
Luật Ngoại giao và lãnh sự

Cùng với sự xuất hiện của nhà nước, những mối quan hệ bang giao giữa các
quốc gia được hình thành một cách khách quan. Thời gian đầu (Chế độ nhà
nước chiếm hữu nô lệ) Các mối quan hệ này chủ yếu mang tính khu vực, bó
hẹp trong phạm vi một số các quốc gia trong cùng khu vực địa lý nhất định.
Các quốc gia thúc đẩy mối quan hệ láng giềng thân thiện thông qua các sứ
giả, sứ thần đại diện cho nước mình hoặc cho nhà vua, thực hiện một số
chức năng nhiệm vụ nhất định như thương thuyết, thoả thuận những vấn đề
chiến tranh, hoà bình, thành lập liên minh, xúc tiến thương mại, thực hiện
các nhiệm vụ đặc biệt khác… Một trong những nguyên tắc cổ điển của Luật
ngoại giao và lãnh sự được hình thành trong thời kỳ này là việc sứ giả, sứ
thần được hưởng quyền bất khả xâm phạm ở nước mà họ được cử tới.
Nguyên tắc đó được củng cố và phát triển cùng với sự phát triển của luật
ngoại giao và lãnh sự - một trong các ngành cổ điển nhất của Luật quốc tế,
đóng vai trò là nguyên tắc quan trọng trong ngành luật này.
Luật ngoại giao và lãnh sự thực sự phát triển mạnh mẽ khi ở châu Âu xuất
hiện các cơ quan đại diện ngoại giao thường trực ở nước ngoài (Thế kỷ XVI
- XVII). Cơ quan lãnh sự mặc dù ra đời sớm hơn cơ quan đại diện ngoại
giao (Thế kỷ thứ III T.C.N ở Hi Lạp cổ đại) nhưng chỉ tăng cường chức
năng của mình vào thời kỳ phong kiến ở Châu Âu.
Hiện nay, trong xu thế hội nhập, quan hệ ngoại giao và lãnh sự giữa các
quốc gia ngày càng phát triển mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển quan hệ
ngoại giao và lãnh sự chính là sự phát triển của hệ thống pháp luật điều
chỉnh quan hệ ngoại giao và lãnh sự giữa các nước như các điều ước quốc tế
song phương và đa phương giữa các quốc gia, các tập quán quốc tế ngày
càng được hình thành và củng cố, pháp luật của các quốc gia điều chỉnh vấn
đề quan hệ ngoại giao lãnh sự…

I. Khái niệm, các nguyên tắc của luật ngoại giao và lãnh sự
1. Khái niệm
Hoạt động ngoại giao, theo nghĩa chung nhất là hoạt động của các cơ quan
và những người đại diện của nhà nước dưới các hình thức quan hệ chính
thức với nước ngoài như tiến hành đàm phán, trao đổi văn kiện ngoại giao,
ký kết các điều ước quốc tế, tham gia các tổ chức quốc tế hay hội nghị quốc
tế, đặt các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài… để thực hiện mục
đích, yêu cầu của chính sách đối ngoại của nhà nước1.
Để điều chỉnh các mối quan hệ ngoại giao này, các quốc gia phải áp dụng
các quy phạm của luật ngoại giao và lãnh sự đã được hình thành và phát
triển cùng với sự phát triển của các mối quan hệ quốc tế
Luật ngoại giao và lãnh sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp
luật quốc tế, bao gồm tổng thể các nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc
tế điều chỉnh quan hệ về tổ chức và hoạt động của các cơ quan quan hệ đối
ngoại nhà nước cùng các thành viên của các cơ quan này, đồng thời cũng
điều chỉnh các vấn đề về quyền ưu đãi và miễn trừ của tổ chức quốc tế liên
Chính phủ cùng thành viên của nó.
Đối tượng điều chỉnh của luật Ngoại giao và lãnh sự là các quan hệ về:
- Tổ chức và hoạt động của các cơ quan quan hệ đối ngoại của nhà nước
cùng thành viên của nó;
- Các quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho các cơ quan quan hệ đối ngoại
của các quốc gia và các nhân viên của cơ quan đó;
- Hoạt động của các phái đoàn đại diện của các quốc gia trong quá trình
viếng thăm hoặc tham dự hội nghị quốc tế;
1 Đề cương giáo trình Luật Quốc tế - Bộ môn Luật - Học viện quan hệ quốc tế

- Hoạt động của các tổ chức quốc tế liên chính phủ và các quyền ưu đãi,
miễn trừ dành cho các tổ chức này cũng như các thành viên của tổ chức tại
lãnh thổ của các quốc gia.
2. Các nguyên tắc của luật Ngoại giao và lãnh sự
Bên cạnh các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế chi phối toàn bộ các quan
hệ trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế thì mỗi ngành luật lại có hệ
thống các nguyên tắc đặc thù của mình. Trong quan hệ ngoại giao lãnh sự,
các quốc gia cũng phải tuân thủ các nguyên tắc đặc thù của luật ngoại giao
và lãnh sự.
a. Nguyên tắc Bình đẳng, không phân biệt đối xử
Xuất phát từ nguyên tắc Bình đẳng giữa các quốc gia có chủ quyền, quan hệ
ngoại giao và lãnh sự là quan hệ bình đẳng trên cơ sở chủ quyền. Sự bình
đẳng này thể hiện ở chỗ không cho phép có bất cứ sự phân biệt đối xử nào
giữa các nước có chế độ chính trị - xã hội và vị trí địa lý, kinh tế, chính trị
khác nhau. Đối xử trọng thị và bình đẳng là đặc thù của loại hình quan hệ
hợp tác về ngoại giao và lãnh sự.
Cơ sở pháp lý: Điều 47 Công ước Viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao:
“Trong khi thi hành những điều khoản của Công ước này, nước nhận dại
diện không được có sự phân biệt đối xử giữa các nước”. Tuy nhiên, Điểm b
Khoản 2 của Điều này cũng chỉ rõ rằng việc các nước cho nhau hưởng theo
tập quán hoặc theo sự thoả thuận với nhau một sự đối xử thuận lợi những
điều kiện trong Công ước thì cũng không bị coi là phân biệt đối xử.
b. Nguyên tắc thoả thuận
Thoả thuận là nguyên tắc được áp dụng triệt để nhất trong quan hệ ngoại
giao lãnh sự. Các hoạt động thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ lãnh sự và
cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, bổ nhiệm người đứng đầu các

cơ quan này giữa nước cử đại diện và nước nhận đại diện đều phải thông
qua quá trình trao đổi thoả thuận để đi đến quyết định cuối cùng.
Cơ sở pháp lý: Điều 2, Điều 4 Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao;
Điều 2, Khoản 1 Điều 4, Điều 10 Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự.
c. Nguyên tắc tôn trọng quyền ưu đãi và miễn trừ của cơ quan đại diện
ngoại giao, cơ quan lãnh sự và thành viên của các cơ quan này.
Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng quyền miễn trừ của các quốc gia, trong
quan hệ ngoại giao và lãnh sự, nước nhận đại diện và tiếp nhận lãnh sự phải
tôn trọng quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao của cơ quan đại diện ngoại
giao, cơ quan lãnh sự. Các quyền ưu đãi và miễn trừ này xuất phát từ chủ
quyền quốc gia, được pháp luật quốc tế ghi nhận và đảm bảo thực hiện.
Quốc gia sở tại phải đối xử trọng thị với viên chức ngoại giao và viên chức
lãnh sự, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp
luật quốc tế để cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự được hưởng
đầy đủ quyền ưu đãi và miễn trừ trong khi thực hiện chức năng mà nhà
nước giao.
d. Nguyên tắc tôn trọng pháp luật và phong tục tập quán của nước sở
tại.
Hoạt động của các cơ quan và thành viên các cơ quan quan hệ đối ngoại của
nhà nước phải luôn phù hợp với luật pháp quốc tế, với pháp luật nước mình
và tôn trọng pháp luật cũng như phong tục, tập quán của nước sở tại. Tôn
trọng pháp luật, phong tục tập quán của nước sở tại là hành vi biểu hiện sự
tôn trọng chủ quyền quốc gia trong quan hệ quốc tế, đồng thời là việc làm
để xây dựng phát triển quan hệ hữu hảo giữa các quốc gia hữu quan.
e. Nguyên tắc có đi có lại
Nguyên tắc có đi có lại là nguyên tắc mang tính tập quán và truyền thống
trong quan hệ ngoại giao và lãnh sự. Nguyên tắc có đi có lại được xây dựng