intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tham vọng kinh tế và những toan tính về chiến lược của các nước lớn ở tiểu vùng Mekong những năm đầu thế kỉ XXI

Chia sẻ: Trần Minh Luân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

29
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Tham vọng kinh tế và những toan tính về chiến lược của các nước lớn ở tiểu vùng Mekong những năm đầu thế kỉ XXI bài viết tập trung làm rõ những tham vọng kinh tế và tính toán về chiến lược của các nước lớn trong việc tham gia hợp tác ở Tiểu vùng Mekong những năm đầu thế kỉ XXI,... Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tham vọng kinh tế và những toan tính về chiến lược của các nước lớn ở tiểu vùng Mekong những năm đầu thế kỉ XXI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH<br /> <br /> HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC<br /> <br /> JOURNAL OF SCIENCE<br /> <br /> KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN<br /> SOCIAL SCIENCES AND HUMANITIES<br /> ISSN:<br /> 1859-3100 Tập 15, Số 2 (2018): 134-146<br /> Vol. 15, No. 2 (2018): 134-146<br /> Email: tapchikhoahoc@hcmue.edu.vn; Website: http://tckh.hcmue.edu.vn<br /> <br /> THAM VỌNG KINH TẾ VÀ NHỮNG TOAN TÍNH VỀ CHIẾN LƯỢC<br /> CỦA CÁC NƯỚC LỚN Ở TIỂU VÙNG MEKONG<br /> NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỈ XXI<br /> Nguyễn Chung Thủy*<br /> Khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh<br /> Ngày nhận bài: 05-01-2018; ngày nhận bài sửa: 07-02-2018; ngày duyệt đăng: 23-02-2018<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Trên cơ sở nêu và phân tích sự gia tăng của quá trình toàn cầu hóa; liên kết khu vực, vị trí,<br /> vai trò, tiềm năng của Tiểu vùng Mekong và nhu cầu tìm kiếm các lợi ích kinh tế của Trung Quốc,<br /> Nhật Bản ở Tiểu vùng này, bài viết tập trung làm rõ những tham vọng kinh tế và tính toán về chiến<br /> lược của các nước lớn trong việc tham gia hợp tác ở Tiểu vùng Mekong những năm đầu thế kỉ XXI.<br /> Từ khóa: kinh tế, chiến lược, nước lớn, Tiểu vùng Mekong.<br /> ABSTRACT<br /> The economic ambitions and strategic intentions of big countries<br /> in Mekong sub-region in the early years of the 21st century<br /> Based on discussion and analysis of the growth of the process of globalization and region<br /> connection; position and potential of economic geography and geostrategy of Mekong Subregion,<br /> the article indicates intention of big countries such as China, Japan, the United States and India in<br /> competition for economic geography and geostrategy in Mekong subregion in the early years of<br /> the 21st century.<br /> Keywords: economic, geostrategy, large countries, Mekong Subregion.<br /> <br /> Đặt vấn đề<br /> Những năm đầu thế kỉ XXI, quá trình toàn cầu hóa và liên kết khu vực diễn ra ngày<br /> càng mạnh mẽ và làm gia tăng tính phụ thuộc giữa các quốc gia. Trong bối cảnh đó, khu<br /> vực Đông Nam Á nói chung và Tiểu vùng Mekong nói riêng đang trở thành địa bàn thu hút<br /> sự chú ý đặc biệt của các nước lớn và các tổ chức quốc tế trong việc tham gia vào các<br /> chương trình, dự án hợp tác xuyên quốc gia ở Tiểu vùng. Sự tham gia của Trung Quốc,<br /> Nhật Bản, Ấn Độ và Mĩ trong hợp tác quốc tế với các nước ở Tiểu vùng Mekong những<br /> năm đầu thế kỉ XXI đã và đang thực sự trở thành một cuộc đua cạnh tranh ảnh hưởng mang<br /> tính chiến lược giữa các nước lớn ở Tiểu vùng Mekong và có tác động không nhỏ tới quan<br /> hệ quốc tế ở khu vực này. Tuy nhiên, sự tham gia của các nước lớn vào hợp tác với các<br /> nước ở tiểu vùng đều ẩn chứa đằng sau đó những tham vọng về kinh tế và những ý đồ về<br /> địa chiến lược riêng của họ. Trên cơ sở phân tích một số khía cạnh như: sự gia tăng của quá<br /> <br /> * Email: nguyenthuydhsp@gmail.com<br /> <br /> 134<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM<br /> <br /> Nguyễn Chung Thủy<br /> <br /> trình toàn cầu hóa và liên kết khu vực; vị trí, vai trò và tiềm năng của Tiểu vùng Mekong<br /> trong hợp tác quốc tế ở tiểu vùng; sự “trỗi dậy” của Trung Quốc và những toan tính chiến<br /> lược của Nhật Bản, Ấn Độ và Mĩ trong việc kiềm chế Trung Quốc… Qua đó, chúng tôi<br /> muốn làm rõ những tham vọng về kinh tế và những toan tính về chiến lược của các nước<br /> lớn khi tham gia hợp tác với các nước ở Tiểu vùng Mekong từ những năm đầu thế kỉ XXI<br /> đến nay.<br /> 1.<br /> Sự gia tăng của quá trình toàn cầu hóa và liên kết khu vực ở những năm đầu<br /> thế kỉ XXI<br /> Sau những biến đổi to lớn ở những năm cuối thế kỉ XX, thế giới bước sang thế kỉ<br /> XXI tiếp tục có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, tác động sâu sắc đến<br /> nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội trên phạm vi toàn cầu. Sự biến đổi ấy<br /> đã tác động đa chiều, đưa đến cả thời cơ cũng như thách thức cho các quốc gia trên thế<br /> giới.<br /> Trong sự biến đổi của tình hình thế giới những năm đầu thế kỉ XXI, cùng với các vấn<br /> đề như sự định hình của cục diện thế giới mới trong quan hệ quốc tế, sự bùng nổ của cách<br /> mạng khoa học công nghệ hiện đại thì bên cạnh đó, quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa<br /> cũng diễn ra ngày càng mạnh mẽ, quyết liệt.<br /> Xu thế toàn cầu hóa (mà cốt lõi là toàn cầu hóa kinh tế) không phải là một xu thế mới<br /> xuất hiện gần đây mà nó đã hình thành ngay từ đầu thế kỉ XX, được đẩy nhanh ở hai thập<br /> niên cuối thế kỉ XX và phát triển mạnh mẽ từ đầu thế kỉ XXI (Lê Minh Quân, 2010, tr.33).<br /> Sự kiện Tổ chức Thương mại Thế giới ra đời thay thế cho Hiệp định chung về thương mại<br /> và thuế quan (GATT) năm 1995 là biểu hiện tiêu biểu của tiến trình toàn cầu hóa. Xu thế<br /> toàn cầu hóa gia tăng với các biểu hiện mới về vai trò ngày càng lớn của hoạt động tài<br /> chính tiền tệ; sự gia tăng của mậu dịch quốc tế nhanh hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng<br /> kinh tế; việc gia tăng làn sóng sát nhập các công ti xuyên quốc gia; vai trò ngày càng quan<br /> trọng của tri thức và sự phát triển của loại hình kinh tế tri thức.<br /> Toàn cầu hóa đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thế<br /> giới, chi phối tới quá trình phân công lao động giữa các quốc gia. Cũng có ý kiến cho rằng,<br /> hiện nay thế giới đang bước vào làn sóng toàn cầu hóa lần thứ tư1 dưới sự tác động của<br /> cách mạng khoa học công nghệ. Tất cả các quốc gia trên thế giới đều xem kinh tế thị<br /> trường là mô hình phát triển tối ưu. Thể chế kinh tế thế giới chuyển biến theo thị trường<br /> hóa nền kinh tế của từng quốc gia. Toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra với tốc độ của thời kì<br /> “kĩ thuật số” thúc đẩy sự lưu chuyển tự do ngày càng tăng của các dòng hàng hóa, dịch vụ,<br /> lao động, vốn, công nghệ; sự hình thành của mạng lưới sản xuất với vai trò của các công ti<br /> 1<br /> <br /> Làn sóng toàn cầu hóa lần thứ nhất diễn ra sau cuộc cách mạng công nghiệp ở châu Âu (giai đoạn 1870-1914); lần thứ<br /> hai diễn ra từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến giữa thập niên 80 (thế kỉ XX), chịu tác động bởi hệ thống tiền tệ<br /> Bretton Woods; lần thứ ba khởi đầu giữa những năm 1980, sau đó được đẩy mạnh khi chiến tranh Lạnh kết thúc; lần thứ<br /> tư được tính từ những năm đầu thế kỉ XXI.<br /> <br /> 135<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM<br /> <br /> Tập 15, Số 2 (2018): 134-146<br /> <br /> xuyên quốc gia; sự cạnh tranh cao độ giữa các công ti độc quyền, giữa các quốc gia hay<br /> giữa các khu vực để giành các ưu thế của toàn cầu hóa và chiếm lĩnh các vị trí mới trong<br /> nền kinh tế thế giới.<br /> Cùng với toàn cầu hóa, xu thế khu vực hóa cũng đang diễn ra mạnh mẽ ở nhiều khu<br /> vực trên thế giới. Khu vực hóa kinh tế hay liên kết kinh tế khu vực là quá trình nhất thể hóa<br /> giữa các nước, các khu vực khác nhau trong cùng một châu lục hoặc giữa các châu lục với<br /> nhau, trên cơ sở tương đồng về địa lí, văn hóa, xã hội hoặc có chung mục tiêu, lợi ích phát<br /> triển, dựa trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, thông qua kí kết các điều ước hoặc hiệp<br /> định, lập ra các chuẩn tắc thống nhất để hoạt động và thực hiện các mục đích kinh tế, chính<br /> trị chung. Tuy nhiên, khác với sự liên kết khu vực ở cuối thế kỉ XX, sự hình thành các khu<br /> vực mậu dịch tự do hiện nay không có sự phân biệt trình độ phát triển kinh tế và chế độ<br /> chính trị, xã hội. Bên cạnh đó, thế giới cũng chứng kiến sự bùng nổ của các hiệp định<br /> thương mại tự do song phương (FTA). Ở cấp độ khu vực hay toàn cầu thì các FTA sẽ có<br /> những tác động nhiều chiều tới các nền kinh tế cũng như tới quá trình liên kết khu vực.<br /> Các tổ chức liên kết cũng như các FTA thường được dẫn dắt bởi các nền kinh tế lớn, và<br /> điều đó đặt ra nhiều thách thức đối với các thành viên là các nước có nền kinh tế phát triển<br /> kém hơn.<br /> Ở khu vực Đông Nam Á, những năm đầu thế kỉ XXI, trước sự trỗi dậy mạnh mẽ của<br /> Trung Quốc cùng sự lớn mạnh của Ấn Độ và sự gia tăng can dự của Hoa Kì vào châu Á –<br /> Thái Bình Dương, đã tác động đến tình hình an ninh, kinh tế của các nước trong khu vực.<br /> Đặc biệt, nhu cầu đẩy mạnh hợp tác kinh tế một cách hiệu quả giữa các nước thành viên<br /> ASEAN đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, các nước ASEAN nhận thấy cần<br /> phải đẩy mạnh quá trình liên kết giữa các nước. Xu thế “nhất thể hóa” ASEAN cũng được<br /> chính phủ các nước quan tâm và đẩy mạnh xúc tiến.<br /> Tháng 10/2003, lãnh đạo các nước ASEAN đã kí Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II<br /> (Hiệp ước Bali II) và khẳng định ASEAN sẽ tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng quan hệ với các<br /> đối tác bên ngoài vì mục tiêu chung là hòa bình, ổn định và hợp tác cùng có lợi ở khu vực.<br /> Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa có nhiều biến động, các nước ASEAN cần phải đẩy<br /> mạnh hợp tác nội khối và ngoại khối với các cường quốc lớn như Hoa Kì, Trung Quốc.<br /> Tháng 01/2007, lãnh đạo các nước ASEAN đã khẳng định “quyết tâm đẩy nhanh tiến trình<br /> liên kết nội khối dựa trên cơ sở pháp lí là Hiến chương ASEAN, nhất trí về mục tiêu hình<br /> thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015”2. Đây là bước chuyển quan trọng trong chính<br /> sách đối nội của ASEAN vì đã quyết tâm rút ngắn thời gian thành lập Cộng đồng ASEAN<br /> (AC) vào năm 2015 (so với kế hoạch là năm 2020). ASEAN đã khẩn trương xúc tiến xây<br /> dựng các Kế hoạch tổng thể (Blueprints) để xây dựng AC gồm 3 trụ cột quan trọng là<br /> Cộng đồng Chính trị - An ninh (APSC), Cộng đồng Kinh tế (AEC) và Cộng đồng Văn hóa<br /> 2<br /> <br /> http://asean.mofa.gov.vn/vi/nr130930205728/nr131113222745/ns131113223954/newsitem_print_preview.<br /> <br /> 136<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM<br /> <br /> Nguyễn Chung Thủy<br /> <br /> - Xã hội (ASCC). Đây là nỗ lực to lớn của các nước thành viên ASEAN trong việc hướng<br /> đến xây dựng một cộng đồng chung cho cả khu vực. Qua đó, gia tăng sức mạnh về kinh tế<br /> và quân sự, an ninh chính trị cho ASEAN.<br /> Tháng 02/2009, Hội nghị Cấp cao ASEAN-14 đã thông qua Tuyên bố về Lộ trình<br /> xây dựng Cộng đồng ASEAN kèm theo 3 Kế hoạch tổng thể xây dựng 3 trụ cột Cộng đồng<br /> ASEAN. Trên cơ sở đó, ngày 31/12/2015, Cộng đồng ASEAN đã chính thức thành lập.<br /> Những năm đầu thế kỉ XXI, quan hệ hợp tác kinh tế giữa các nước thành viên trong<br /> ASEAN cũng đạt nhiều thành tựu quan trọng. GDP của ASEAN trong năm 2012 đạt 3620<br /> tỉ USD và thu nhập bình quân đầu người của khối là 5869 USD3. Đây là một thành tựu<br /> quan trọng trong bước tiến đến thành lập AEC vào năm 2015. Sang năm 2013, thương mại<br /> nội khối ASEAN lên tới 608,6 tỉ USD, chiếm 24,2% tổng thương mại của khu vực, so với<br /> 458,1 tỉ USD trong năm 2008 khi Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC bắt đầu được thực<br /> hiện. Mặt khác, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các nước ASEAN lên tới<br /> 122,4 tỉ USD trong năm 2013, cao nhất so với toàn cầu. Các nước ASEAN kì vọng tăng<br /> trưởng kinh tế của khu vực sẽ tăng lên 5,1% trong năm 2014, so với dự báo tăng trưởng<br /> toàn cầu là 3,5% (Website: Cafef.vn, 2015). Những thành tựu này đã biến ASEAN thành<br /> khu vực năng động và phát triển bậc nhất trên thế giới.<br /> 2.<br /> Vị trí, vai trò và tiềm năng của Tiểu vùng Mekong trong những toan tính của<br /> các nước lớn<br /> Tiểu vùng Mekong bao gồm 5 quốc gia là Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và<br /> Việt Nam. Tiểu vùng có diện tích gần 2 triệu km2, dân số khoảng 250 triệu người (năm<br /> 2012). Đây là khu vực tăng trưởng kinh tế năng động trong những năm gần đây. Năm<br /> 2015, bình quân tăng trưởng khu vực này đạt mức 6,1%, trong khi tăng trưởng bình quân<br /> của thế giới ở mức 2,5% (Báo điện tử Thế giới và Việt Nam, 2016).<br /> Về vị trí địa lí, đây là khu vực bản lề, là ngã ba giao lưu giữa ba vùng Đông Bắc Á,<br /> Đông Nam Á và Nam Á. Có thể nói, Tiểu vùng Mekong nằm giữa những vùng năng động<br /> và phát triển nhất của châu Á trong thế kỉ tới. Đặc biệt, trong bối cảnh quốc tế và khu vực<br /> hiện nay, khi sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn ở khu vực Đông Nam Á đang<br /> diễn ra quyết liệt thì khu vực Tiểu vùng Mekong ngày càng trở lên quan trọng hơn ở khu<br /> vực Đông Nam Á.<br /> Về mặt tiềm năng hợp tác, do sự giàu có của các nguồn lực tự nhiên và xã hội, Tiểu<br /> vùng Mekong là khu vực có tiềm năng to lớn cho hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực.<br /> Trước hết, về tiềm năng tự nhiên, có thể nói bên cạnh sự giàu có về tài nguyên đất,<br /> khoáng sản, đây là khu vực rất giàu có về tiềm năng thủy điện và thủy sản. Với lợi thế từ<br /> sông Mekong – con sông có chiều dài 4880 km (dài thứ 12 trên thế giới và dài nhất Đông<br /> Nam Á) với tổng lượng nước hàng năm đổ ra Biển Đông khoảng 475 tỉ m3 và được xếp<br /> 3<br /> <br /> http://www.vietnamplus.vn/gdp-asean-van-manh-me-nho-su-ho-tro-cua-dich-vu/226327.vnp.<br /> <br /> 137<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM<br /> <br /> Tập 15, Số 2 (2018): 134-146<br /> <br /> hạng thứ 8 trên thế giới về lượng nước. Do vậy, trữ lượng thủy điện của sông Mekong rất<br /> dồi dào, với công suất 30.000 MW. Ngoài tiềm năng thủy điện, tiềm năng về trữ lượng<br /> thủy hải sản cũng rất lớn. Theo các công trình nghiên cứu, đây là “nhà” của hơn 1300 loài<br /> thủy sản (với khoảng 240 loài cá, trong đó, cá nheo lớn có thể dài tới 3 mét và nặng 300kg<br /> (tên khoa học là Pagasianodon gisgas); cá heo Irrawaddy có thể dài 2,5m và nặng 150kg đã<br /> được ghi vào danh sách những loại động vật có nguy cơ tuyệt chủng của Liên minh Thế<br /> giới Bảo vệ Thiên nhiên (UICN) năm 2003) (Nguyễn Thị Hoàn, 2009, tr.303). Vì vậy,<br /> hàng năm, sông Mekong cung cấp sản lượng thủy sản đến hơn 1,5 triệu tấn.<br /> Về nguồn lực xã hội, Tiểu vùng có cơ cấu dân số thuộc loại trẻ, với khoảng 50% số<br /> dân trong độ tuổi lao động. Tuy nhiên, trình độ, kĩ năng nghề nghiệp còn thấp, rất cần hợp<br /> tác để đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Đồng thời, với hơn 300 triệu dân (năm 2012),<br /> đây là một thị trường khá lớn cho hợp tác buôn bán thương mại và là nguồn thị trường<br /> nhân công giá rẻ cho các nước phát triển khai thác trong quá trình hợp tác. Bên cạnh đó,<br /> đây là khu vực đang phát triển khá năng động. Nếu trước đây, đặc điểm kinh tế nổi bật<br /> chung cả tiểu vùng còn rất lạc hậu, thì gần đây, với những cải cách kinh tế theo hướng thị<br /> trường, nhìn chung các quốc gia thuộc Tiểu vùng sông Mekong đã đạt được mức tăng<br /> trưởng kinh tế nhanh, vào khoảng 6%/năm. Năm 2000, tổng GDP của nền kinh tế trong<br /> Tiểu vùng đạt khoảng 300 tỉ USD. Mức GDP bình quân theo đầu người đạt khoảng từ 350<br /> USD tới 3100 USD và mức trung bình trong toàn khu vực gần đạt tới 1200 USD (Bộ<br /> Thương mại, 2006, tr.14).<br /> Trong bối cảnh của tình hình khu vực và thế giới những năm đầu thế kỉ XXI, nhất là<br /> ở khu vực Đông Nam Á, với sự lớn mạnh và ngày càng khẳng định được vai trò, vị thế của<br /> tổ chức ASEAN, quá trình hợp tác và liên kết giữa các quốc gia trong và ngoài khu vực<br /> đang diễn ra mạnh mẽ, các quốc gia ở Tiểu vùng Mekong với vị trí địa lí quan trọng, sự<br /> giàu có về các tiềm năng tự nhiên, nhân lực và thị trường, đang giữ vai trò ngày càng quan<br /> trọng trên bản đồ khu vực Đông Nam Á. Những yếu tố đó đã làm cho khu vực này trở<br /> thành địa bàn thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các nước lớn trong những toan tính<br /> của họ khi tham gia hợp tác ở tiểu vùng.<br /> 3.<br /> Những tính toán chiến lược của Nhật Bản, Mĩ và Ấn Độ trong việc kiềm chế<br /> Trung Quốc<br /> (i) Trước hết là về sự “trỗi dậy” của nhân tố Trung Quốc<br /> Sau hơn hai thập niên thực hiện chính sách cải cách và mở cửa nền kinh tế (kể từ<br /> năm 1978), Trung Quốc đã gặt hái được những kết quả quan trọng trong việc phát triển<br /> kinh tế - xã hội, nâng cao vai trò và vị thế của mình trên trường quốc tế. Đặc biệt, từ đầu<br /> thế kỉ XXI đến nay, thế giới đang chứng kiến sự trỗi dậy một cách ngoạn mục của Trung<br /> Quốc. Năm 2010, Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản để vươn lên trở thành nền kinh tế<br /> đứng thứ hai trên thế giới. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc chủ trương xây dựng Trung Quốc<br /> <br /> 138<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2