An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112<br />
<br />
THƠ NỮ NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX NHÌN TỪ<br />
PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT<br />
Đặng Thị Ngọc Phượng1<br />
1<br />
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế<br />
Thông tin chung:<br />
Ngày nhận bài: 10/07/2016<br />
Ngày nhận kết quả bình duyệt:<br />
28/08/2016<br />
Ngày chấp nhận đăng: 04/2017<br />
Title:<br />
Feminist poems in the early 20th<br />
century through artistic<br />
perspectives<br />
Keywords:<br />
Feminist poems, poetic genres,<br />
lyrics, rhythms<br />
Từ khóa:<br />
Thơ nữ, thể thơ, ngôn ngữ,<br />
giọng điệu<br />
<br />
ABSTRACT<br />
Feminist poems is an indispensable part among the Vietnamese poems. It is<br />
clearly seen that the appearance of numerous female poets in the early 20th<br />
century confirmed their contribution to the innovation of poem arts, including<br />
poetic genres, lyrics, and rhythms. It is needed to do research on the works of<br />
the female poets during the periods to reveal how Vietnamese spirits were<br />
connected the society and could also start a new phase of life.<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Thơ nữ là một bộ phận không thể thiếu trong nền thơ ca dân tộc. Sự ra đời của<br />
đội ngũ đông đảo các nhà thơ nữ những năm đầu thế kỷ XX khẳng định đóng<br />
góp của họ về những đổi mới trên phương diện nghệ thuật: thể thơ, ngôn ngữ,<br />
giọng điệu. Nghiên cứu thơ của các nhà thơ nữ giai đoạn này để thấy được tâm<br />
hồn Việt đã gắn kết, khơi nguồn từ cuộc sống và mang hơi thở thời đại.<br />
<br />
nhất, nhân vật chính của văn học. Nhà nghiên cứu<br />
Mã Giang Lân lại cho rằng: “Mỗi thời đại, mỗi<br />
giai đoạn lịch sử thường sử dụng những thể loại<br />
thích hợp mà ở đấy chúng ta có thể thấy được sự<br />
vận động trong tư duy sáng tạo của nhà thơ” (Mã<br />
Giang Lân, 2005, tr. 19). Nhìn lại lịch sử thơ ca,<br />
các thể thơ truyền thống của dân tộc ta là những<br />
thể thơ được sử dụng phổ biến và làm cơ sở cho<br />
sự ra đời của những thể Thơ mới sau này (từ năm<br />
1932 trở đi).<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Thành quả của thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay<br />
không thể không nhắc đến sự góp mặt của các cây<br />
bút nữ qua từng thời kỳ. Tuy chưa có sự đông đảo<br />
về lực lượng sáng tác nhưng thành tựu của các nhà<br />
thơ nữ trong những năm đầu thế kỷ XX là không<br />
thể phủ nhận. Nghiên cứu thơ nữ giai đoạn này để<br />
thấy được những đóng góp của họ về phương diện<br />
nghệ thuật: thể thơ, ngôn ngữ, giọng điệu. Đây là<br />
một trong những cách tiếp cận văn học, có khả năng<br />
tái hiện đúng và đa dạng diện mạo thơ nữ Việt Nam<br />
giai đoạn đầu thế kỷ XX.<br />
<br />
Sang thế kỉ XX, quá trình hiện đại hoá văn học đã<br />
làm cho văn học Việt Nam thay đổi một cách cơ<br />
bản. Thể loại thơ ca luôn có những yếu tố vận động,<br />
biến đổi. Do đó, nó vừa có tính truyền thống, vừa<br />
mang tính cách tân hiện đại. Thơ nữ cũng không<br />
nằm ngoài những quy luật ấy.<br />
<br />
2. NỘI DUNG<br />
2.1 Thể thơ đa dạng<br />
Mỗi thời kỳ văn học, thể loại có những phân định<br />
và đặc trưng khác nhau; thể hiện thái độ, cách<br />
nhìn nhận, cảm thụ về thế giới và con người. Đây<br />
là nơi tích luỹ và đúc kết những giá trị nhận thức<br />
thẩm mỹ về thế giới sáng tác của nhà thơ, nhà<br />
văn. Theo Bakhtin, thể loại chính là nhân vật thứ<br />
<br />
Thơ Đường luật vốn là thể thơ được sử dụng nhiều<br />
nhất trong thơ trung đại, thể loại thơ đã sản sinh ra<br />
nhiều thi tài ở Trung Quốc, Việt Nam... Đó cũng là<br />
nền thơ có thi pháp riêng được quy định bởi thế giới<br />
quan, nhân sinh quan và thẩm mỹ quan của thời đại<br />
103<br />
<br />
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112<br />
<br />
phong kiến Á Đông. Thi pháp đó có nhiều đặc điểm<br />
như sự tôn sùng thiên nhiên, tính quy phạm, tính ước<br />
lệ, tính phi ngã. Những nữ sĩ đứng ở giai đoạn giao<br />
thời như: Đạm Phương, Sương Nguyệt Anh sử<br />
dụng hầu hết các thể thơ truyền thống như: tứ<br />
tuyệt, thất ngôn bát cú Đường luật, ngũ ngôn,<br />
song thất lục bát, lục bát và từ khúc.<br />
<br />
Ngoài thơ thất ngôn tứ tuyệt, thơ thất ngôn bát cú<br />
của bà có phần đặc sắc, gợi tả tâm trạng của nhà<br />
thơ trước cuộc đời. Các bài thơ Hoàng hôn, Vịnh<br />
đêm thu, Vịnh cảnh Ngũ Hành sơn tiêu biểu cho<br />
lối thơ truyền thống, giàu chiêm nghiệm.<br />
Trong khi nhiều nhà thơ lãng mạn cùng thời chịu ảnh<br />
hưởng của văn chương phương Tây thì Ngân Giang<br />
vẫn gắn bó với thơ Đường luật và các thể thơ dân tộc.<br />
Thơ của Ngân Giang gồm các thể: tứ tuyệt, lục bát,<br />
Đường thi thất ngôn bát cú... Bài Xuân mong đợi,<br />
Mười bài tâm sự... được dùng để ký thác niềm riêng<br />
của tác giả. Thơ Đường luật thất ngôn bát cú là thể thơ<br />
khó làm nhất nhưng với Ngân Giang bỗng trở nên “dễ<br />
dàng” như bất cứ thể thơ nào khác. Người đọc bắt gặp<br />
trong Xuân chiến địa:<br />
<br />
Đạm Phương là người góp phần duy trì một<br />
hướng sáng tác thơ Đường luật bằng chữ Quốc<br />
ngữ, mở đầu cho một hướng đi mới của nhiều nhà<br />
thơ về sau. Bài thơ Nhớ bạn, Nhớ cảnh núi… của<br />
Đạm Phương; Đáp Hồ Bá Xuyên, Tỏ chí, Tự thán<br />
của Sương Nguyệt Anh cho thấy sự tài hoa và tố<br />
chất nghệ sĩ của họ. Thể từ gần như ít xuất hiện<br />
trên văn đàn nhưng những bài thơ của Đạm<br />
Phương và Sương Nguyệt Anh là những bài đầu<br />
tiên viết bằng chữ Quốc ngữ theo đúng điệu:<br />
<br />
Lành lạnh bên sông một quán nghèo<br />
Đèn lay dáng trúc gió hiu hiu<br />
<br />
Mảnh trăng đêm dọi bóng quanh thềm<br />
Bóng dọi quanh thềm giấc khó êm.<br />
Giấc khó êm vì thương nhớ bạn<br />
Vì thương nhớ bạn, mảnh trăng đêm.<br />
<br />
Hướng dương trà vẫn thơm như cũ<br />
Khói toả tương tư đượm ít nhiều?<br />
Đường luật thất ngôn bát cú là thể thơ thích hợp<br />
với nữ sĩ. Đọc thơ bà khiến ta thấy nhẹ nhàng,<br />
được sống thoải mái trong không gian cổ kính đầy<br />
yêu thương… Bài thơ Trưng Nữ Vương là một ví<br />
dụ tiêu biểu. Bài thơ hoàn thành vào năm 1939,<br />
thoạt nhìn hình thức vẫn là thể thức của Thơ mới,<br />
gồm có năm đoạn, mỗi đoạn bốn câu, mỗi câu bảy<br />
chữ. Hình thức mới nhưng vẫn còn mang nặng sắc<br />
thái khí vị của thơ Đường, đầy nhạc điệu: Lạc<br />
tướng quên đâu lời tuyết hận/ Non hồng quét sạch<br />
bụi trần ai/ Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận/<br />
Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời…<br />
<br />
(Nhớ bạn - Đạm Phương)<br />
Năm canh thức nhắp, năm canh những,<br />
Nửa gối so le, nửa gối chờ.<br />
Vườn én rủ ren trên lối cũ,<br />
Canh gà xao xác giục tình xưa.<br />
(Tự thán - Sương Nguyệt Anh)<br />
Thơ của Cao Ngọc Anh gồm thơ viết bằng<br />
chữ Hán và thơ viết bằng chữ Quốc ngữ. Những<br />
bài thơ tứ tuyệt cho thấy tài thơ chữ Hán của bà<br />
Cao Ngọc Anh quả không tầm thường, bài thơ<br />
Đào hoa khẩu chiếm là một bài thơ tiêu biểu:<br />
<br />
Về mặt thể loại, các nhà thơ nữ đã vận dụng thành công<br />
các thể thơ dân tộc nhưng không gò bó trong khuôn khổ<br />
những quy phạm chặt chẽ của thể loại mà luôn có<br />
những phá cách và thể nghiệm mới. Với thể thơ lục bát,<br />
thơ nữ đã thể hiện sự linh hoạt, sáng tạo của mình.<br />
Không mô phỏng hoàn toàn ca dao và lục bát dân tộc,<br />
các bà lựa chọn những đặc điểm, yếu tố thích hợp của<br />
lục bát, ca dao để sáng tác cho phù hợp với tâm hồn<br />
của con người thời đại. Các bà biết phát huy giá trị tích<br />
cực của thơ ca dân tộc để đem đến cho thơ ca những giá<br />
trị phù hợp với thực tế đời sống và thế giới nội tâm của<br />
nhà thơ. Cấu trúc câu thơ được sắp xếp theo quy luật<br />
của cảm xúc và dòng chảy của tâm thức. Lục bát, song<br />
thất lục bát cũng là thể thơ quen thuộc được các nhà thơ<br />
nữ sử dụng với tỷ lệ cao. Những bài thơ lục bát, song<br />
<br />
Tích niên lang tháp song đào thụ<br />
Kim kiến đào hoa bất kiến lang<br />
Giả sử hoa thần như hữu thức<br />
Vị lang tiều tuỵ giảm dung quang.<br />
Tác giả đã tự dịch ra tiếng Việt như sau:<br />
Bói hoa đào<br />
Song đào chàng mới trồng năm trước<br />
Nay thấy đào hoa chẳng thấy chàng<br />
Ví khiến thần hoa như có biết,<br />
Vì chàng nhan sắc giảm phần chăng?<br />
<br />
104<br />
<br />
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112<br />
<br />
thất lục bát nhẹ nhàng, giàu cảm xúc: Sóng thơ của Thu<br />
Hồng; Âm thầm, Tơ sầu của Mai Đình; Lòng quê,<br />
Quán cũ trong sương của Hằng Phương; Thuyền đi của<br />
Vân Đài; Vườn trưa, Bóng ai của Cẩm Lai; Ru con,<br />
Ngõ chơ Khâm Thiên của Anh Thơ…<br />
<br />
Sóng lao xao lấp loáng, ánh xa ngời.<br />
<br />
Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, thể thơ song thất<br />
lục bát tạo nên những dòng cảm xúc riêng biệt, không<br />
hoà lẫn. Để khai thác trọn vẹn hơn những khát khao<br />
thầm kín trong hành trình đi tìm hạnh phúc, các nhà<br />
thơ nữ đã khai thác và khám phá một cách toàn vẹn<br />
nhất trái tim của những người phụ nữ yêu thương và<br />
khát khao được sẻ chia, bày tỏ trong thể thơ song thất<br />
lục bát.<br />
<br />
Gợi lòng cho khách qua đàng nhớ nhung…<br />
<br />
Anh Thơ sáng tác ở nhiều thể thơ và hầu như thể<br />
loại nào cũng thể hiện sự thành công của tác giả.<br />
Thể thơ tám chữ là thể thơ được Anh Thơ sử dụng<br />
tương đối nhiều, qua thể thơ này, Anh Thơ đã<br />
giúp cho chúng ta có thêm những hiểu biết, những<br />
cảm nhận về bức tranh phong cảnh, bức tranh<br />
cuộc sống của con người; giúp người đọc như<br />
đang được đắm mình vào cảnh quê, được sống lại<br />
không khí của thôn quê hay cuộc sống lao động,<br />
chiến đấu của con người mới. Tiêu biểu là các bài:<br />
Trưa hè, Chiều xuân, Rằm tháng bảy, Qua đỉnh<br />
đèo Ngang, Mùa chiêm mới, Theo cánh chim<br />
câu…<br />
<br />
(Quán cũ trong sương - Hằng Phương)<br />
<br />
Trời trong biếc không qua mây gïợn trắng,<br />
<br />
Các nhà thơ nữ hầu như sử dụng các thể thơ quen<br />
thuộc như thơ năm chữ, bảy chữ, lục bát, thơ tám chữ.<br />
Sự tìm tòi, đổi mới trong thơ thể hiện ở việc gia tăng<br />
các khổ thơ, câu thơ hoặc thay đổi nhịp thơ, vần điệu,<br />
từ ngữ… Sự đổi mới ấy tuy không đặc biệt nhưng cho<br />
thấy ít nhiều nét sáng tạo, thấy được ý thức và nỗ lực<br />
kiếm tìm cách thức để làm mới thơ. Nhưng sự đổi<br />
mới đó vẫn không làm thay đổi lối thơ trong sáng,<br />
chân thành; giọng thơ uyển chuyển, êm đềm của các<br />
nhà thơ nữ.<br />
<br />
Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa.<br />
<br />
Và búp hoa nghểnh dậy đón hương trời,<br />
Cây tuôn bóng, lửng lơ, đò chẳng lướt!<br />
(Tơ lòng với đẹp - Thu Hồng)<br />
<br />
Bao thế sự xoá nhoà rêu phủ,<br />
Còn lại đây quán cũ vài gian,<br />
Trong sương lặng đứng mơ màng.<br />
<br />
Hoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắng,<br />
Lũ bướm vàng lơ đãng lướt bay qua.<br />
(Trưa hè)<br />
Được cách tân và sáng tạo, thể thơ tám chữ là phương<br />
tiện để các nhà thơ nữ biểu hiện tâm trạng, bộc lộ cái<br />
tôi. Thể thơ này có sự phóng túng trong câu chữ, nhịp<br />
điệu linh hoạt, có sức dung chứa cuộc sống, có khả<br />
năng giãi bày tiếng nói sâu kín trong tâm hồn con<br />
người, thích hợp với kiểu con người tự do, con người<br />
tâm linh, con người cá nhân thành thực với lòng mình<br />
và cuộc sống. Thể thơ này là cơ sở để các nhà thơ nữ<br />
thể hiện những quan niệm của cá nhân về tình yêu, về<br />
lẽ sống, về cái đẹp, về cuộc đời. Bên mồ Hàn Mặc Tử<br />
của Mai Đình; Tơ lòng với đẹp, Lịch của Thu Hồng;<br />
Khúc nhạc bên đường của Hằng Phương; Trưa hè,<br />
Chiều xuân, Rằm tháng bảy, Qua đỉnh đèo Ngang,<br />
Mùa chiêm mới, Theo cánh chim câu của Anh Thơ...<br />
là minh chứng cho những thành công ấy. Những bài<br />
thơ của các bà thể hiện tinh thần, khát vọng tự do<br />
mạnh mẽ nhất, là sản phẩm tinh thần của tầng lớp trí<br />
thức nói chung và các nhà Thơ mới nói riêng.<br />
<br />
Sáng tác của các nhà thơ nữ trong khuôn thơ<br />
tương đối ổn định: thơ thất ngôn, thơ tám chữ và<br />
vận dụng thể thơ lục bát và thơ ngũ ngôn một<br />
cách điêu luyện. Thơ tám chữ là thể thơ có nguồn<br />
gốc từ thể hát nói. Thể thơ này có sức dung chứa<br />
lớn, lời thơ, ý thơ gần với lời kể, giàu yếu tố tự sự,<br />
thi nhân tự do biểu hiện cảm xúc đối với làng quê.<br />
Cuộc sống thường nhật đi vào trong thơ các tác<br />
giả nữ một cách sinh động, cụ thể, neo giữ hồn<br />
người.<br />
Còn có gì hơn thầm lặng anh ơi...<br />
Dồn thương nhớ vào tận cùng cân não<br />
Để đêm nay xây đắp mộng luân hồi<br />
<br />
Thơ bảy chữ là thể thơ ra đời khá sớm trong lịch sử<br />
thơ ca của dân tộc. Thơ bảy chữ gồm tứ tuyệt (bốn<br />
câu bảy chữ), bát cú (tám câu bảy chữ). Gọi thơ bảy<br />
chữ (thất ngôn) vì đặc điểm chính của câu thơ là mỗi<br />
câu có bảy chữ. Bài thơ bảy chữ ngắn nhất cũng phải<br />
<br />
Anh hãy cùng em về căn nhà nhỏ<br />
(Bên mồ Hàn Mặc Tử - Mai Đình)<br />
Kìa trăng vỡ trong hồ khi nước động,<br />
105<br />
<br />
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112<br />
<br />
là bốn câu: thất ngôn tứ tuyệt (Mời trầu, Bánh trôi<br />
nước, Con ốc nhồi của Hồ Xuân Hương)..., thất ngôn<br />
bát cú Đường luật (Thăng Long thành hoài cổ, Qua<br />
đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan)...<br />
<br />
Nhìn liễu rơi vàng lá báo thu...<br />
(Chớp mắt)<br />
Thơ năm chữ là thể thơ liên quan đến việc thể<br />
hiện cảm xúc, nội dung giãi bày tâm trạng. Thơ<br />
năm chữ thường ngắt nhịp 2/3 tạo cho câu thơ<br />
chất luyến láy hoặc 3/2 tạo âm hưởng mênh mang,<br />
trầm lắng của nỗi nhớ mong. Vốn có nguồn gốc từ<br />
thơ ca dân gian, hát dặm Nghệ Tĩnh và loại thơ<br />
ngũ ngôn, đến các nhà Thơ mới, thơ năm chữ đã<br />
mở rộng hơn, tự do hơn cho tứ thơ để dễ dàng<br />
diễn tả tâm hồn, cảm xúc mới của thi nhân. Thể<br />
thơ năm chữ cũng được Anh Thơ sử dụng nhiều<br />
như các bài: Tiếng chim tu hú, Vá áo, Tết về…<br />
Với thể thơ này, Anh Thơ thường chia làm nhiều<br />
khổ và nối liền mạch thơ để diễn tả cảm xúc. Nhà<br />
thơ thường thiên về lối kể, tả, để diễn tả tình cảm<br />
yêu thương, trìu mến của mình.<br />
<br />
Thơ thất ngôn tứ tuyệt và thất ngôn bát cú Đường<br />
luật có yêu cầu về niêm luật chặt chẽ. Các nhà thơ<br />
nữ ít sử dụng lại thể thơ Đường luật. Họ chủ yếu<br />
sử dụng thơ bảy chữ theo kiểu cổ phong, do ảnh<br />
hưởng của xon-nê Pháp nên cấu tạo lại thành<br />
những khổ thơ có bốn câu. Nếu các thi gia xưa<br />
sáng tác thơ Đường đã dùng nhiều Hán tự, điển tích<br />
cho bài thơ hàm súc, chặt chẽ và có phần nặng nề<br />
thì thơ bảy chữ của các nhà thơ nữ gần gũi với cuộc<br />
sống. Các nhà thơ nữ làm thơ bảy chữ không hạn<br />
định số dòng, số câu, gởi gắm vào đó những tư<br />
tưởng mới mẻ, với những lời thơ trong sáng nên rất<br />
rõ ràng, khúc chiết. Vần, nhịp trong thơ vừa tiếp<br />
nối thơ truyền thống, vừa linh hoạt, phản ánh hơi<br />
thở của cuộc sống, diễn tả cảm xúc của thi nhân:<br />
<br />
Bỗng tiếng chim tu hú<br />
Đưa từ vườn vải xa<br />
<br />
Ngắt theo nhịp 2/2/3:<br />
Lại thoảng tình hương ở các bông<br />
<br />
Quả bắt đầu chín lự<br />
<br />
Bay ra lan đượm khắp không trung;<br />
<br />
Ngọt như nỗi nhớ nhà…<br />
<br />
Trong cơn ngây ngất say sưa ấy<br />
<br />
Tu hú ơi tu hú!<br />
<br />
Chợt động cành cây tiếng lá rung.<br />
<br />
Kêu hoài chi vườn xanh?<br />
Ta còn đi đi nữa<br />
<br />
(Tiếng đêm - Vân Đài)<br />
<br />
Như dòng sông trôi nhanh...<br />
<br />
Thể thơ thất ngôn được các nhà thơ nữ cách tân, phá<br />
vỡ niêm luật, khổ thơ, vần điệu tạo nên thể thơ bảy<br />
chữ. Đây chính “là sự hoà giải tỉnh táo của ý thức thể<br />
loại” (Lê Duy Anh, Lê Quang Vinh, 2006, tr. 36). Chính<br />
vì thế, thể thơ này trở nên phổ biến rộng rãi, câu thơ<br />
tự do hơn: Ai cấm người thơ yêu quá độ?/ Ai ghì gió<br />
lốc giữa không gian?/ Và ai đặt chữ tình dang dở/<br />
Mà để so le nghĩa thiếp chàng? (Căm giận - Mai<br />
Đình).<br />
<br />
(Tiếng chim tu hú)<br />
Đóng góp không nhỏ cho sự nghiệp thơ ca của<br />
Anh Thơ phải kể đến việc vận dụng thể thơ một<br />
cách linh hoạt vào sáng tác của bà. Anh Thơ sử<br />
dụng nhiều thể thơ: thể thơ bốn chữ, năm chữ, bảy<br />
chữ, tám chữ; thể thơ tự do, thể thơ lục bát... Ở<br />
bất cứ thể thơ nào, Anh Thơ cũng đạt được thành<br />
tựu đáng kể.<br />
<br />
Thể thơ bảy chữ chiếm một số lượng không nhỏ trong<br />
sáng tác của Anh Thơ. Với thể thơ này, Anh Thơ đã<br />
có sự cách tân qua kết cấu, ngắt nhịp, hiệp vần linh<br />
hoạt. Sự điêu luyện đó không chỉ diễn tả cảnh vật<br />
phong phú, đa dạng mà còn thể hiện tình cảm, tâm<br />
trạng của tác giả. Có thể kể đến các bài thơ: Chớp<br />
mắt, Chiếc cáng thơ, Xuân quê, Nắng…<br />
<br />
Có thể nói, thể thơ truyền thống là thể thơ được các<br />
tác giả nữ sử dụng nhiều hơn cả. Đó là âm vang quen<br />
thuộc của thi tứ phương Đông trong dòng chảy mới<br />
mẻ của thơ ca nữ giai đoạn này. Loại hình câu thơ của<br />
các nhà thơ nữ sử dụng phong phú đa dạng tùy từng<br />
thể loại thơ và cảm xúc thơ. Câu thơ vừa mang tính<br />
truyền thống bởi tính chất đều đặn của nhịp điệu thơ,<br />
vừa mang tính hiện đại ở cấu trúc, ý nghĩa và cảm xúc<br />
thơ.<br />
<br />
Có những ngày buồn chả ước mơ<br />
Bỏ ăn, quên ngủ, biếng làm thơ.<br />
<br />
Thanh âm thơ ca truyền thống phương Đông vẫn âm<br />
vang trong thơ nữ. “Chưa bao giờ như bây giờ họ<br />
<br />
Cứ ngồi ngơ ngẩn bên song cửa<br />
<br />
106<br />
<br />
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112<br />
<br />
cảm thấy tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ<br />
xưa chỉ biến thiên chứ không sao tiêu diệt” (Hoài<br />
Thanh, Hoài Chân, 2000, tr. 119). Thơ của các nhà<br />
thơ nữ giai đoạn này vẫn dạt dào dòng chảy<br />
Đường thi. Đó không phải là ngẫu nhiên ở một<br />
tâm hồn luôn luôn chìm trong thâm trầm suy nghĩ<br />
của cuộc trở về với hồn thơ phương Đông. Những<br />
thể Đường thi vừa giản dị, giàu nhạc điệu, gợi<br />
cảm mà các nhà thơ nữ ưa chuộng tồn tại vững<br />
chãi và phát triển trong giai đoạn chuyển mình<br />
của thơ ca dân tộc.<br />
<br />
Cách phản ứng trước thời cuộc và nhân tình thế<br />
thái khiến ta thêm gần gũi bà. Bà bước ra khỏi<br />
chốn gia môn để tham gia các công việc xã hội,<br />
văn hoá, là một nữ sĩ tiên phong; một người phụ<br />
nữ trang nghiêm, chung thủy và thanh cao, xứng<br />
đáng với tinh thần quốc gia dân tộc. “Tài đức và<br />
thi ca của bà là những cánh hoa thơm ngát, những<br />
tia sáng tươi màu trong rừng văn học nước nhà”<br />
(Phạm Xuân Độ, 1959, tr. 65).<br />
Ngôn ngữ chính là chất liệu của thi ca, một hệ<br />
thống từ ngữ có một thế giới tinh thần riêng của<br />
nó. Đặc biệt là động từ “giãi bày”, “tiễn biệt”,<br />
“gửi”, “quên”, tính từ “băn khoăn”, “tươi tỉnh”…<br />
Hệ thống sử dụng các động từ, tính từ cảm xúc<br />
trong thơ Hằng Phương đa dạng và phong phú<br />
biểu hiện các cung bậc của cảm xúc lòng người.<br />
<br />
2.2 Ngôn ngữ thơ giàu cảm xúc<br />
Ngôn ngữ thơ là cội nguồn chất liệu của thơ ca<br />
qua việc dùng từ, đặt câu, xây dựng hình ảnh…<br />
“Ngôn ngữ là một hình thức cội rễ nhất, là cội<br />
nguồn vật liệu thứ nhất của thơ ca” (Vũ Văn Sỹ,<br />
2005, tr. 44). Ngôn ngữ ảnh hưởng không nhỏ<br />
trong việc thể hiện ý thức nữ quyền của nhà thơ<br />
nữ trong văn học đầu thế kỷ XX.<br />
<br />
Lòng luống băn khoăn khó giãi bày<br />
Khi nhìn rặng núi khuất ngàn cây<br />
Và khi tiễn biệt trên đường thẳm<br />
<br />
Đến với thơ Cao Ngọc Anh, người đọc hình dung<br />
được trọn vẹn tác giả - một người con gái khuê<br />
các, đoan trang và giàu trí tuệ. Với bà, giao lưu<br />
với bạn bè, du ngoạn đây đó là để bồi dưỡng cho<br />
cái tâm và cái trí của mình. Tâm hồn bà như cánh<br />
bướm dập dờn trên mọi miền cỏ hoa sông núi:<br />
Ngoài giậu, sương gieo chồi cúc đượm/ Trên hồ,<br />
sen nở tiếng chim kêu (Vịnh cảnh chùa Dược Sư).<br />
Hay: Âm thầm nhạn liệng năm canh vắng/ Khắc<br />
khoải quyên sầu mấy dặm khơi (Thu cảm). Những<br />
vần thơ lấp lánh trong veo nỗi buồn, người đọc<br />
nhìn thấy được tận cùng cái cốt lõi nhân bản của<br />
người phụ nữ Việt Nam.<br />
<br />
Muốn gửi hồn theo cánh nhạn bay.<br />
(Tiễn biệt - Hằng Phương)<br />
Nếu giọng điệu tạo cho người đọc nhiều rung cảm<br />
thì ngôn ngữ sẽ giúp ta có được thế giới hình ảnh.<br />
Chính thế giới hình ảnh ấy của ngôn ngữ sẽ tạo<br />
cho người đọc nhiều cái nhìn khác nhau về một<br />
vấn đề và trong thơ Hằng Phương, nhờ những hình<br />
ảnh ấy mà thơ của bà đã đi vào lòng người đọc.<br />
Với hình ảnh của những rặng núi, cánh nhạn chiều<br />
tà, người đọc bắt gặp người phụ nữ đang khát khao<br />
có một tình yêu như thế nào và trong ngay chính<br />
bản thân của bà luôn tiềm ẩn một sức sống một<br />
tình yêu không bao giờ cạn.<br />
<br />
Thơ của Sương Nguyệt Anh phần lớn là tiếng thơ<br />
của khí tiết. Mỗi câu thơ là lời ký thác những tâm<br />
sự nữ nhi giữa thời truân chuyên và loạn lạc. Điều<br />
khiến cho thơ bà trở nên sâu lắng và có sức gợi<br />
qua thời gian chính là tấm lòng chân thành trước<br />
cuộc đời. Câu thơ chứa đựng nỗi ngậm ngùi, kín<br />
đáo và cảm động:<br />
<br />
Trong đời sống văn học, ngôn ngữ là công cụ, là chất<br />
liệu cơ bản đồng thời là thành tố văn hoá có vị trí<br />
quan trọng trong đời sống xã hội. Ngôn ngữ Việt thể<br />
hiện rõ nét tính cách con người Việt. Các nhà thơ nữ<br />
sử dụng ngôn ngữ bình dị, kết hợp cách nói dân gian<br />
và hiện đại. Song, với sự thay đổi của hiện thực đời<br />
sống và hiện thực tâm trạng, những chi tiết bộn bề<br />
của cuộc sống ngày càng thâm nhập vào thơ, những<br />
từ ngữ được dùng để diễn tả trạng thái tâm hồn được<br />
các nhà thơ đẩy đến tận cùng độ căng của cảm xúc.<br />
Vẻ đẹp của thơ Mộng Tuyết, không phải là vẻ đẹp<br />
của cấu tứ và kỹ thuật, mà nó có sức lay động ở sự<br />
trong trẻo trong cảm xúc và những hình ảnh có sức<br />
gợi:<br />
<br />
Ngọc ánh chi nài son phấn đượm<br />
Vàng ròng há sợ mất màu phai<br />
(Cây mai - Sương Nguyệt Anh)<br />
So với Hồ Xuân<br />
Quan, Đoàn Thị<br />
Nguyệt Anh kém<br />
không thiếu phần<br />
<br />
Hương hay Bà Huyện Thanh<br />
Điểm, ngọn bút của Sương<br />
linh động, tài tình nhưng nó<br />
rắn rỏi, tự nhiên, chân thành.<br />
107<br />
<br />