kg, 5 có thể pha loãng, tương ứng với liều 500 mg/kg<br /> ml/kg và 3 ml/kg, không đạt yêu cầu về tỷ lệ thể trọng chuột nhằm khảo sát độc tính cấp của<br /> sống của chuột, còn ở liều 2 ml/kg (164 ± 18 chất thử nghiệm. Chuột được chia thành 2 nhóm<br /> U/L) và 1 ml/kg (119 ± 20 U/L), tỷ lệ sống tốt và được uống cao chiết ethyl acetate từ cây nghể<br /> nhưng độc tính thể hiện không mạnh. Riêng lô lông dày và râu mèo. Quan sát hành vi của chuột<br /> bị gây độc bởi CCl4 25% tương ứng với liều 2,5 ngay sau khi uống các cao chiết với liều 500<br /> ml/kg (207 ± 12 U/L) thì vừa đạt yêu cầu về tỷ mg/kg cho thấy, chuột hơi lờ đờ nhưng dễ dàng<br /> lệ sống vừa thể hiện rõ độc tính như: ngay sau lấy lại sự linh hoạt, 48 giờ sau khi được uống các<br /> khi gây độc, chuột có biểu hiện mắt lờ đờ, mệt cao chiết, chuột hoàn toàn khỏe mạnh, di chuyển<br /> lả, thở dốc; 24 giờ sau khi gây độc, không có tốt và linh hoạt, không có dấu hiệu tổn thương.<br /> con nào chết. Như vậy, qua thử nghiệm độc cấp tính của<br /> Vì vậy, thử nghiệm in vivo gây độc gan cao chiết ethyl acetate từ cây nghể lông dày và<br /> bằng CCl4 mãn tính sử dụng chứng độc có nồng râu mèo cho thấy, các cao chiết an toàn cho<br /> độ CCl4 là 25%. chuột, không thể hiện độc tính ở liều thử nghiệm.<br /> Khảo sát độc tính của cao chiết cây nghể lông Thử nghiệm tác dụng bảo vệ gan của cao chiết<br /> dày và râu mèo ethyl acetate râu mèo và nghể lông dày trên mô<br /> Các cao chiết được pha ở nồng độ cao nhất hình gan chuột bị nhiễm độc CCl4 mãn tính<br /> <br /> <br /> 315<br /> Nguyen Ngoc Hong, Huynh Ngoc Thuy<br /> <br /> Nhóm độc sau khi bị gây độc mãn tính trong acetate từ cây nghể lông dày và râu mèo được<br /> 8 tuần cho kết quả hoạt tính enzyme gan tăng so sánh với silymarin, silymarin là một hỗn hợp<br /> 66,9% so với nhóm chứng trắng. Kết quả thử gồm các flavonolignan được tách từ cây cúc gai<br /> nghiệm cho thấy, cao chiết ethyl acetate từ cây (Silybum marianum), được sử dụng làm thuốc<br /> râu mèo có khả năng làm giảm 55% nồng độ bảo vệ gan (phối hợp điều trị bệnh nhân bị viêm<br /> ALT so với nhóm chứng độc, cao chiết ethyl gan mãn tính và bệnh xơ gan), có tác dụng<br /> acetate từ cây nghể lông dày có khả năng làm chống lại nhiều loại chất độc có hại cho gan,<br /> giảm 65% nồng độ ALT so với nhóm chứng độc. trong đó có CCl4 [2, 8].<br /> Hiệu quả bảo vệ gan của các cao chiết ethyl<br /> <br /> 300<br /> <br /> <br /> 250<br /> Hoạt tính ALT (U/l)<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 200<br /> <br /> <br /> 150<br /> <br /> <br /> 100<br /> <br /> <br /> 50<br /> <br /> <br /> 0<br /> Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5<br /> <br /> Hình 1. Tác động của các cao chiết ethyl acetate từ cây nghể lông dày và râu mèo và chất chuẩn<br /> silymarin lên hoạt tính ALT huyết tương của chuột bị gây ngộ độc mãn tính bằng CCl4<br /> Nhóm chứng trắng, chuột được uống dầu oliu (nhóm 1): 31,9 ± 9,1 a U/l; nhóm chứng độc, chuột bị xử lý độc<br /> mãn tính với CCl4 (nhóm 2): 213,4 ± 28,2 a U/l; nhóm thử cao chiết cây nghể lông dày, chuột bị xử lý độc với<br /> CCl4 sau đó được uống cao chiết ethyl acetate của cây nghể lông dày (nhóm 3): 74,8 ± 17,7 a U/l; nhóm thử<br /> cao chiết cây râu mèo, chuột bị xử lý độc với CCl4 sau đó được uống cao chiết ethyl acetate của cây râu mèo<br /> (nhóm 4): 92,4 ± 7,2 a U/l; nhóm chứng thuốc silymarin, chuột bị xử lý độc với CCl4 sau đó được uống chất<br /> chuẩn silymarin (nhóm 5): 95,7 ± 25,8 a U/l. Kết quả trắc nghiệm phân hạng ở mức ý nghĩa 0,01. Các kết quả<br /> có cùng chữ cái thì sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).<br /> <br /> Hoạt tính làm giảm enzyme ALT trong nhóm chuột được dùng cao chiết ethyl acetate<br /> huyết tương của cao chiết ethyl acetate râu mèo của cây nghể lông dày và cây râu mèo (nhóm 3<br /> tương đương với silymarin (silymarin làm giảm và nhóm 4) và nhóm chuột dùng silymarin<br /> nồng độ ALT so với nhóm chứng độc là 55%), (nhóm 5) có màng phía ngoài bóng, không có lỗ<br /> trong khi hoạt tính làm giảm ALT của cao chiết nhỏ hay nổi sần, mô gan với các tế bào gan nhỏ,<br /> ethyl acetate cây nghể lông dày tốt hơn trơn láng và có màu đỏ đậm gần giống với hình<br /> silymarin khi sử dụng cùng liều là 16 mg/kg. thái mô gan của nhóm chứng trắng (nhóm 1),<br /> Liều dùng 16 mg/kg được sử dụng trong nghiên trong khi gan của nhóm chứng độc (nhóm 2) có<br /> cứu này là do việc nghiên cứu hoạt tính bảo vệ màu sắc gan đỏ nâu có màng phía ngoài khô,<br /> gan trong mô hình gây độc cấp tính trên gan mô gan hơi nổi sần và có một số những đốm<br /> chuột cho kết quả là các cao chiết có tác dụng trắng dạng sợi là dấu hiệu của mô hóa xơ.<br /> tốt hơn cả khi dùng liều thử nghiệm là 16 mg/kg Kết quả đo hoạt tính enzyme ALT trong<br /> [9, 10]. Kết quả hình ảnh tổng thể của gan trong huyết tương chuột và hình ảnh tổng thể của gan<br /> các nhóm chuột sau thời gian thử nghiệm 8 tuần trong nhóm 3 và nhóm 4 cho thấy, cao chiết<br /> (dùng CCl4 gây độc và được chữa trị bằng việc ethyl acetate từ cây nghể lông dày và râu mèo<br /> dùng cao chiết ethyl acetate và silymarin) được có tác dụng bảo vệ gan chống lại chất độc khá<br /> trình bày trong hình 2. Hình 2 cho thấy, các tốt. Hiệu quả bảo vệ gan của các cao chiết là do<br /> <br /> 316<br /> TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 313-318<br /> <br /> các cao chiết ethyl acetate có tác dụng loại các hơn silymarin). Hoạt tính bảo vệ gan của<br /> gốc tự do được sinh ra bởi CCl4 nên có kết quả silymarin thấp hơn so với cao chiết cây nghể<br /> làm giảm tác dụng độc của CCl4 in vivo. Hoạt lông dày có thể là do liều dùng silymarin trên<br /> tính bảo vệ gan của cao chiết cây nghể lông dày chuột chưa hợp lý cho việc chữa trị tổn thương<br /> tốt hơn so với silymarin ở điều kiện thực trên gan chuột (có thể là liều 16 mg/kg là cao<br /> nghiệm trên chuột với liều dùng là 16 mg/kg (vì hơn liều tối ưu để chữa tổn thương trên gan).<br /> có tác dụng làm giảm hoạt tính enzyme ALT cao<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5<br /> Hình 2. Hình ảnh tổng thể của gan chuột trong các nhóm thử nghiệm sau thời gian 8 tuần<br /> (hình chụp gan nằm trên cơ thể chuột khi mổ ổ bụng chuột)<br /> <br /> KẾT LUẬN Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. Trang 317.<br /> Như vậy, trong mô hình gây độc gan mãn 5. Đại học quốc gia Hà Nội, Viện Khoa học và<br /> tính bằng CCl4 trên cơ thể chuột, các cao chiết Công nghệ Việt Nam, 2005. Danh lục các<br /> ethyl acetate từ cây nghể lông dày và râu mèo loài thực vật Việt Nam, tập III. Nxb. Nông<br /> có hiệu quả bảo vệ gan chống lại chất độc CCl4. nghiệp, Hà Nội.<br /> Kết quả này đã mở ra một hướng mới cho việc 6. Đỗ Trung Đàm, 2003. Phương pháp nghiên<br /> nghiên cứu tác dụng chống viêm gan mãn tính cứu độc tính cấp của thuốc. Nxb. Y học.<br /> và ức chế xơ gan của cây cây nghể lông dày và<br /> cây râu mèo, từ đó ứng dụng vào việc bào chế 7. Englert J. and Harnischfeger G., 1992.<br /> thuốc chữa bệnh cho con người. Diuretic action of aqueous Orthosiphon<br /> extract in rats. Planta Medica, 58: 237-238.<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO 8. Flora Kenneth, M. D., Hahn. Martin, Rosen<br /> Hugo, M. D., Benner Kent M. D., 1998.<br /> 1. Bộ Y tế, 1996. Hướng dẫn nghiên cứu, đánh Milk Thistle (Silybum marianum) for the<br /> giá tính an toàn và hiệu lực thuốc Y học cổ Therapy of Liver Disease. The American<br /> truyền, Hà Nội. Journal of Gastroenterology, 93(2): 139-143.<br /> 2. Corrigan D., Duke J. A., Wright J., 2000. 9. Tran Hung, Nguyen Ngoc Hong, Huynh<br /> Principles and Practice of Phytotherapy, Ngọc Thuy, Ho Huynh Thuy Duong, 2010.<br /> Churchill Livingstone. Antioxidant and hepatoprotective effects of<br /> 3. Dianzani M. U., Muzia G., Biocca M. E., Polygonum tomemtosum on damage liver<br /> Canuto R. A., 1991. Lipid peroxidation in mice induced by carbon tetrachloride.<br /> fatty liver induced by caffeine in rats. Tạp chí Dược liệu, 2: 99-105.<br /> International journal of tissue reactions, 13: 10. Tran Hung, Nguyen Ngoc Hong, Huynh<br /> 79-85. Ngọc Thuy, Ho Huynh Thuy Duong, 2010.<br /> 4. Đại học quốc gia Hà Nội, Trung tâm Khoa Antioxidant and hepatoprotective effects of<br /> học tự nhiên và Công nghệ quốc gia, 2003. Orthosiphon aristatus on damage liver mice<br /> Danh lục các loài thực vật Việt Nam, tập II. induced by carbon tetrachloride, Tạp chí<br /> <br /> <br /> 317<br /> Nguyen Ngoc Hong, Huynh Ngoc Thuy<br /> <br /> Dược liệu, 3: 157-163. Orthosiphon stamineus aqueous extract on<br /> 11. Kumar V., Cotran R. S., Robbins S. L., plasma glucose concentration and lipid<br /> 1992. Cell injury and adaptation; 5th ed. profile in normal and streptozotocin-induced<br /> Bangalore. India: Prime Books Publ, 3-24. diabetic rats. Journal Ethnopharmacology,<br /> 109(3): 510-514.<br /> 12. Rana A. C. and Avadhoot Y., 1992.,<br /> Experimental evaluation of hepatoprotective 15. Viện Dược liệu, 2004. Cây thuốc và động<br /> activity of Gymnema sylvestre and Curcuma vật làm thuốc ở Việt Nam, tập 2. Nxb. Khoa<br /> zedoaria. Fitoterapia, 63: 60-63. học và Kỹ thuật, Hà Nội.<br /> 13. Shahani S., 1999. Evaluation of 16. Vogels B. A., Karlsen O. T., Mass M. A.,<br /> hepatoprotective efficacy of APCL-A Boveé W. M., Chamuleau R. A., 1997. L-<br /> polyherbal formulation in vivo in rats. ornithine vs. L-ornithine-L-aspartate as a<br /> Indian Drugs, 36: 628-631. treatment for hyperammonemia-induced<br /> encephalopathy in rats. Journal of<br /> 14. Sriplang K., Adisakwattana S., Rungsipipat<br /> Hepatology, 26(1): 174-178.<br /> A., Yibchok-Anun S., 2007. Effects of<br /> <br /> <br /> HEPATOPROTECTIVE EFFECTS OF ETHYL ACETATE EXTRACTS<br /> OF Polygonum tomentosum Willd. AND Orthosiphon aristatus (Blume.) Miq.<br /> AGAINST CARBON TETRACHLORIDE INDUCED CHRONIC TOXICITY<br /> <br /> Nguyen Ngoc Hong1, Huynh Ngoc Thuy2<br /> (1)<br /> Ho Chi Minh city University of Technology<br /> (2)<br /> University of Medicine and Pharmacy, Ho Chi Minh city<br /> <br /> SUMMARY<br /> <br /> Orthosiphon aristatus Blume. is a medicinal herb useful as a diuretic agent, used popularly in Vietnam<br /> and in the world. Polygonum tomentosum Willd. is a perennial herb growing in marshy areas, along ditches<br /> and field margins in Vietnam, but the efficacy of this herb in treatment of diseases remains unknown. The<br /> purpose of the present study was to examine the ethyl acetate extracts of O. aristatus and P. tomentosum<br /> against chronic carbon tetrachloride (CCl4) induced liver damage for 8 weeks. The hepatoprotective effects of<br /> these extracts were found comparable to that of silymarin, a hepatoprotective agent against hepatotoxicity of<br /> various chemicals. At the dose of 16 mg/kg, ethyl acetate extract of O. aristatus showed protective effect<br /> against CCl4 damage on liver with ALT activity was decreased 55% compared to toxic group, which was<br /> equivalently compared with silymarin at the same dose. Ethyl acetate extract of P. tomentosum reduced 65%<br /> ALT activity in serum of chronic CCl4 induced hepatotocity in mice, this result revealed that ethyl acetate<br /> extract of Polygonum tomentosum had a better hepatoprotective activity than silymarin at the dose of 16<br /> mg/kg. The results of the present study indicate that P. tomentosum and O. aristatus are potential sources of<br /> natural hepatoprotection<br /> Keywords: Orthosiphon aristatus, Polygonum tomentosum, ALT, CCl4, hepatoprotective effect, ethyl<br /> acetat extract.<br /> <br /> Ngày nhận bài: 21-6-2012<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 318<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0