
Ca dao về những ngôi chùa

Các ngôi chùa ở Việt Nam không đồ sộ nguy nga như các chùa ở Ấn Độ, Trung
Hoa, Thái Lan và Cao Miên; nhưng rải rác đó đây, đâu đâu cũng có chùa. Từ
những thảo am trong thôn xóm hẻo lánh đến những ngôi chùa kiến trúc bằng
những vật liệu kiên cố tại các đô thị, tất cả đều mang sắc thái gọn nhẹ, thanh thoát
và tịch mịch. Thiên nhiên đã tô điểm cho cảnh chùa và ngược lại chùa chiền cũng
làm tôn vẻ đẹp của thiên nhiên.
Chùa ở Việt Nam không chỉ là chỗ tôn nghiêm thờ phượng để bổn đạo đến lễ Phật
mà còn là nơi tụ họp của dân chúng vào những dịp lễ như hành hương, rước đảo
vũ, chay đàn, đổ giàn..., thậm chí cả những cuộc vui chơi như bài chòi, hát bội
cũng có khi tổ chức tại sân chùa. Dân chúng đến đình làng phải khép nép vì sợ có
sự phân biệt rõ ràng giữa thứ dân với hào mục, ngay cả trong hàng quan lại về làng
cũng phân biệt nhau theo học vị và phẩm trật. Lệ làng, kẻ có chức tước bao giờ
cũng được ăn trên ngồi trốc. Trái lại, cửa thiền luôn luôn rộng mở, chúng sinh
được bình đẳng an vui, vì vậy chùa chiền rất gần gũi với dân chúng.
Qua ca dao, dân làng bày tỏ tình cảm quyến luyến với chùa chiền:
Dù ai buôn đâu bán đâu,
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề,

Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.
và cảm thấy mất mát khi xa cách:
Vì ai nên nỗi sầu này
Chùa Tiên vắng vẻ, tớ thầy xa nhau.
Chùa ở Bắc Ninh
Ngôi chùa xưa nhất và cũng là ngôi chùa đầu tiên của Việt Nam có từ thế kỷ thứ 2
sau Tây lịch (thời Sĩ Nhiếp) là chùa Dâu. Chùa được dựng gần nha môn Sĩ Vương,
nơi có thành Luy Lâu là thủ phủ của xứ Giao Chỉ (đời Đông Hán) sau đổi là Giao
Châu (đời Tam Quốc). Nay chùa thuộc làng Khương Tự, xã Thanh Khương, huyện
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội chừng 30 km.
Chùa Dâu tên chữ là Thiền Định tự (thời Lý Trần) hay Diên Ứng và Pháp Vân, vì
trong chùa có thờ tượng bà Pháp Vân, vị thần nổi tiếng cầu mưa rất linh ứng, là
một trong Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Tuy chùa có nhiều
tên chữ, nhưng dân chúng vẫn quen gọi tên nôm là chùa Dâu. Có sách cho rằng đó
là do tượng bà Man Nương, người sáng lập ngôi chùa này, được tạc bằng gỗ dâu.

Sách khác viết rằng vì trước mặt chùa có sông Dâu cũng như tọa lạc trên làng Dâu
nên tên chùa được gọi theo đấy.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư (1) và các tài liệu khác, chùa Dâu được xây cất lại và
được trùng tu nhiều lần. Năm Tân Tị (1161) đời Lý Anh Tông (1138-1175), chùa
Dâu được xây cất lại. Đến cuối thế kỷ 13, Mạc Đỉnh Chi (1280-1350) sửa sang và
dựng tháp 9 tầng, xây cầu 9 nhịp. Tháp cao đến nỗi: “Dù ai buôn đâu bán đâu, hễ
trông thấy tháp chùa Dâu thì về”. Ngày nay, tháp chỉ còn có 3 tầng, nhờ tấm bia
bằng đá xanh dựng nơi chân tháp, người ta mới biết được tháp này có tên là Hòa
Phong, tái thiết vào năm Mậu Ngọ (1738) đời Lê Ý Tông (1735-1740) do Thiền sư
Tính Mộ và đệ tử xây dựng trên nền tháp cũ đã đổ nát và chùa cũng được sửa chữa
vào dịp này. Đến năm 1917, chùa được trùng tu một lần nữa.
Hằng năm, hội Dâu mở vào ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch. Lễ hội có những đám
rước rất lớn, cờ lọng rợp trời, kèn chiêng trống tưng bừng. Theo Chùa xưa tích cũ
của Nguyễn Bá Lăng, dân chúng 11 xã trong tổng Khương Tự tham gia lễ hội từ
mồng 8 đến mồng 10. Đầu tiên là đám rước Sĩ Nhiếp cùng vương nữ là Ngọc Tiên
công chúa đến chùa Dâu làm lễ, xong rước về bản đền ở làng Lũng Khê. Cũng
trong ngày mồng 8, ba đám rước cùng lúc các tượng Pháp Vũ ở chùa Thành Đạo
làng Đông Cốc, tượng Pháp Lôi ở chùa Phi Tương làng Thanh Tương, và tượng
Pháp Diện ở chùa Trí Quả làng Phương Quan đến chùa Dâu, hội cùng với tượng

Pháp Vân. Sau đó rước cả 4 vị đến chùa Mãn Xá bên kia sông Dâu, làm lễ kính yết
bà Man Nương. Xong, rước 4 tượng về lại chùa Dâu nghỉ đêm. Sáng mồng 9, lại
rước Tứ Pháp đến đền Sĩ Nhiếp làm lễ, sau đó rước đi trình diễn khắp tổng, chiều
tối lại rước về nghỉ ở chùa Dâu. Ngày mồng 10, rước 3 tượng Pháp Vũ, Pháp Lôi
và Pháp Điện trở về chùa riêng của mỗi vị.
Bắc Ninh không những có trung tâm Phật giáo Luy Lâu được hình thành sớm hơn
cả hai trung tâm Phật giáo đầu tiên của Trung Hoa là Bình Thành và Lạc Dương
(kinh đô nhà Hán, bên sông Hoàng Hà), Bắc Ninh còn là nơi được xây nhiều chùa
chiền dưới thời Lý. Theo Đại Nam nhất thống chí (2) và các tài liệu khác thì ở tổng
Lãm Sơn có 16 xã nằm quanh khu núi đồi, cảnh trí sông núi âm u tịch mịch nên có
nhiều chùa cổ. Nơi sườn núi phía nam thuộc xã Nam Sơn có chùa Đại Lãm, tục gọi
là chùa Dạm. Năm 1086, Lý Nhân Tông cho dựng chùa. Năm sau (Quang Hựu thứ
3), nhà vua ngự giá khánh thành. Vua mở tiệc đêm tại chùa, đãi yến các quan và
chính nhà vua làm 2 bài thơ Lãm Sơn dạ yến. Năm Long Phù thứ 5 (1105), Nhân
Tông còn dựng 3 tháp bằng đá tại chùa này. Chùa đã đổ nát từ lâu, nay chỉ còn lại
vết tích 4 lớp nền xẻ vào sườn núi với vài dấu vết nền đá và một cây cột đá lớn
dựng ở lối lên bên phải của bậc nền thứ hai, chứng tỏ chùa được xây trên một diện
tích bề dài khoảng 120 mét, bề rộng 70 mét.

