intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TÁO MÈO

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

248
lượt xem
41
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Công dụng: Táo mèo ở Việt Nam được dùng thay thế hay tương tự với vị thuốc sơn tra (quả của một số loài thuộc chi Crategus) làm thuốc bổ tỳ, vị, kích thích tiêu hóa, làm ăn ngon, dễ tiêu chữa đầy bụng, ợ chua... dưới dạng thuốc sắc, cao lỏng hoặc tán bột uống. Liều dùng 10 - 20 gam / ngày và thường phối hợp với các vị thuốc khác. Quả táo mèo chín ăn được, đồng thời còn sử dụng để làm rượu vang và nước giải khát. Rượu vang táo mèo có đủ các vị...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TÁO MÈO

  1. TÁO MÈO
  2. Công dụng: Táo mèo ở Việt Nam được dùng thay thế hay tương tự với vị thuốc sơn tra (quả của một số loài thuộc chi Crategus) làm thuốc bổ tỳ, vị, kích thích tiêu hóa, làm ăn ngon, dễ tiêu chữa đầy bụng, ợ chua... dưới dạng thuốc sắc, cao lỏng hoặc tán bột uống. Liều dùng 10 - 20 gam / ngày và thường phối hợp với các vị thuốc khác. Quả táo mèo chín ăn được, đồng thời còn sử dụng để làm rượu vang và nước giải khát. Rượu vang táo mèo có đủ các vị ngọt, chua, đắng, chát và có mùi thơm đặc biệt. Hình thái: Cây gỗ nhỏ, cao 5 - 6 m hoặc hơn, cây non hoặc cây chồi có gai, phân cành nhiều. Lá mọc so le, lá ở cây con hoặc cây chồi xẻ 3 - 5 thùy, mép khía răng không đều; lá ở cành trưởng thành hình trứng, bầu dục, dài 5 - 8 c m, rộng 2 - 4 cm, gốc tròn, đầu nhọn, mép nguyên hoặc có răng cưa nhỏ ở đầu lá; mặt trên xanh, mặt dưới có lông dày, màu trắng xám; cuống lá dài 1,5 cm; lá kèm sớm rụng. Hoa 1- 3 cái ở kẽ lá, màu trắng, có cuống 4 - 5 mm, có lông; đài gồm 5 răng; tràng 5 cánh mỏng; nhị nhiều; bầu hạ, 5 ô, mỗi ô 3 - 8 noãn. Quả hạch, hình trứng hay gần hình cầu, đường kính 3 - 5 c m; lúc non có lông, già nhẵn, có đài tồn tại, chín màu vàng xanh, có vị chua, chát và hơi ngọt; mùi thơm.
  3. Phân bố: Việt Nam: Điện Biên (Tuần Giáo, đèo Pha Đin), Lai Châu (Sìn Hồ), Lào Cai (Sa Pa), Hà Giang (Đồng Văn, Quản Bạ, Mèo Vạc); Yên Bái (Mù Cang Chải). Thế giới: Trung Quốc, Ấn Độ, Myanma. Đặc điểm sinh học: Táo mèo có nguồn gốc ở vùng ôn đới ấm phía Bắc, khi xuống đến Việt Nam chỉ thấy phân bố rải rác ở vùng núi giáp biên giới với Trung Quốc. Cây ưa sáng, ưa khí hậu ẩm mát của vùng nhiệt đới núi cao, nhiệt độ trung bình năm từ 15 đến 180C, lượng mưa từ 1.500 mm / năm (Phó Bảng) đến 3.800 mm / năm (Sa Pa) và độ ẩm không khí trung bình khoảng 85%. Táo mèo thường mọc rải rác trên đất nương rẫy cũ, gần bờ suối, ven rừng núi đá vôi, đôi khi thấy ở xung quanh làng bản. Độ cao phân bố 1.300 - 1.600 m. Cây sinh trưởng mạnh trong mùa xuân - hè; ra hoa trước hoặc đồng thời với ra lá non (tháng 2 - 3), quả già tồn tại đến tận tháng 10 (11 ); rụng lá vào mùa đông. Cây có chồi ngủ và sẽ mọc ra vào đầu mùa xuân năm sau. Táo mèo tái sinh tự nhiên từ hạt, mọc chồi mạnh sau khi bị chặt và chồi rễ. Loại chồi này cũng được sử dụng làm cây giống để trồng.
  4. Thiên Môn
  5. Công dụng: Thiên môn là một vị thuốc bổ chữa suy nhược cơ thể, mỏi mệt, ho nhiều ngày, phổi nóng, khô cổ, mất tiếng, sốt, khát nước, táo bón. Ngày dùng: 8 - 16 g dưới dạng thuốc sắc hoặc cao lỏng pha rượu uống. Thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác có cùng tác dụng. Hình thái: Cây leo, dạng bụi, sống lâu năm, dài 1 - 1.5 m, có khi hơn. Rễ củ mập, hình thoi, thuôn dài, mọc thành chùm. Thân và cành hình trụ, phân nhánh nhiều, mọc quấn vào nhau thành bụi dày, nhẵn và có gai cong. Những cành nhỏ biến đổi thành lá gọi là diệp chi, hình lưỡi liềm, dài 2 - 3 cm, rộng 1 mm, đôi khi thành gai ở cành chính, đầu nhọn, gốc có mặt cắt 3 góc. Lá tiêu giảm thành những vảy nhỏ. Cụm hoa mọc ở kẽ các diệp chi gồm; 2 - 3 hoa màu trắng. Hoa đực có bao hoa gồm 6 mảnh, 6 nhị và nhuỵ lép; hoa cái có bao hoa như hoa đực, nhị ngắn hơn, bao phấn tiêu giảm, bầu thuôn, nhẵn. Quả mọng, hình cầu, đường kính 5 - 6 mm, màu lục nhạt sau chuyển vàng ngà rồi màu trắng; hạt 1 màu đen. Phân bố:
  6. Việt Nam: Thanh Hóa (đảo Hòn Mê), Nghệ An (huyện Quỳnh Lưu)l Hà Tĩnh (Kỳ Anh); Quảng Nam (đảo C ù Lao Chàm); Quảng Ngãi (Bình Sơn, Đức Phổ); Bình Định (Phù Mỹ, Phù Cát); Phú Yên (Tuy Hòa); Khánh Hòa (Vạn Ninh, Ninh Hòa, Cam Ranh, đảo Hòn Tre); Gia Lai (Chư Prông); Ninh Thuận (Ninh Hải); Bà Rịa - Vũng Tàu (Côn Đảo); Kiên Giang (đảo Phú Quốc). Thế giới: Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan... Đặc điểm sinh học: Nguồn gốc của thiên môn có thể từ vùng nhiệt đới châu Á. Ở Việt Nam, cây phân bố tự nhiên cũng giảm dần từ Miền Nam ra Bắc. Thiên môn là loại cây leo nhỏ sồng nhiều năm, ưa sáng và thường leo trùm lên các cây bụi trong các truông gai ven biển hoặc rừng thưa bán rụng lá. Cây có thể sống được trên nhiều loại đất; ở vùng đất cát ven biển và đảo, có nhiều dây thiên môn lớn, bộ rễ củ dài 30 - 50 cm, với tổng khối lượng tới 3 kg. Cây trồng trên đất thịt ở vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ, rễ củ thường ngắn, 5 - 10 cm. Do có phần gốc và toàn bộ rễ củ nằm sâu trong cát, nên thiên môn có khả năng chịu hạn cao. Cây mọc tự nhiên ở phía Nam có hiện tượng tàn lụi vào mùa khô; đến đầu mùa mưa, từ gốc dưới mặt đất mọc lên vài chồi
  7. măng mới. Thiên môn ra hoa quả nhiều, từ tháng 5 đến tháng 9 hàng năm. Tái sinh tụ nhiên chủ yếu bằng hạt.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2