CHỦ NGHĨA HIỆN ĐẠI TRONG VĂN HỌC NGHỆ THUẬT<br />
BẮT ĐẦU TỪ ĐÂU?<br />
PGS.TS. NGUYỄN VĂN DÂN<br />
Ở nước ta, từ trước đến nay có một luồng ý kiến cho rằng chủ nghĩa hiện đại bắt<br />
đầu từ chủ nghĩa ấn tượng. Ý kiến này đã xuất hiện từ lâu và nó vẫn tồn tại dai dẳng<br />
cho đến ngày nay. Ví dụ như từ năm 1983, cuốn Từ điển văn học (Nxb. KHXH, tập 1),<br />
đã định nghĩa chủ nghĩa hiện đại là “Tên gọi chung của mọi khuynh hướng suy đồi, bế<br />
tắc trong văn học nghệ thuật tư sản phương Tây ngày nay. Có thể kể từ chủ nghĩa ấn<br />
tượng, chủ nghĩa tượng trưng cuối thế kỷ XIX, đến chủ nghĩa lập thể, chủ nghĩa vị lai,<br />
chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa trừu tượng, v.v... của thế kỷ XX.” (Tr. 135). Đến năm<br />
2009, cuốn sách Lý luận văn học (nhiều tác giả, Nxb. Đại học Sư phạm, tập 3) vẫn ghi:<br />
“Nói rộng ra cả về chủ nghĩa hiện đại như về chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa ấn<br />
tượng v.v...” (Tr. 329). Và gần đây nhất, trong bài báo “Đôi điều về các trường phái<br />
văn chương hiện đại” (Văn nghệ, số 28-2013), tác giả Anh Chi cũng đã liệt kê chủ<br />
nghĩa ấn tượng là chủ nghĩa hiện đại đầu tiên, và cùng với các chủ nghĩa hiện đại khác,<br />
chúng làm nên phong trào nghệ thuật tiên phong thế kỷ XX.<br />
Tuy nhiên, như chúng tôi đã nói (xem bài “Chủ nghĩa hiện đại trong văn học nghệ<br />
thuật - bản chất và đặc trưng”, Văn học nước ngoài số 10-2011), bản chất chung của<br />
phong trào nghệ thuật tiên phong là khước từ chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tự nhiên,<br />
khước từ chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa ấn tượng, và nói chung là khước từ mọi quy<br />
tắc, mọi quy phạm của nghệ thuật truyền thống và nghệ thuật chính thống. Ở đây, chủ<br />
nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tự nhiên (trong đó có chủ nghĩa tả thực của Italia) và chủ<br />
nghĩa lãng mạn có thể được coi là nghệ thuật truyền thống của thế kỷ XIX - một thế kỷ<br />
của cách mạng tư sản; còn chủ nghĩa ấn tượng được coi là nghệ thuật chính thống của<br />
xã hội tư sản sau khi giai cấp tư sản phương Tây giành được chính quyền và phản bội<br />
lại giai cấp vô sản. Chủ nghĩa ấn tượng có thể được coi là loại nghệ thuật xoa dịu và ru<br />
ngủ của giai cấp tư sản sau cách mạng, một loại nghệ thuật xa rời hiện thực, đặc biệt là<br />
hiện thực của đời sống nhân dân. Đây chính là những đối tượng bị công kích của các<br />
chủ nghĩa hiện đại thuộc phong trào tiên phong.<br />
Phong trào tiên phong công kích các trào lưu nghệ thuật truyền thống và chính<br />
thống nói trên để hướng tới cái mới, đề xuất sự phá cách nhằm làm thay đổi triệt để bộ<br />
mặt của nghệ thuật để có thể gọi nó là nghệ thuật hiện đại. Tuy nhiên, nghệ thuật tiên<br />
phong vẫn không chối bỏ hiện thực, nhưng từ đây nó thể hiện hiện thực theo một nhãn<br />
quan nghệ thuật hoàn toàn khác: đó là nhãn quan khúc xạ và bóp méo hiện thực. Nó<br />
<br />
khước từ cái hiện thực khủng hoảng của xã hội tư sản chứ không chối bỏ hiện thực bản<br />
thể của con người. Đây là nguyên tắc sẽ còn đeo đẳng lâu dài nền nghệ thuật thế giới<br />
trong suốt thế kỷ XX và cho đến cả đầu thế kỷ XXI này. Ở đây chúng tôi xin đơn cử<br />
một số trường phái để thấy chủ nghĩa hiện đại chống lại chủ nghĩa ấn tượng như thế<br />
nào.<br />
Cụ thể, năm 1905, các nghệ sĩ Pháp đã tổ chức một cuộc Triển lãm Mùa Thu hàng<br />
năm tại Paris, chủ yếu trưng bày các tác phẩm nghệ thuật của các họa sĩ đương thời<br />
người Pháp như: Henri Matisse, André Derain, Maurice de Vlaminck,... Nằm trong<br />
phản ứng chung chống lại các trào lưu nghệ thuật thế kỷ XIX như chủ nghĩa tân cổ<br />
điển, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa lãng mạn, và chống lại cả những giá trị hiện thực<br />
nông cạn của chủ nghĩa ấn tượng, các nghệ sĩ hiện đại trên đây quan niệm rằng nghệ<br />
thuật phải sử dụng các phương tiện mạnh mẽ để biểu lộ trực tiếp tư tưởng, tình cảm.<br />
Theo họ, nghệ thuật không chỉ ghi lại những “ấn tượng” vụn vặt về hiện thực, mà nó<br />
còn phải “biểu hiện”, phải bộc lộ mạnh mẽ những tâm tư của người nghệ sĩ. Để làm<br />
được như vậy, người nghệ sĩ phải dùng đến những gam màu bốc lửa, chói mắt. Đó<br />
chính là phương châm và phong cách sáng tác của các họa sĩ tham gia cuộc Triển lãm<br />
Mùa Thu 1905. Từ quan niệm nghệ thuật của họ như thế, trào lưu này về sau đã được<br />
các nhà phê bình đặt tên cho là “chủ nghĩa biểu hiện”.<br />
Trong cuộc Triển lãm Mùa Thu nói trên, người ta thấy còn có tranh của cả một<br />
họa sĩ hậu ấn tượng người Pháp Henri Rousseau, trong đó có bức tranh Sư tử đói vồ<br />
linh dương của ông (1905). Nói chung, Henri Rousseau thường vẽ các cảnh hoang dã<br />
theo phong cách ngây thơ và nguyên thủy, ví như bức tranh hoang dã đầu tiên của ông<br />
cũng vẽ về sư tử: Sư tử trong cơn bão nhiệt đới (1891). Tranh của các họa sĩ biểu hiện<br />
trên đây, cùng với tranh của Henri Rousseau, đã tạo ra một không khí sôi động và hỗn<br />
sắc cho cuộc triển lãm. Đặc biệt là trong phòng triển lãm người ta còn trưng bày cả<br />
một loạt bức tượng theo phong cách Phục Hưng, làm cho người xem càng cảm thấy<br />
một sự tương phản mạnh mẽ giữa nghệ thuật truyền thống với hội họa của các nghệ sĩ<br />
hiện đại trên kia. Đó chính là bối cảnh làm cho nhà phê bình người Pháp Louis<br />
Vauxcelles khi ấy phải thốt lên: “Donatello lạc giữa bầy dã thú!”. Donatello là một<br />
trong những nhà điêu khắc tiêu biểu của Italia thời Phục Hưng. Đặt các nhà nghệ sĩ<br />
hiện đại như thế bên cạnh những bức tượng cân đối hài hòa của Donatello thì đúng là<br />
một sự tương phản chát chúa nhất. Và tên gọi “dã thú” thốt ra từ miệng một nhà phê<br />
bình đã thể hiện rõ nhất tình trạng tương phản này.<br />
Ngày 17 tháng 10 năm đó, lời bình phẩm của Vauxcelles đã được in lại trên tờ báo<br />
hằng ngày Gil Blas, để từ đó tên gọi “dã thú” nhanh chóng trở thành phổ biến và cái<br />
tên “trường phái dã thú” chính thức ra đời trong khuôn khổ của chủ nghĩa biểu hiện.<br />
2<br />
<br />
Chủ nghĩa vị lai cũng là một sự phản ứng chống lại nghệ thuật chính thống (đại<br />
diện là chủ nghĩa ấn tượng), nhưng đồng thời nó cũng chống lại cả chủ nghĩa tả thực<br />
nhân đạo. Mục tiêu của nó là hướng tới một tính hiện đại triệt để, một nền nghệ thuật<br />
mang những đặc tính của thời hiện đại. Nhưng quan điểm hiện đại của chủ nghĩa vị lai<br />
lại thiên về tính kỹ trị chứ không chú trọng đến số phận của con người như các trào lưu<br />
nghệ thuật hiện đại khác. Ở đây, yếu tố công nghệ và kỹ thuật đã được suy tôn đến<br />
mức tuyệt đối, làm cho chủ nghĩa vị lai có một bộ mặt đặc biệt so với các trào lưu hiện<br />
đại của phong trào tiên phong thế kỷ XX. Tuy nhiên, do không quan tâm đến số phận<br />
con người, cho nên chủ nghĩa vị lai Italia đã tuyên bố ủng hộ chiến tranh như là một<br />
“công việc vệ sinh duy nhất [để làm sạch] thế giới”.<br />
Ngày 20 tháng 2 năm 1909, nhà văn mang hai quốc tịch Italia - Pháp Filippo<br />
Tommaso Marinetti đã cho đăng trên tờ báo Le Figaro tại Paris bản tuyên ngôn đầu<br />
tiên của chủ nghĩa vị lai in bằng tiếng Pháp nhan đề: Sự sáng lập và bản tuyên ngôn<br />
của chủ nghĩa vị lai. Trong bản tuyên ngôn này, lần đầu tiên chủ nghĩa vị lai được giới<br />
thiệu như là một trào lưu hoàn toàn mới lạ, độc đáo và tân tiến nhất, hoàn toàn đoạn<br />
tuyệt với nghệ thuật quá khứ và với tất cả các phương thức nghệ thuật chính thống<br />
hoặc theo lối truyền thống. Bản tuyên ngôn này sau đó được đăng lại trên tờ tạp chí<br />
Poesia [“Thơ ca”] tại thành phố Milano, Italia. Một năm sau xuất hiện thêm hai bản<br />
tuyên ngôn vị lai nữa của một nhóm nghệ sĩ người Italia và cũng được đăng trên<br />
Poesia. Về sau còn xuất hiện thêm nhiều bản tuyên ngôn của chủ nghĩa vị lai. Nhưng<br />
chỉ có ba bản tuyên ngôn nói trên, cộng với bản tuyên ngôn Điêu khắc vị lai của<br />
Umberto Boccioni in năm 1912, là những văn kiện quan trọng nhất phác họa đầy đủ<br />
diện mạo và đường lối hành động của chủ nghĩa vị lai. Thậm chí người ta còn nói<br />
chính những bản tuyên ngôn đó mới là những cái làm cho chủ nghĩa vị lai nổi tiếng<br />
chứ không phải là những sáng tác của họ.<br />
Quả thực, những lời tuyên bố trong bản tuyên ngôn thứ nhất đã thực sự làm cho<br />
người đọc bị sốc, thậm chí còn sốc hơn cả so với trường hợp của bản tuyên ngôn Đađa<br />
sau này, bởi lẽ đó là những lời lẽ liên quan trực tiếp đến vận mệnh của loài người. Qua<br />
những lời lẽ đó, chủ nghĩa vị lai hiện ra với những đường nét dữ dội và quyết liệt. Tinh<br />
thần cốt lõi của nó là hành động và tốc độ! Vì thế nó cũng có thể được coi là một<br />
phong trào nghệ thuật cách mạng.<br />
Nếu như chủ nghĩa vị lai mới chỉ nhân danh khoa học và kỹ thuật để xây dựng<br />
một nền nghệ thuật mới mà chưa có thời gian để áp dụng khoa học một cách kỹ lưỡng,<br />
thì chủ nghĩa lập thể chính là một trường phái đã có ý thức nghiên cứu và áp dụng yếu<br />
tố khoa học để biến mỗi tác phẩm nghệ thuật thành một công trình thử nghiệm.<br />
Đây là một trong những trào lưu xuất hiện sớm từ đầu thế kỷ XX. Trong không<br />
3<br />
<br />
khí đổi mới của nghệ thuật đầu thế kỷ, các nghệ sĩ ngày càng quan tâm đến vai trò của<br />
khoa học. Họ cho rằng muốn đổi mới nghệ thuật thì không thể chỉ thuần túy dựa vào<br />
bản thân nghệ thuật, mà họ cần phải dựa vào nhiều yếu tố xã hội và văn hóa khác nữa.<br />
Trong các yếu tố đó, khoa học và kỹ thuật là những yếu tố quan trọng. Ở đầu thế kỷ<br />
XX này, các nghệ sĩ cho rằng nghệ thuật muốn phát triển theo hướng hiện đại thì<br />
không thể bỏ qua khoa học.<br />
Tất nhiên trong những thời kỳ nhất định, khoa học vẫn hiện diện trong nghệ thuật<br />
ở một mức độ nào đó. Người ta đã nói nhiều đến việc các họa sĩ và các nhà điêu khắc<br />
trong mọi thời đại đều cần phải có kiến thức về khoa học giải phẫu cơ thể để thực hiện<br />
các bức chân dung nghệ thuật; hay ở thời kỳ gần với thời của phong trào tiên phong<br />
đầu thế kỷ XX, các họa sĩ ấn tượng và hậu ấn tượng chủ nghĩa cũng cần có các kiến<br />
thức về quang học và về kỹ thuật phân giải màu sắc để tạo ra các bức tranh đa ấn<br />
tượng và tạo hiệu quả tác động trực tiếp đến võng mạc của người xem... Đấy là những<br />
ngành khoa học ít nhiều đều có liên quan thực tế đến nghệ thuật tạo hình. Nhưng, các<br />
nghệ sĩ được gọi là lập thể lại nghiên cứu một ngành khoa học có vẻ như xa vời với<br />
nghệ thuật: đó là hình học - một bộ môn của toán học!<br />
Tiếp thu ý tưởng của các lý thuyết khoa học của thời đại - như thuyết trực giác của<br />
Bergson, học tập kinh nghiệm của các nghệ sĩ thuộc các trường phái hiện đại khác, đặc<br />
biệt là trường phái vị lai, chủ nghĩa lập thể đã kết hợp các kiến thức đó với các thành<br />
tựu nghiên cứu của khoa hình học không gian hiện đại để thử nghiệm một kiểu sáng<br />
tác mới là mổ xẻ các hình khối rồi lại sắp xếp lại chúng để tái tạo một hiện thực mới<br />
cho xã hội và nhân loại. Những lý thuyết đó đều là những lý thuyết khoa học rất mới<br />
và chúng mở ra cho các nghệ sĩ nhiều cơ hội để họ sáng tạo nên một nền nghệ thuật<br />
hoàn toàn hiện đại khác biệt hẳn với nghệ thuật truyền thống.<br />
Qua phản ứng của các nghệ sĩ hiện đại đầu thế kỷ XX, có thể thấy rằng nghệ thuật<br />
ấn tượng chủ nghĩa là bức tường thành cuối cùng của nghệ thuật truyền thống mà họ<br />
phải vượt qua. Và để vượt qua bức tường thành đó, các nghệ sĩ hiện đại cần phải cầu<br />
viện đến nhiều phương tiện, trong đó có khoa học. Trong một cuộc triển lãm tranh của<br />
các họa sĩ ấn tượng vào thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX, họa sĩ Picasso đã nhìn quanh<br />
và thốt lên: “Ở đây người ta thấy có trời mưa, người ta thấy có trời nắng, nhưng người<br />
ta không hề thấy hội họa.” Năm 1908, khi giới thiệu họa sĩ Braque, nhà thơ Pháp<br />
Guillaume Apollinaire, người ủng hộ nhiệt tình phong trào đổi mới nghệ thuật và là<br />
người khởi xướng nền thơ ca hiện đại, đã nhắc đến giai đoạn của chủ nghĩa ấn tượng<br />
như là “một thời kỳ dốt nát và cuồng nhiệt”.1<br />
Từ đó, Picasso, Braque và Léger là ba trong số những người đầu tiên tìm cách<br />
thoát khỏi chủ nghĩa ấn tượng bằng một con đường riêng ngoài các con đường mà các<br />
4<br />
<br />
trào lưu hiện đại khác đang mầy mò thử nghiệm. Họ đã tìm thấy lối thoát ở phương<br />
pháp sáng tác của nhà họa sĩ hậu ấn tượng người Pháp Paul Cézanne.<br />
Paul Cézanne là họa sĩ tiêu biểu nhất của trào lưu hậu ấn tượng. Ông cho rằng các<br />
họa sĩ ấn tượng chủ nghĩa sử dụng màu sắc để tạo ánh sáng tác động trực tiếp đến đôi<br />
mắt người xem, từ đó tạo ra các ấn tượng về đối tượng được mô tả. Nhưng những ấn<br />
tượng do chủ nghĩa ấn tượng tạo ra chỉ là những ấn tượng nông cạn, tạm thời. Và<br />
Cézanne chính là người xuất thân từ chủ nghĩa ấn tượng để rồi ông sẽ phải vượt qua<br />
nó. Ông cho rằng muốn hiểu hiện thực thì phải vượt qua ấn tượng để thâm nhập sâu<br />
vào bản chất của nó. Muốn thế, cần phải tiếp cận hiện thực từ các góc cạnh. Vậy là<br />
Cézanne đã tìm cách sử dụng màu sắc để tạo hình khối cho đối tượng. Ông tuyên bố<br />
rằng: “Phong cảnh được nhân hóa, được phản ánh và suy nghĩ trong tôi.”2 Có nghĩa là<br />
đối với ông, hội họa là một hoạt động tư duy nội tâm. Chính vì thế mà danh họa<br />
Picasso đã nói: “Tôi quan tâm đến nỗi lo âu của Cézanne, đến những nỗi đau của Van<br />
Gogh, tức là đến bi kịch của con người. Những cái còn lại không quan trọng.”3<br />
Tuy nhiên, để diễn đạt phong cảnh nhân hóa, Cézanne quan tâm rất kỹ đến hình<br />
khối và đến việc dùng màu sắc để tạo hình khối. Ông đã nói: “Trong thiên nhiên, tất cả<br />
đều được tạo dáng theo ba công thức cơ bản: hình cầu, hình nón và hình trụ. Cần phải<br />
vẽ các hình khối cực kỳ đơn giản này, sau đó anh có thể làm bất cứ điều gì anh<br />
muốn.”4 Đây chính là những công thức mở đường cho các nghệ sĩ lập thể sau này, và<br />
theo chúng tôi, Picasso không chỉ quan tâm đến nỗi lo âu đơn thuần của Cézanne, mà<br />
chủ yếu là ông quan tâm đến ba cái công thức vẽ cơ bản trên đây của Cézanne. Hình<br />
khối ba chiều sẽ chiếm đoạt tâm trí Cézanne suốt cả cuộc đời, hội họa của ông sẽ<br />
chứng tỏ là một nguồn kích thích trí tuệ cho các nghệ sĩ sau này được gọi là nghệ sĩ lập<br />
thể.<br />
Năm 1906-1907, Picasso vẽ bức tranh nổi tiếng Các tiểu thư ở Avignon. Đây được<br />
coi là bức tranh nguyên mẫu của chủ nghĩa lập thể và mang tính điển hình cho bản tính<br />
sáng tạo của Picasso. Toàn bộ cảnh quan của bức tranh đã được tác giả phá vỡ thành<br />
các hình khối trong một nhịp không gian hoàn toàn xa lạ với không gian hội họa truyền<br />
thống. Mặt khác, trong xu hướng phục cổ lúc bấy giờ, Picasso cũng quan tâm sâu sắc<br />
đến nghệ thuật tạo hình dân gian nguyên thủy da đen. Và ngay trong bức tranh mở đầu<br />
cho chủ nghĩa lập thể này, ông cũng đã kịp thổi vào đó linh hồn của nghệ thuật nguyên<br />
thủy da đen.<br />
Sau những thử nghiệm ngập ngừng, đến mùa hè năm 1907, họa sĩ người Pháp<br />
Georges Braque cũng bắt đầu vẽ tranh theo phong cách Các tiểu thư ở Avignon. Một<br />
năm sau, một số bức tranh của Braque đã được trưng bày tại cuộc Triển lãm Mùa Thu<br />
ở Paris. Nhân dịp này, nhà phê bình nghệ thuật Louis Vauxcelles - cũng chính là người<br />
5<br />
<br />