intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tài liệu môn Công tác xã hội với người di cư và nạn nhân buôn bán người

Chia sẻ: Lê Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:105

142
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu trình bày những vấn đề chung về người di cư và nạn nhân buôn bán người; những vấn đề gặp phải và nhu cầu của người di cư và nạn nhân của buôn bán người; luật pháp, chính sách và các chương trình hỗ trợ người di cư và nạn nhân của buôn bán người; các hoạt động của công tác xã hội trợ giúp người di cư và nạn nhân bị buôn bán.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tài liệu môn Công tác xã hội với người di cư và nạn nhân buôn bán người

  1. 1. BỘ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ Xà HỘI ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI Chủ biên: NGUYỄN HIỆP THƯƠNG TÀI LIỆU MÔN CÔNG TÁC XàHỘI VỚI NGƯỜI DI CƯ VÀ  NẠN NHÂN BUÔN BÁN NGƯỜI 1|Page
  2. BÀI 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI DI CƯ VÀ NẠN NHÂN BUÔN BÁN NGƯỜI (Thời gian: 10 tiết) 1. Di cư 1. 1. Kiến thức cơ bản về người di cư  Di cư từ lâu đã trở thành mối quan tâm của hầu hết các quốc gia trên thế giới.  Sự di  chuyển của công dân của một nước trong phạm vi lãnh thổ hoặc qua biên giới quốc gia là  một trong những chủ đề quan trọng về chính sách, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Các dòng chảy của vốn, hàng hoá, thông tin qua biên giới giữa các quốc gia là điều không thể tránh khỏi. Cùng với những dòng chảy đó, các làn sóng lao động rời quê hương đi tìm những cơ hội kinh tế tốt hơn ngày càng gia tăng.. Có thể nói so với các nhân t ố bất  ổn chính trị, kinh tế ­ xã hội, chiến tranh, thảm họa thiên nhiên, biến đổi khí hậu thì các yếu tố kinh tế như thu nhập thấp, nghèo đói, thiếu việc làm và các lựa chọn mưu sinh là động lực chính trong quyết định di cư. Chênh lệch về mức sống, cơ hội có việc làm với thu nhậ p cao hơn ở trong nước đã thúc đẩy người dân di cư tìm những cơ hội mới, cho dù chỉ là tạm thời, ở nước ngoài. Di cư vì mục đích kinh tế là loại hình di cư nổi trội, đặc biệt trong điều k iện toàn cầu hoá và tự do kinh tế. Trong hơn hai thập kỷ qua, tranh thủ thời cơ thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, t hách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng khoảng tài chính khu vực v à toàn cầu, Việt Nam đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi, thế và lực của đấ t 2|Page
  3. nước vững mạnh thêm nhiều. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạ o ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước và nâng cao chất lượng sống của nhân dân. Trong  thời gian này, làn   sóng di  cư  của  lực  lượng  lao  động  từ  nông thôn ra thành thị và tới  các  khu  công nghiệp đã đóng một vai trò quan  trọng đáp  ứng  nhu  cầu lao  động,  đóng  góp  vào sự  nghiệp  phát  triển kinh  tế  xã  hội  ngày càng  lớn  của  Việt  Nam. Tuy nhiên, điều này dẫn  tới  tình trạng  di  cư  gia  tăng do  sự   chênh   lệch giữa  các  vùng  miền  và  giữa  khu  vực  nông thôn và thành thị ngày càng  lớn.  Cùng   với   quá   trình   mở   cửa   và   hội   nhập   quốc tế đã thúc đẩy nhu cầu và tạo điều kiện cho công dân Việt Nam đi lao động , học tập  , du lịch, làm việc và cư trú ở nước ngoài. Sau khi  Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại   Thế giới (WTO), nhu cầu đi lại, làm ăn, học tập, lao động, du lịch … của người dân ngày càng  phong phú. Mặc dù chưa được thống kê đầy đủ  nhưng số  lượng công dân Việt Nam hiện  đang lao động, học tập, sinh sống ở nước ngoài hiện đã lên đến nhiều triệu người. Thực tế  đang đặt ra những thách thức không nhỏ đối với người di dân cả trong nước và quốc tế, đó là   vấn đề an toàn, tiếp cận dịch vụ giáo dục, y tế, nhà ở, nghề nghiệp, thu nhập, chăm sóc, nuôi   dạy con cái… đòi hỏi phải có sự quan tâm, nghiên cứu để tìm ra phương pháp, cách thức trợ  giúp người di cư một cách phù hợp để đảm bảo những quyền cơ bản của họ.  1.1.1. Khái niệm  ­ Di cư Theo tổ chức Di cư quốc tế (IOM): Di cư là sự di chuyển của một người hay một   nhóm người, kể  cả  qua biên giới quốc tế  hay trong một quốc gia. Là sự  di chuyển dân   số, bao gồm bất kể  loại di chuyển nào của con người, bất kể  độ  dài, thành phần hay  nguyên nhân; nó bao gồm di cư của người tị nạn, người lánh nạn, người di cư kinh tế và   những người di chuyển  vì những mục đích khác, trong đó có đoàn tụ gia đình.1 ­ Người di cư Theo IOM thuật ngữ “ người di cư” thường được hiểu bao hàm mọi trường hợp di  cư  do cá nhân tự  quyết đinh vì lý do “tiện ích cá nhân” mà không có sự  can thiệp của   1  Giải thích thuật ngữ về di cư – Luật di cư quốc tế tái bản lần 2, Hà Nội, 2011. 3|Page
  4. nhân tố bắt buộc bên ngoài. Điều này cũng được áp dụng  đối với những người và thành   viên gia đình di chuyển tới một nước hoặc một vùng lãnh thổ để cải thiện điều kiện xã  hội và vật chất của họ.  1.1.2. Các hình thức di cư. Có nhiều cách phân loại các hình thức di cư:  ­ Căn cứ vào phạm vi di cư thì có hình thức di cư trong nước ­ di cư quốc tế; +Di cư trong nước:  sự di chuyển người từ nơi này sang nơi khác trong một đất nước nhằm tạo lập một nơi  cư trú mới. Việc di cư này có thể làm tạm thời hoặc lâu dài. Người di cư  trong nước di   chuyển nhưng vẫn trong nước đó như di cư từ nông thôn ra thành thị, từ khu vực này đến  khu vực khác.... +Di cư quốc tế: Sự di chuyển những người rời nước gốc hoặc nước cư trú thường  xuyên để  tạo  lập cuộc sống mới tại nước khác kể cả  tạm thời hoặc lâu dài như  đi học tập, lao động,   sinh sống ở nước ngoài. ­ Căn cứ vào thời gian di cư thì có di cư thời vụ­ di cư ngắn hạn – di cư dài hạn + Di cư thời vụ:  Là hình thức di cư đi lao động, tìm kiếm việc làm mà đặc điểm công việc, việc  làm phụ thuộc vào điều kiện mùa vụ và chỉ được thực hiện trong một phần của năm.. + Di cư ngắn hạn: Là hình thức  di chuyển đến một nơi mà không phải nơi mình cư trú thường xuyên   trong khoảng thời gian ít nhất ba tháng nhưng chưa tới một năm, trừ  trường hợp di  chuyển vì mục đích giải trí, nghỉ lễ, thăm họ hàng, bạn bè, đi công việc hoặc chữa bệnh.. + Di cư dài hạn: Là hình thức mà người di cư chuyển đến một nơi không phải là nơi cư trú thường  của học trong khoảng thời gian ít nhất một năm, do đó nơi đến trở  thành nơi cư  trú  thường xuyên  mới của họ. 4|Page
  5. ­ Căn cứ  vào mục đích di cư có hình thức di cư lao động­ di cư hôn nhân, đoàn   tụ gia đình –  buôn bán người. + Di cư lao động: Sự di chuyển từ nơi này sang nơi khác (có thể trong phạm vi quốc gia hoặc  quốc gia khác) với mục đích lao động, tìm kiếm việc làm để  cải thiện, nâng cao  đời sống.  + Di cư hôn nhân – đoàn tụ gia đình: Sự  di chuyển  từ  nơi này đến một nơi khác vì lí do hôn nhân hoặc một gia đình  được  tái hợp sau một thời  gian bị  chia  cắt qua việc  di cư  c ưỡng bức hay t ự  nguyện tại một nơi không phải là nơi ở gốc của họ. Như đi lấy chồng Hàn Quốc,  Đài Loan, di cư sang Mỹ đoàn tụ gia đình sau chiến tranh... + Buôn bán người ( xem phần 2) ­ Căn cứ  vào luật pháp thì có hình thức di cư  hợp pháp – không hợp pháp (bất   hợp pháp) + Di cư hợp pháp: Là hình thức di cư diễn ra theo kênh hợp pháp và được công nhận, là hoạt  động di cư  có tổ  chức, được thực hiện bởi cơ  quan có thẩm quyền nhằm đảm  bảo an toàn, tránh nguy cơ rủi ro cho người di cư. Như di cư đi xây dựng khu kinh  tế mới, xuất khẩu lao động.. + Di cư không hợp pháp:  Là hình thức di cư đến nơi cư  trú mới không theo kênh hợp pháp và không được  công nhận, không phù hợp với quy định của luật pháp nơi đi hay nơi đến. Như  di cư  tự  do đến các vùng không theo quy định của nhà nước, di cư trái phép qua biên giới ( vượt  biên), buôn bán người....Di cư không hợp pháp có thể  dẫn đến  sự  không an toàn, nhiều  nguy cơ và rủi ro cao đối với người di cư.. Từ cách hiểu về thuật ngữ di cư hợp pháp và không hợp pháp có thể xác định thuật ngữ  di cư an toàn và di cư không an toàn. 5|Page
  6. + Di cư an toàn Di cư an toan tr ̀ ươc hêt phai la di c ́ ́ ̉ ̀ ư co tô ch ́ ̉ ức, di cư hợp phap. ́   Ngươi tham gia di ̀   cư phai đ ̉ ược tư vân vê nh ́ ̀ ững điêu kiên cân thiêt, thâm chi băt buôc phai co tr ̀ ̣ ̀ ́ ̣ ́ ́ ̣ ̉ ́ ước khi tiên ́  hanh di c ̀ ư: ̉ ́ ̀ ững thu tuc hanh chinh va cac loai hô s Hiêu biêt vê nh ̉ ̣ ̀ ́ ̀ ́ ̣ ̀ ơ giây t ́ ờ cân thiêt cua ng ̀ ́ ̉ ười  muôn di c ́ ư. ́ ược nhưng thông tin c Năm đ ̃ ơ ban vê n ̉ ̀ ơi cư tru m ́ ơi.́ Được đao tao vê ̀ ̣ ̣ ̣ ̀  chuyên môn nghê nghiêp hoăc ngoai ng ̀ ̣ ư... ̃ Được thông tin vê nh ̀ ưng nguy c ̃ ơ, cam bây, tinh huông... co thê xay ra, găp phai ̣ ̃ ̀ ́ ́ ̉ ̉ ̣ ̉  trên con đường di cư, tai n ̣ ơi cư tru ḿ ơi... ́ Được trang bi môt sô ky năng s ̣ ̣ ́ ̃ ống để phòng ngừa và xử ly cac tinh huông bât ng ́ ́ ̀ ́ ́ ơ ̀ ̉ ̣ ̉ ̣ ́ ̉ ự bao vê ban thân tr xay ra trong cuôc sông đê ho co thê t ́ ̉ ̣ ̉ ươc khi nh ́ ờ đên cac c ́ ́ ơ quan luâṭ   phap.́  + Di cư không an toàn Di cư không an toan la quá trình di c ̀ ̀ ư  trong đó người tham gia di cư  không được   thực hiên nh ̣ ưng yêu câu tôi thiêu nêu trên.Vi vây nguy c ̃ ̀ ́ ̉ ̀ ̣ ơ găp rui ro kha cao va chinh hiên ̣ ̉ ́ ̀ ́ ̣   tượng nay đa tao điêu kiên cho nan buôn ng ̀ ̃ ̣ ̀ ̣ ̣ ười ngay cang phat triên. ̀ ̀ ́ ̉            Thực tê cho thây nhiêu ng ́ ́ ̀ ươi di c ̀ ư đa biêt ro con đ ̃ ́ ̃ ường cua minh không an toan ̉ ̀ ̀  nhưng vân quyêt đinh dân thân va kêt qua la thât bai, r ̃ ́ ̣ ́ ̀ ́ ̉ ̀ ́ ̣ ơi vao đ̀ ường dây buôn ban ng ́ ười.  ́ ượng nay phân l Đôi t ̀ ̀ ớn la phu n ̀ ̣ ữ va tre em. ̀ ̉ 1.2. Tình hình di cư ở Việt Nam hiện nay 1.2.1. Thực trạng di cư ở Việt Nam 1.2.1.1. Thực trạng di cư trong nước Theo báo cáo của Liên hợp quốc về tình hinh di cư trong nước ở Việt Nam dựa trên kết   quả tổng điều tra dân số 2009 như sau: Dân  di cư giữa các tỉnh tăng từ 1,3 triệu người năm 1989 lên 2 triệu người năm 1999  và lên 3,4 triệu người năm 2009. Nữ giới chiếm trên một nửa số dân di cư ở hầu hết các nhóm dân di cư.  6|Page
  7. Đa số dân di cư, đặc biệt là dân di cư liên tỉnh, thuộc nhóm tuổi từ 15 đến 29 tuổi.   Tỷ lệ đang học tiểu học và trung học cơ sở ở nhóm trẻ em di cư thấp hơn đáng kể so   với nhóm trẻ em không di cư. Cụ thể: ­ Di cư, đặc biệt là di cư  giữa các tỉnh đã tăng  mạnh cả  về  số  lượng và tỷ  lệ   hơn hẳn so với thập kỷ trước đó Di cư giữa các tỉnh hay nói cách khác di cư từ  tỉnh này sang tỉnh khác tăng từ 1,3 triệu   người năm 1989 lên 2 triệu người năm 1999 và lên 3,4 triệu người năm 2009 . Một dự báo  dân số đơn giản cho thấy, tất cả các dòng di cư  sẽ tăng lên và cụ  thể là dòng dân di cư  giữa các tỉnh sẽ tăng lên gần 6 triệu người, chiếm 6,4% tổng dân số vào năm 2019 ­ Hiện tượng “nữ hóa di cư"  Số liệu tổng điều tra cho thấy nữ giới chiếm trên một nửa số dân di cư ở hầu hết các  nhóm dân di cư. Hơn nữa, tỷ lệ nữ trong nhóm dân di cư  tăng, trong khi  tỷ  lệ này trong  nhóm không di cư  lại giảm qua  ba thập kỷ  gần đây. Nữ  giới cũng  có xu hướng di cư  nhiều hơn ở các cấp hành chính thấp hơn (chẳng hạn di cư giữa các xã nhiều hơn di cư  giữa các tỉnh). ­ Di cư từ các địa phương khác ra thành phố lớn tăng cao và có sự khác biệt về   luồng di cư giữa các vùng và các tỉnh Số liệu tổng điều tra cho thấy các đô thị  đông dân cũng chính là những nơi có nhiều  người nhập cư. Ngoại trừ một số tỉnh là nơi tập trung các khu công nghiệp, những tỉnh   có tỷ trọng dân nhập cư cao là những tỉnh có tỷ trọng dân số thành thị cao và ngược lại.   Các khu vực có tỷ lệ đô thị hoá cao cũng là nơi có tỷ lệ dân nhập cư cao; các đô thị đặc   biệt bao gồm các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương có tỷ trọng dân nhập cư cao nhất. Vùng Đông Nam Bộ  là vùng nhập cư  chủ  yếu và tăng nhanh hơn trong giai đoạn   2004­2009. Ngược lại, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung và vùng Đồng bằng  sông Cửu Long là nơi xuất cư  chủ  yếu và cũng tăng nhanh hơn trong giai đoạn 2004­ 2009. Tổng TĐT năm 2009 cho thấy dân nhập cư chiếm tới trên 10% tổng số dân ở một  số tỉnh; đặc biệt, trên một phần ba số dân của tỉnh Bình Dương là người nhập cư. Thành   phố Hồ Chí Minh có khoảng một triệu người và Bình Dương có khoảng nửa triệu người   nhập cư thuần. 7|Page
  8. ­ Di cư   từ  nông thôn ra thành thị  làm gia tăng khoảng cách giữa nông thôn và   thành thị Số liệu TĐT dân số và nhà ở cho thấy dân không di cư sống  ở thành thị có nhiều lợi   thế  hơn dân không di cư  sống  ở nông thôn: dân không di cư  sống  ở  thành thị  được đào  tạo cao hơn, mức sống cao hơn, tỷ lệ người lớn đã hoàn thành bậc tiểu học cao hơn, tỷ  lệ  sử  dụng nguồn nước sạch và hố  xí hợp vệ  sinh cao hơn. Các kết quả  cũng cho thấy  dân di cư từ nông thôn ra thành thị có nhiều lợi thế hơn dân không di cư sống ở nông thôn   và đôi khi hơn cả dân không di cư sống ở thành thị. Một mặt, các kết quả TĐT cho thấy   chất lượng sống của dân di cư từ nông thôn ra thành thị  có những cải thiện đáng kể  sau  di cư  do điều kiện sống  ở khu vực thành thị  cao hơn hẳn khu vực nông thôn. Mặt khác,  các kết quả  trên phần nào bị   ảnh hưởng bởi tính chọn lọc của dân di cư: dân di cư  từ  nông thôn ra thành thị là những người khá giả hơn và có trình độ văn hóa và chuyên môn  kỹ thuật cao hơn những người không di cư ở nông thôn nơi họ ra đi.  Tính chọn lọc của  di cư này góp phần làm gia tăng khoảng cách giữa nông thôn và thành thị thông qua di cư. ­ Di cư  có  ảnh hưởng  đến tiếp cận giáo dục của trẻ  em di cư  trong độ  tuổi   đến trường Số  liệu điều tra dân số cho thấy tỷ lệ đang học tiểu học và trung học cơ sở của trẻ  em trong độ tuổi đến trường này ở nhóm trẻ em di cư thấp hơn đáng kể so với nhóm trẻ  em không di cư. Khác biệt rõ ràng và lớn nhất được tìm thấy trong nhóm trẻ  em di cư  giữa các tỉnh. Từ  thực trạng về  tình hình di cư  trong nước của Việt Nam báo cáo cũng chỉ  ra một   khuyến nghị: ­ Dân di cư đã và đang tăng nhanh và chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng dân số.   Các cơ quan bộ ngành ở trung ương và  địa phương khi  xây dựng các kế hoạch và chính   sách phát triển kinh tế ­ xã hội ở trung ương và địa phương cần quan tâm nhiều hơn đến  số  lượng và đặc điểm dân di cư. Mặt khác, các chiến lược nhằm giúp cải thiện cuộc   sống và phát triển nhân lực dành cho người dân di cư  cần phải được lồng ghép vào tất  cả các chính sách, kể cả các kế hoạch phân bổ ngân sách có liên quan.   ­ Để  giảm sự  cách biệt về điều kiện sống giữa nơi đi và nơi đến của dân di cư,   các chính sách phát triển quốc gia và phát triển vùng cần phát huy tối đa những lợi ích do  8|Page
  9. di cư mang lại và giảm thiểu những ảnh hưởng bất lợi và những khó khăn mà người dân  nơi đi phải đối mặt.  ­ Mặt khác cũng cần chú ý rằng hình thái dân số  già hóa đã quan sát được trong  nhóm di cư và không di cư ở nơi đến: Nơi đến nhận được nhiều lao động trẻ thông qua  di cư trong khi nơi đi phải đối mặt với già hóa dân số  và những hệ  quả của nó như  gia  tăng tỷ lệ phụ thuộc, tăng hỗ trợ an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cho người già. Vì  vậy, việc phân bổ  ngân sách quốc gia cho các tỉnh cần tính đến các yếu tố  này nhằm   giảm bớt sự cách biệt giữa nông thôn và đô thị, giữa nơi đi và nơi đến. ­ Cần phải cân nhắc việc sửa đổi các chính sách giáo dục để  tạo cơ  hội đến   trường bình đẳng cho trẻ em di cư và không di cư. Tương tự, các chính sách tiếp cận đến   các dịch vụ xã hội khác cần được chỉnh sửa để dỡ bỏ các rào cản trong việc tiếp cận các  dịch vụ xã hội của người di cư tại nơi đến.  1.2.1.2. Thực trạng di cư ra nước ngoài Theo báo cáo của Bộ Ngoại Giao về tổng quan tình hinh di cư của công dân Việt   Nam ra nước ngoài tháng 12/2011, thì có những hình thái di cư  chủ  yếu sau: Di cư  lao   động; di cư du học; di cư hôn nhân – gia đình; buôn bán người. Cụ thể :  ­ Về di cư lao động: Theo báo cáo hiện có khoảng 500.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại hơn 40   nước và vùng lãnh thổ, với khoảng hơn 30 ngành nghề khác nhau từ  lao động đơn giản   đến lao động kỹ  thuật cao. Bình quân mỗi năm Việt Nam đưa được 80.000 lao động đi  làm việc. Có 4 hình thức chủ yếu đưa người lao động đi làm việc tại nước ngoài là: Qua   doanh nghiệp dịch vụ hoặc các tổ chức sự nghiệp được phép đưa người lao động đi làm  việc  ở  nước ngoài; qua doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu, đầu tư  ra nước ngoài, qua   doanh nghiệp đưa người đi làm việc dưới hình thức thực tập sinh nâng cao tay nghề; qua  hợp đồng cá nhân. Trong đó chủ yếu đi theo hình thức các doanh nghiệp  và các tổ  chức   sự nghiệp có chức năng và được cấp phép đưa lao động đi làm việc tại nước ngoài. Nhìn chung, lao động Việt Nam được thị trường nước ngoài chấp nhận,thu nhập của  lao động của Việt Nam ở nước ngoài tương đối ổn định cao hơn ở trong nước khoảng 2  – 3 lần so với cùng trình độ, ngành nghề. Do vậy trong những năm sắp tới, xu hướng   9|Page
  10. người lao động Việt Nam đi lao động ở nước  ngoài vẫn còn nhu cầu lớn và vẫn có thể  gia tăng. ­ Di cư du học: Du học sinh Việt Nam hiện nay có mặt tại 50 quốc gia, vùng lãnh thổ  với con số  trên  100.000  người. Trong đó 90% là học sinh đi học tự túc, còn 10% còn lại có học bổng từ  các nguồn tài chính khác nhau của nhà nước, doanh nghiệp, các tổ  chức chính phủ, phi  chính phủ. Sự  lựa chọn các nước đến học tập do nhiều yếu tố quy định. Ngoài yếu tố  về học phí, trình độ phát triển, khoảng cách địa lý thì còn tùy thuộc vào ngành nghề học   tập, đào tạo và tâm lý của gia đình và du học sinh. Tuy nhiên các nước du học sinh lựa  chọn  nhiều  là  Australia,   Canada,   Hoa   Kỳ,   Newzeland,  Singapores,  Nhật,   Pháp,   Trung  Quốc… Hiện nay, xu hướng các du học sinh, đặc biệt là các du học sinh tự túc là được ở  lại các nước học tập làm việc, đặc biệt các nước châu âu, bắc mỹ, một số nước châu á   có nền kinh tế phát triển.Vì thế, để làm tốt hơn nữa công tác đào tạo, thu hút nguồn nhân  lực chất lượng cao đòi hỏi chúng ta cần có cơ chế, chính sách phương thức kết  nối, tiếp   cận được với du học sinh Việt Nam trên toàn thế giới để có thể nắm bắt đầy đủ số liệu,   tình hình cụ thể, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của du học sinh và có sự  bảo hộ  cần thiết đối với họ. ­ Di cư hôn nhân – gia đình: Ở Việt Nam, hôn nhân quốc tế hay hôn nhân có yếu tố nước ngoài là một vấn đề  phổ biến, báo cáo của Bộ Tư Pháp, từ năm 2005 – 2010 số công dân Việt Nam kết hôn   với người nước ngoài là 133.289 người. Mặc dù việc các nước mà công dân Việt Nam   kết hôn khoảng 50 quốc gia và vùng lãnh thổ, tuy nhiên tập trung chủ yếu là kết hôn với   công dân Hàn Quốc, Đài Loan ( Trung Quốc). Bên cạnh việc hôn nhân tự  nguyện, đúng   luật pháp thì vẫn còn nhiều hiện tượng kết hôn mang tính chất thương mại, trái pháp   luật. Mặc dù  các cơ quan chức năng đã cố gắng thực hiện những hoạt động, các chính  sách để đưa hoạt động này vào quy củ, tuy nhiên việc kết hôn không hợp pháp, trái pháp   luật, mang tính chất thương mại vẫn đang có chiều hướng gia tăng… Điều này dẫn đến  nhiều nguy cơ tiềm ẩn cho những công dân Việt Nam ( đặc biệt là phụ nữ) khi kết hôn   với công dân nước ngoài. 10 | P a g e
  11. 2. Nạn nhân của buôn bán người 2.1. Kiến thức cơ bản về nạn nhân của buôn bán người  2.1.1. Khái niệm  * Buôn bán người Nạn buôn người là hoạt động thương mại bất hợp pháp và trở  thành ngành công   nghiệp tội phạm lớn thứ ba trên thế giới sau ma túy và mua bán vũ khí. Trong nhiều năm  qua, thuật ngữ  “buôn bán người” hay “buôn người” đã được sử  dụng như  những thuật   ngữ  bao trùm cho các hoạt động có liên quan khi một người khống chế  hoặc giữ  một   người khác để  buộc họ  phải làm việc. Nạn nhân của hoạt động buôn người bất kể  trước đó họ đã từng đồng ý, hay bị lừa gạt, cưỡng ép thì đều rơi vào tình trạng bị bóc lột   hay rơi vào cảnh nô lệ.   Theo điều 3, Nghị  Định thư  của Liên Hợp Quốc về  phòng,  chống và trừng phạt việc buôn bán người, đặc biệt là phụ  nữ  và trẻ  em bổ  sung cho  Công ước Liên Hợp Quốc về chống Tội phạm Có tổ chức Xuyên quốc gia thì việc buôn   bán người bao gồm: "các hình thức tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp,   tiếp nhận người thông qua các biện pháp đe dọa, sử  dụng vũ lực hoặc các hình thức   khác như ép buộc, bắt cóc, lừa đảo, hoặc gian lận, lạm dụng quyền lực hoặc vị trí của   nhóm dễ bị tổn thương hoặc thông qua việc nhận hoặc trả tiền… cho người đang nắm   quyền kiểm soát người khác, vì mục đích bóc lột."2.  Công cụ quốc tế chính trong đấu tranh chống Buôn bán người là “Hiệp ước phòng   chống, ngăn chặn và trừng phạt buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung  vào Công ước của Liên Hiệp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Hiệp  ước được Văn phòng Liên Hiệp Quốc tại Palermo, Ý sửa đổi năm 2000 và được gọi tắt   là Hiệp ước Palermo. Điều 3 của Hiệp ước đã ghi rõ định nghĩa về buôn bán người được quốc tế  chấp  nhận. Theo đó, buôn bán người là “hình thức tuyển dụng, chuyên chở, chuyển giao, chứa   chấp hoặc nhận người, bằng những công cụ như dây thừng, hay dùng lực hoặc các hình   thức khác như cưỡng bức, ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, dụ dỗ, lạm dụng quyền lực hay vị   trí của nhóm yếu thế hay qua việc cho hoặc nhận hoặc hỗ trợ tiền để đạt được sự thoả    Bruno Maltoni, Di cư bất hợp pháp và buôn bán người: Thu thập dữ liệu, Hội thảo di cư quốc tế, Hà Nội, Việt  2 Nam, 1­2/6/2011.Nguồn http://www.iom.int.vn 11 | P a g e
  12. thuận của một người để kiểm soát người khác vì mục đích bóc lột. Mục đích bóc lột bao   gồm, ít nhất, bóc lột tình dục, lao động cưỡng bức hay cung cấp các dịch vụ không mong   muốn, nô lệ hay các hình thức giống nô lệ, chiếm đoạt, hay cắt bỏ các cơ  quan trên cơ   thể”3. Hiệp  ước quy định, nếu xảy ra bất kể  trường hợp, tình huống nào nói trên, sự  chấp thuận của nạn nhân sẽ  được xem như  là không liên quan tới sự  bóc lột có chủ  ý.  Ngoài ra, việc tuyển dụng, chuyên chở, chuyển giao, chứa chấp hay nhận trẻ  em với   mục đích bóc lột sẽ bị coi là một hoạt động buôn bán người.  Định nghĩa này bao gồm ba thành tố cần thiết và có mối quan hệ tương quan: hành  động (tuyển dụng, chuyên chở, v.v…), công cụ (đe doạ, sử dụng lực, lừa gạt, v.v…), và   mục đích (bóc lột nạn nhân). Buôn bán là một quá trình phức tạp bao gồm nhiều hành  động có mối quan hệ tương quan lẫn nhau.  Như vậy, về cơ bản buôn bán người liên quan đến việc vận chuyển, chuyển giao,   chứa chấp người thông qua thông qua cưỡng chế, cưỡng ép hoặc lừa đảo và đẩy họ vào  tình trạng bị  bóc lột. Bóc lột được thực hiện dưới nhiều hình thức: bóc lột tình dục,   cưỡng bức lao động hoặc phục dịch, nô lệ hoặc làm việc tương tự như nô lệ  hoặc giúp   việc trong tình trạng nô lệ.  Buôn bán người thường được thực hiện bởi những phương tiện chuyên chở  nạn  nhân qua biên giới (Buôn bán ra nước ngoài), nhưng nó cũng có thể  xảy ra trên quê   hương của nạn nhân cũng như ở một nơi mà nạn nhân tự nguyện đến vì muốn nhập cư  hay tị nạn. Buôn bán ra nước ngoài có thể liên quan đến nhiều hơn một nước: một nước   gửi, nơi nạn nhân được tuyển chọn, một nước trung chuyển, nơi lộ  trình buôn bán đi  qua, và một nước đích, nơi nạn nhân bị  mua và bị  bóc lột. Đối với trường hợp bị  buôn  bán trong nước, nạn nhân có thể bị chuyển tiếp liên tục từ  tỉnh này sang tỉnh khác nhằm  cắt mối liên hệ với gia đình và xã hội trước khi bị buôn bán.  Đường dây buôn bán người  diễn ra qua 3 giai đoạn nói chung:  Một là, hành động tuyển chọn, chuyên chở, chuyển   giao/trung chuyển, chứa chấp hay nhận người dưới hình thức ép buộc, cưỡng bức, doạ  dẫm, lừa gạt, dụ dỗ, lạm dụng quyền lực hay khả năng dễ bị xâm hại; Hai là, kiểm soát  nạn nhân thông qua việc cưỡng ép, doạ  dẫm, lừa gạt, dụ  dỗ, lạm dụng quyền lực hay   khả năng dễ bị xâm hại; Ba là, bóc lột nạn nhân, cơ thể/sức lao động của nạn nhân. Mỗi nước trên thế giới, dù giầu hay nghèo, đều có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi loại   Bruno Maltoni, Di cư bất hợp pháp và buôn bán người: Thu thập dữ liệu, Hội thảo di cư quốc tế, Hà Nội, Việt  3 Nam, 1­2/6/2011.Nguồn http://www.iom.int.vn 12 | P a g e
  13. hình phạm tội này, và mỗi người đều có thể trở thành nạn nhân của buôn bán người. Tuy   nhiên, những người dễ  bị  tổn thương nhất là người nghèo, người thiếu cơ  hội học tập  và việc làm và những người đang sống trong xã hội chịu  ảnh hưởng của nền chính trị  không  ổn định, phân biệt xã hội và tham nhũng, vì mong  ước có những cơ  hội tốt hơn   khiến họ  dễ bị  lừa gạt, dụ dỗ bởi những lời hứa hão huyền về  một cuộc sống tốt đẹp  hơn của bọn buôn người và tiếp đó bị rơi vào vòng xoáy của chúng.  *Nạn nhân của buôn bán người Nhu cầu về  nhân công, dịch vụ  giải trí và tình dục giá rẻ  được cho là những  nguyên nhân chính dẫn tới việc buôn bán người. Bên cạnh đó là các yếu tố  về  cơ  hội,   nguồn lực cũng như  những bất bình đẳng về  kinh tế  và xã hội khiến nhiều người trở  thành nạn nhân của đường dây buôn bán người. Một người được xác định là nạn nhân   của buôn bán người khi người đó bị một đối tượng dụ dỗ, rủ rê, đưa đi khỏi địa phương   đến một địa phương khác trong cùng một nước hoặc sang một nước khác và cuối cùng bị  khai thác vì vụ lợi cá nhân hay tiền bạc.  Theo Tuyên bố Liên Hiệp Quốc về những Nguyên tắc Pháp lý cơ bản đối với nạn   nhân và Lạm dụng quyền lực, “Nạn nhân là những người, cá nhân hay tập thể, phải   chịu những tổn hại, bao gồm cả thể chất và tinh thần, mất mát về tình cảm, tổn thất về   kinh tế, hay sự  tước đoạt dần các quyền con người cơ  bản của họ, bằng những hành   động vi phạm luật hình sự của nhà nước […]”4. Định nghĩa này nhấn mạnh một số đặc  điểm và dấu hiệu hữu ích trong việc nhận biết nạn nhân của buôn bán người. Một là, tổn thương về thể chất và tinh thần, nhìn chung có thể nhìn thấy trực  tiếp trên cơ thể nạn nhân, đặc biệt trong trường hợp nạn nhân bị bóc lột tình dục và bán  bộ phận trên cơ thể, và đặc biệt trong nhóm dễ bị tổn thương là phụ nữ và trẻ em. Hai   là,   mặc   dù   khó   có   thể   nhận   biết   được   nhưng   những mất   mát   về   tình  cảm ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả nạn nhân của buôn bán người. Ba là, nạn nhân của buôn bán người cũng phải gánh chịu những tổn thất về kinh  tế do bị bóc lột sức lao động và số tiền họ phải trả cho đường dây buôn người để chúng   sắp xếp việc trung chuyển nạn nhân đến nước đích.  Cuối cùng, hoàn cảnh nô lệ của họ cũng thể hiện một rào cản trong việc thực thi     Bruno Maltoni, Di cư bất hợp pháp và buôn bán người: Thu thập dữ liệu, Hội thảo di cư quốc tế, Hà Nội, Việt  4 Nam, 1­2/6/2011.Nguồn http://www.iom.int.vn 13 | P a g e
  14. các quyền con người cơ bản của nạn nhân. Ngoài ra, chính những nạn nhân của buôn  bán người tự tìm đến những nơi không phải xuất xứ của họ định cư và sau đó, bị bóc lột   và lao động khổ sai cũng gây khó khăn trong việc thực hiện quyền con người của họ. Nạn nhân của buôn bán người có thể   ở  trong các ngành và các môi trường khác   nhau, cụ thể như sau: Công nghiệp mãi dâm; Môi trường làm việc gia đình; Công xưởng  bóc lột sức lao động công nhân; Ngành xây dựng; Ngành nông nghiệp và nông trại; Ngư  nghiệp; Ngành du lịch; Ăn xin…  2.1.2 Các hình thức buôn bán người Trên thế giới, các hình thức chủ yếu của nạn buôn người gồm có: Một là, lao động cưỡng bức. Các nghiên cứu gần đây cho thấy phần lớn các hoạt  động buôn bán người trên thế giới núp dưới hình thức lao động cưỡng bức. Tổ chức Lao  động Quốc tế (ILO) ước tính tỷ lệ nạn nhân bị buôn bán vì mục đích cưỡng ép tình dục  với nạn nhân bị cưỡng bức lao động là 1/9. Lao động cưỡng bức, hay còn được gọi là nô   lệ cưỡng bức có thể đã xảy ra khi những kẻ sử dụng lao động bất lương bóc lột những   người lao động dễ  bị  tổn thương hơn do tỷ lệ  thất nghiệp cao, nghèo đói, tội ác, phân   biệt, tham nhũng, xung đột chính trị hay do nền văn hóa chấp nhận hoạt động này. Người   nhập cư là đối tượng đặc biệt dễ bị tổn thương, nhưng người ta cũng có thể bị cưỡng ép  lao động ngay tại chính đất nước mình. Những nạn nhân nữ của lao động cưỡng bức hay   lao động trừ nợ, nhất là những phụ nữ và em gái làm nô lệ tại gia cũng thường xuyên bị  bóc lột tình dục. Hai là, buôn người vì mục đích tình dục. Buôn người vì mục đích tình dục chiếm  một tỷ lệ nhỏ hơn nhưng vẫn là một phần đáng kể trong toàn bộ các hình thức buôn bán  người. Khi một người trưởng thành bị đe dọa, cưỡng ép hay lừa gạt làm mại dâm – hay   tiếp tục bị  buộc làm mại dâm do bị  đe dọa – thì người đó là nạn nhân của hoạt động   buôn người vì mục đích tình dục. Tất cả  những ai tham gia vào quá trình tuyển dụng,  chứa chấp, vận chuyển, tiếp nhận hay giành lấy đối tượng vì mục đích này đều là người   phạm tội buôn bán người. Buôn người vì mục đích tình dục cũng có thể xảy ra bên trong  phạm vi hình thức lao động trừ nợ khi phụ nữ và trẻ em gái bị ép buộc phải tiếp tục hoạt   động mại dâm vì những khoản “nợ” bất hợp pháp xuất phát từ  việc vận chuyển, tuyển   dụng, thậm chí là “bán” họ, và những kẻ bóc lột yêu cầu họ phải trả trước khi được tự  do. Cũng cần hiểu rõ rằng việc một người ban đầu tự  nguyện tham gia hoạt động mại  14 | P a g e
  15. dâm không phải là yếu tố  pháp lý có vai trò quyết định: nếu sau đó họ  bị  ép buộc hành  nghề  vì bị  lừa gạt về mặt tâm lý hay cưỡng ép về  thể  chất thì họ  vẫn là nạn nhân của  hoạt động buôn người và cần được nhận những lợi ích được nêu trong Nghị  định thư  Palermo và các luật sở tại hiện hành. Ba là, lao động trừ  nợ. Sử  dụng các khoản nợ  làm một hình thức để  cưỡng ép   hay đe dọa. Thông thường, hành vi này được gọi là “lao động trừ  nợ” hay “làm công trừ  nợ” và từ  lâu đã bị  luật pháp Hoa Kỳ  nghiêm cấm ­ được quy định trong luật pháp Hoa   Kỳ dưới tên peonage theo tiếng Tây Ban Nha ­ và Nghị định thư Palermo cũng đã yêu cầu  hình sự  hóa hoạt động này như  là một hình thức buôn bán người. Người lao động trên  khắp thế giới trở thành nạn nhân của lao động trừ nợ khi những kẻ buôn người hay chủ  lao động gắn điều kiện bất hợp pháp rằng người lao động phải mặc nhiên chịu một  khoản nợ ban đầu trước khi chính thức được nhận vào làm việc. Người lao động cũng có   thể phải gánh một khoản nợ do các hệ thống lao động trừ  nợ  truyền thống hơn. Chẳng   hạn như ở Nam Á, theo ước tính có hàng triệu nạn nhân bị buôn bán phải làm việc để trả  các khoản nợ của ông cha họ. Bốn là, lao động di cư làm công để  trừ  nợ. Sự lạm dụng các hợp đồng và điều  kiện lao động nguy hiểm đối với những lao động di cư không nhất thiết cấu thành hành  vi buôn bán người. Tuy nhiên, các chi phí bất hợp pháp và các khoản nợ của họ  ở nước   nguồn, thông thường có sự hỗ trợ của các tổ chức lao động và người sử dụng lao động ở  nước đến có thể  là nguyên nhân dẫn đến tình trạng làm công trừ  nợ. Trường hợp này  xảy ra ngay cả khi người lao động làm việc cho chủ lao động với tư cách lao động ngắn   hạn trong các chương trình làm việc tạm thời. Năm là, nô lệ tại gia. Một hình thức lao động cưỡng bức đặc biệt là những người  lao động tại gia bị bắt làm nô lệ miễn cưỡng, họ làm việc trong môi trường không chính  thống, cũng là nơi sinh sống và thường không làm việc cùng với những người lao động   khác. Môi trường này thường tách biệt những người lao động tại gia khỏi xã hội, tạo   thuận lợi cho việc bóc lột cưỡng ép vì chính quyền không thể  dễ  dàng kiểm tra các địa   điểm thuộc sở  hữu tư  nhân như  với những nơi làm việc chính thống. Các thanh tra và  người lao động cho biết có rất nhiều trường hợp bị ốm đau mà không được chữa trị, và  bi kịch hơn, đó là tình trạng lạm dụng tình dục lan tràn, trong một số trường hợp thì đây   có thể là dấu hiệu của tình trạng nộ lệ miễn cưỡng. 15 | P a g e
  16. Sáu là,  lao động trẻ  em cưỡng bức.  Phần lớn cả  các tổ  chức quốc tế  và luật  pháp của các nước đều thừa nhận trẻ em có thể tham gia vào một số loại hình công việc  một cách hợp pháp. Tuy nhiên ngày càng có nhiều sự  đồng thuận về  việc cần xóa bỏ  những hình thức lao động trẻ  em tồi tệ  nhất. Việc mua bán trẻ  em và lừa gạt trẻ  em   khiến các em rơi vào tình trạng bị cưỡng bức lao động hay lao động trừ  nợ  là một trong  những hình thức lao động trẻ  em tồi tệ  nhất và cũng là những hình thức của nạn buôn  người. Một trẻ nhỏ có thể là nạn nhân của hoạt động buôn người bất kể địa điểm bị bóc   lột là ở đâu. Những dấu hiệu của việc trẻ em có thể bị cưỡng bức lao động bao gồm cả  những trường hợp mà trẻ  em có vẻ  như  bị  một người không trong gia đình giữ, mà   những công việc các em làm lại mang lại lợi ích vật chất cho một người khác không  thuộc gia đình của các em đó và không cho các em được lựa chọn được rời đi. Các hành  động đối phó với nạn buôn người cần được bổ sung nhưng không thay thế các biện pháp  truyền thống chống lại lao động trẻ em, chẳng hạn như giáo dục. Tuy nhiên, khi trẻ em  bị  bắt làm nô lệ  thì không thể  để  những kẻ  lạm dụng các em thoát khỏi các hình phạt   hình sự bằng cách thay thế bằng các biện pháp xử lý hành chính đối với những vi phạm   về lao động trẻ em. Bảy là,  lính trẻ  em.  Lính trẻ  em có thể  là một dấu hiệu của hành vi buôn bán   người khi các lực lượng vũ trang tuyển dụng hay sử  dụng bất hợp pháp trẻ  em – bằng  biện pháp cưỡng ép, gian lận hay đe dọa – nhằm mục đích biến các em thành lính tham  gia chiến đấu hoặc để bóc lột lao động hoặc tình dục. Thủ phạm gây ra những vụ buôn   bán này có thể là các lực lượng thuộc chính phủ, các tổ chức bán quân sự hoặc các nhóm  phiến quân. Nhiều trẻ em bị bắt cóc bằng vũ lực và bị bắt đi lính. Những trẻ em khác bị  bắt làm khuân vác, đầu bếp, bảo vệ, đầy tớ, người đưa tin hay gián điệp một cách bất   hợp pháp. Những em gái có thể  bị  cưỡng ép kết hôn hay quan hệ  tình dục với những   người lính là nam giới. Cả lính trẻ em trai và gái đều thường xuyên bị lạm dụng tình dục   và có nguy cơ cao bị lây nhiễm các bệnh truyền qua đường tình dục. Tám là,  buôn bán trẻ  em vì mục đích tình dục.  Theo Quỹ  Nhi đồng Liên Hợp  Quốc, UNICEF, có đến hai triệu trẻ  em phải hoạt động mại dâm trong ngành thương  mại tình dục trên toàn cầu. Các hiệp  ước và nghị  định thư  quốc tế  đều bắt buộc phải   hình sự  hóa việc bóc lột tình dục trẻ  em vì mục đích thương mại. Hành vi sử  dụng trẻ  em trong ngành thương mại tình dục bị  luật pháp Hoa Kỳ, Nghị  định thư  Palermo và  ở  các quốc gia trên toàn thế giới nghiêm cấm. Không có bất kỳ một ngoại lệ hay lý giải về  16 | P a g e
  17. văn hóa hay kinh tế xã hội nào có thể  ngăn cản việc giải cứu trẻ  em khỏi tình trạng bị  cưỡng bức tình dục. Nạn buôn người vì mục đích tình dục gây ra những hậu quả vô cùng  nghiêm trọng với trẻ em, trong đó có những tổn thương lâu dài cả  về  sinh lý và tâm lý,  bệnh tật (gồm cả HIV/AIDS), nghiện ma túy, mang thai ngoài ý muốn, suy dinh dưỡng,  bị xã hội tẩy chay và có thể còn dẫn đến tử vong. Chín là, Buôn bán bộ phận trên cơ thể. Buôn bán bộ phận trên cơ thể liên quan  đến việc buôn bán thương mại những cơ quan của con người hay tuyển chọn người với   mục đích cắt bỏ và bán cơ quan của họ.  Việt Nam vừa là nước nguồn vừa là nước đến của nam giới, phụ nữ và trẻ  em bị  buôn bán đặc biệt là vì mục đích cưỡng ép lao động hoặc cưỡng ép tình dục.   Ở  Việt  Nam, có thể phân chia buôn bán người theo ba loại hình khác nhau.  Một là, cưỡng ép tình dục. Những phụ nữ  Việt Nam chủ yếu là từ  các tỉnh phía   Bắc sang Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia và Singapore để  kết   hôn bất hợp pháp và trẻ  em bị  bán sang Campuchia làm gái mại dâm. Có hai kiểu buôn   bán phụ nữ để kết hôn phổ biến: thứ nhất, phụ nữ bị bán, bị xui khiến, bị lừa và đôi khi  là bị  bắt cóc mang sang biên giới phía Bắc của Việt Nam để  làm vợ  những người đàn  ông sống ở những vùng xa xôi, hẻo lánh ở phía Nam Trung Quốc, số khác được môi giới  kết hôn với những người đàn ông từ Đài Loan, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc; thứ hai,  phụ  nữ  bị  buôn bán thông qua mạng lưới "đặt hàng cô dâu qua thư  tín" để  lấy những   người đàn ông  ở  quốc gia khác vẫn chủ  yếu là đàn ông châu Á.  Phụ  nữ  và trẻ  em Việt  Nam bị bán sang các nước ở châu Á vì mục đích cưỡng ép tình dục thường bị lừa gạt bởi  các cơ  hội việc làm giả  mạo và bị  bán cho các nhà chứa  ở  biên giới với Campuchia,   Trung Quốc và Lào, một số  người sau đó bị  đưa sang nước thứ  ba như  Thái Lan và  Malaysia. Trẻ em Việt Nam ở các vùng nông thôn bị bóc lột tình dục vì mục đích thương   mại, bị buộc phải bán hàng rong trên phố và đi xin ăn ở các thành phố lớn, các em thường   là nạn nhân của những đường dây tội phạm có tổ chức, một số trẻ em Việt Nam là nạn   nhân của các vụ cưỡng ép lao động và lao động trừ nợ ở các nhà xưởng quy mô gia đình.   Việt Nam là đích đến của những khách du lịch tình dục trẻ  em, theo báo cáo thì những   người này đến từ  Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Vương quốc Anh, Úc,  châu Âu và Hoa Kỳ, tuy nhiên hoạt động này không được cho là sẽ lan rộng. Loại hình thứ hai là cưỡng bức lao động. Việt Nam là nước nguồn của nam giới   17 | P a g e
  18. và phụ nữ di cư sang nước ngoài để làm việc, chủ yếu thông qua các công ty xuất khẩu   lao động nhà nước và các công ty xuất khẩu lao động tư  nhân chủ  yếu  ở  các nước như  Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, cũng như ở Thái Lan, Indonesia,  Vương quốc Anh, Cộng hòa Séc, Nga và Trung Đông, và một số  người đã rơi vào tình   trạng bị cưỡng ép lao động.  Loại hình thứ  ba là trẻ  em bị bán đi làm con nuôi; loại hình này dù chưa phổ  biế  nhưng luôn tiềm tàng và có khả năng gia tăng. Những loại hình buôn bán người này trước đó chỉ  xuất hiện  ở  một số  tỉnh biên  giới quốc tế với Trung Quốc và Campuchia. Tuy nhiên, do giao thông ngày càng được cải   thiện cùng với các chính sách biên giới mở   đặc biệt là sự  phát triển của du lịch và  thương mại đã khiến hoạt động buôn bán người trở  nên phức tạp và có nhiều loại hình  đa dạng hơn, xuất hiện ở tất cả các tỉnh thành của Việt Nam. 2.1.3 Các nhóm đối tượng là nạn nhân của buôn bán người Nhiều quan niệm thông thường cho rằng chỉ  có phụ  nữ  trẻ  (trong độ  tuổi từ  15  đến 35 tuổi) mới là nạn nhân của buôn bán người. Song, trên thực tế, bất kỳ ai cũng có  thể trở thành nạn nhân của buôn bán người bao gồm cả phụ nữ, trẻ em và nam giới.  Trẻ  em đang ngày càng trở thành một nhóm đối tượng dễ bị  tổn thương hơn, với   những nạn nhân trung bình khoảng 10 tuổi. Nhìn chung cả phụ nữ và trẻ em bị buôn bán   đều có trình độ giáo dục ở mức chưa hoàn thành tiểu học hoặc chưa hoàn thành ở cấp độ  trung học cơ sở, trung học phổ thông. Bên cạnh đó là sự thiếu hụt các kinh nghiệm sống,  các kỹ năng xã hội của các nạn nhân.  Phụ nữ và trẻ em bị buôn bán từ Việt Nam thường là người Kinh, tuy nhiên trong   nhiều trường hợp là người dân tộc thiểu số. Nhiều ý kiến cho rằng, người dân tộc thiểu   số  là nhóm người có nguy cơ  ít bị  buôn bán nhất vì họ  sống  ở  những vùng xa xôi, hẻo  lánh, có các hành vi di cư khác biệt, dù như vậy nhưng khi các địa điểm du lịch ngày càng   được mở ra nhiều hơn, sự biệt lập về mặt địa lý của các nhóm dân tộc thiểu số cũng sẽ  giảm xuống và những thay đổi về kinh tế xã hội sẽ khiến cho nạn nhân buôn bán người  thuộc nhóm dân tộc thiểu số sẽ tăng lên. Buôn bán người luôn được hiểu như  là một hệ  quả  của nghèo đói do đại đa số  những phụ  nữ  và trẻ  em bị  buôn bán đều xuất phát từ  các vùng nông thôn và từ  các gia   đình nông dân nghèo. Cha mẹ thông thường có trình độ  học vấn thấp, giáo dục gia đình  18 | P a g e
  19. kém. Nhiều gia đình còn gặp phải những vấn đề như rượu chè, bạo lực, tàn tật, cha mẹ  đơn thân, ly dị hoặc có cuộc sống không hạnh phúc. Trong nhiều trường hợp, thì phụ nữ  trẻ  em đã bị  lừa gạt, ép buộc thậm chí bị  bắt cóc, tuy nhiên, vẫn có những trường hợp   phụ nữ và trẻ em đã đi tự nguyện với mục đích để có thu nhập đỡ đần cho gia đình ở lại  quê hương. Phụ nữ bị buôn bán đề kết hôn bất hợp pháp, làm gái mại dâm hoặc làm các công  việc giống như  nô lệ  khác. Buôn bán người làm mại dâm phổ  biến nhất  ở  miền Nam,   chủ  yếu là buôn bán trẻ  em và phụ  nữ  sang Campuchia. Trẻ  em bên cạnh việc bị  buôn  bán cho ngành công nghiệp tình dục mà còn bị bán để đi ăn xin, làm giúp việc, xây dựng,   lao động trong các doanh nghiệp nhỏ, làm việc trong các hầm mỏ  hay trên tàu thuyền   đánh cá. Bên cạnh nhiều trường hợp trẻ em bị lừa bán đoi khi cũng có những gia đình bán   con cái của chính họ thông qua bọn mối lái để lấy tiền trang trải cuộc sống gia đình.  Nạn buôn người hướng tới đối tượng nam giới vẫn chưa được nghiên cứu một  cách rõ ràng và hệ thống, tuy nhiên, có những báo cáo và bài báo đã cung cấp thông tin về  hình thức tuyển dụng lao động giống như buôn bán người đối với những công nhân tham  gia vào các chương trình xuất khẩu lao động. Nhiều nam giới tình nguyện đi lao động ở  nước ngoài phải trả  một khoản chi phí ban đầu cho các dịch vụ  và sau đó được tuyển  vào làm việc tại các nhà máy  ở  nước ngoài. Họ  rời khỏi Việt Nam bằng máy bay cùng   với các loại giấy tờ hợp pháp trong đó có cả visa ra vào. Tuy nhiên, hầu hết những công   nhân này không được hưởng những điều kiện làm việc ghi trong hợp đồng mà họ  đã ký,   khi họ  đến nơi thì công việc thường không như  họ  mong đợi; thậm chí trong nhiều   trường hợp, tiền lương họ  được trả  cũng không giống số  tiền lương đã được ký kết  trong hợp đồng. Kết quả là nhiều người trong số họ đã rời bỏ nơi ký kết hợp đồng để đi  tìm việc nơi khác. Thế nhưng các giấy tờ hợp pháp của họ  lại do công ty nơi mà họ  ký   kết hợp đồng nắm giữ  vì vậy sau đó họ  trở  thành những người cư  trú bất hợp pháp và   luôn phải lẩn tránh cảnh sát. Nếu họ bị bắt thì lập tức bị giam giữ và trục xuất.  Các công  ty xuất khẩu lao động Việt Nam, hầu hết là các công ty nhà nước có thể  áp dụng mức  phí cao hơn mức phí mà luật pháp quy định, đôi khi người lao động phải trả cho các công   ty tuyển dụng mức phí lên đến 10.000 đô­la Mỹ  để  sang nước ngoài làm việc, họ  phải   gánh những khoản nợ thuộc loại lớn nhất trong số những công nhân châu Á làm việc tại   nước ngoài, khiến họ dễ rơi vào tình trạng bị lao động trừ nợ và lao động cưỡng bức, và   khi sang đến nước đến, một vài công nhân mới nhận ra rằng họ  bị  bắt buộc phải làm  19 | P a g e
  20. việc trong những điều kiện dưới chuẩn, được trả  lương rất ít hoặc không được trả  lương và không được tiếp cận với kênh trợ giúp pháp lý đáng tin cậy nào. 2.2 Tình hình nạn buôn bán người ở Việt Nam hiện nay 2.2.1. Thực trạng nạn buôn bán người ở Việt Nam Hoạt động buôn bán người đang diễn ra ngày càng đa dạng và phức tạp, nó gây ra   nhiều hậu quả nghiêm trọng vì xâm phạm đến những quyền cơ bản của con người như  quyền tự  do di chuyển, quyền lựa chọn, quyền kiểm soát bản thân… Thực trạng buôn   bán người có đặc điểm riêng theo từng quốc gia, khu vực. Hình thức phổ  biến nhất là   buôn bán phụ  nữ  và trẻ  em để  bóc lột tình dục. Ngoài ra thì phụ  nữ  và trẻ  em cũng bị  buôn bán vì nhiều mục đích khác như  cưỡng bức lao động trong các ngành công nghiệp  như  khách sạn, nhà hàng, công trường xây dựng, lâm nghiệp, khai thác mỏ  hoặc nông   nghiệp, trong các công xưởng cùng các hình thức nhận con nuôi bất hợp pháp hay lấy các  bộ  phận của cơ  thể. Nạn buôn người rất phổ  biến, là hoạt động thương mại bất hợp  pháp và trở thành ngành công nghiệp tội phạm lớn thứ ba trên thế giới sau ma túy và mua  bán vũ khí, bọn tội phạm buôn người kiếm được 32 tỉ USD mỗi năm thông qua việc buôn  và bán người5. Hậu quả  của nạn buôn người rất ghê gớm. Nạn nhân phải hứng chịu   những tổn thương về tâm sinh lý nặng nề  do bị  lạm dụng hãm hiễm, đe dọa, khủng bố  gia đình và có thể dẫn đến cái chết. Tác hại của nó không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân mà   còn  ảnh hưởng đến cả  môi trường xã hội và an ninh của mỗi quốc gia. Theo Liên Hợp   Quốc ước tính, vào năm 2010 có khoảng 2,5 triệu nạn nhân bị buôn bán trên toàn thế giới   đa số là châu Á Thái Bình Dương. Theo các con số của ILO được thống kê vào tháng 5   năm 2011, trong số 2,7 triệu nạn nhân bị  buôn bán có 80% là phụ  nữ  và trẻ em gái, 50%   nạn nhân là trẻ  em chưa đến tuổi vị thành niên, tuổi trung bình của những em gái bị  bán  làm nô lệ  tình dục là khoảng 12 tuổi6. Nếu chỉ  tính trong cấp độ  khu vực thì trong vài  thập kỷ vừa qua  ở châu Á đã có khoảng 30 triệu phụ  nữ  và trẻ  em bị  buôn bán 7, con số  này chỉ tính riêng những người bị buôn bán vì mục đích kết hôn, hay ép buộc làm những   công việc rẻ  mạt như  giúp việc gia đình, làm nông nghiệp hay làm việc trong các nhà   máy.  5 The Long View, Human Trafficking 2011, April 5, Nguồn: http://www.justinlong.org 6  http://www.justinlong.org/2011/04/human­trafficking­2011/ 7  Flamm, M.,2003 "Buôn bán phụ nữ và trẻ em ở Đông Nam Á", Báo cáo của UN 40(2), tr.34­37 20 | P a g e
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2