intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thơ nữ những năm đầu thế kỷ XX nhìn từ phương diện nghệ thuật

Chia sẻ: Danh Nguyen Tuong Vi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

68
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thơ nữ là một bộ phận không thể thiếu trong nền thơ ca dân tộc. Sự ra đời của đội ngũ đông đảo các nhà thơ nữ những năm đầu thế kỷ XX khẳng định đóng góp của họ về những đổi mới trên phương diện nghệ thuật: thể thơ, ngôn ngữ, giọng điệu. Nghiên cứu thơ của các nhà thơ nữ giai đoạn này để thấy được tâm hồn Việt đã gắn kết, khơi nguồn từ cuộc sống và mang hơi thở thời đại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thơ nữ những năm đầu thế kỷ XX nhìn từ phương diện nghệ thuật

An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112<br /> <br /> THƠ NỮ NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX NHÌN TỪ<br /> PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT<br /> Đặng Thị Ngọc Phượng1<br /> 1<br /> Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế<br /> Thông tin chung:<br /> Ngày nhận bài: 10/07/2016<br /> Ngày nhận kết quả bình duyệt:<br /> 28/08/2016<br /> Ngày chấp nhận đăng: 04/2017<br /> Title:<br /> Feminist poems in the early 20th<br /> century through artistic<br /> perspectives<br /> Keywords:<br /> Feminist poems, poetic genres,<br /> lyrics, rhythms<br /> Từ khóa:<br /> Thơ nữ, thể thơ, ngôn ngữ,<br /> giọng điệu<br /> <br /> ABSTRACT<br /> Feminist poems is an indispensable part among the Vietnamese poems. It is<br /> clearly seen that the appearance of numerous female poets in the early 20th<br /> century confirmed their contribution to the innovation of poem arts, including<br /> poetic genres, lyrics, and rhythms. It is needed to do research on the works of<br /> the female poets during the periods to reveal how Vietnamese spirits were<br /> connected the society and could also start a new phase of life.<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Thơ nữ là một bộ phận không thể thiếu trong nền thơ ca dân tộc. Sự ra đời của<br /> đội ngũ đông đảo các nhà thơ nữ những năm đầu thế kỷ XX khẳng định đóng<br /> góp của họ về những đổi mới trên phương diện nghệ thuật: thể thơ, ngôn ngữ,<br /> giọng điệu. Nghiên cứu thơ của các nhà thơ nữ giai đoạn này để thấy được tâm<br /> hồn Việt đã gắn kết, khơi nguồn từ cuộc sống và mang hơi thở thời đại.<br /> <br /> nhất, nhân vật chính của văn học. Nhà nghiên cứu<br /> Mã Giang Lân lại cho rằng: “Mỗi thời đại, mỗi<br /> giai đoạn lịch sử thường sử dụng những thể loại<br /> thích hợp mà ở đấy chúng ta có thể thấy được sự<br /> vận động trong tư duy sáng tạo của nhà thơ” (Mã<br /> Giang Lân, 2005, tr. 19). Nhìn lại lịch sử thơ ca,<br /> các thể thơ truyền thống của dân tộc ta là những<br /> thể thơ được sử dụng phổ biến và làm cơ sở cho<br /> sự ra đời của những thể Thơ mới sau này (từ năm<br /> 1932 trở đi).<br /> <br /> 1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Thành quả của thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay<br /> không thể không nhắc đến sự góp mặt của các cây<br /> bút nữ qua từng thời kỳ. Tuy chưa có sự đông đảo<br /> về lực lượng sáng tác nhưng thành tựu của các nhà<br /> thơ nữ trong những năm đầu thế kỷ XX là không<br /> thể phủ nhận. Nghiên cứu thơ nữ giai đoạn này để<br /> thấy được những đóng góp của họ về phương diện<br /> nghệ thuật: thể thơ, ngôn ngữ, giọng điệu. Đây là<br /> một trong những cách tiếp cận văn học, có khả năng<br /> tái hiện đúng và đa dạng diện mạo thơ nữ Việt Nam<br /> giai đoạn đầu thế kỷ XX.<br /> <br /> Sang thế kỉ XX, quá trình hiện đại hoá văn học đã<br /> làm cho văn học Việt Nam thay đổi một cách cơ<br /> bản. Thể loại thơ ca luôn có những yếu tố vận động,<br /> biến đổi. Do đó, nó vừa có tính truyền thống, vừa<br /> mang tính cách tân hiện đại. Thơ nữ cũng không<br /> nằm ngoài những quy luật ấy.<br /> <br /> 2. NỘI DUNG<br /> 2.1 Thể thơ đa dạng<br /> Mỗi thời kỳ văn học, thể loại có những phân định<br /> và đặc trưng khác nhau; thể hiện thái độ, cách<br /> nhìn nhận, cảm thụ về thế giới và con người. Đây<br /> là nơi tích luỹ và đúc kết những giá trị nhận thức<br /> thẩm mỹ về thế giới sáng tác của nhà thơ, nhà<br /> văn. Theo Bakhtin, thể loại chính là nhân vật thứ<br /> <br /> Thơ Đường luật vốn là thể thơ được sử dụng nhiều<br /> nhất trong thơ trung đại, thể loại thơ đã sản sinh ra<br /> nhiều thi tài ở Trung Quốc, Việt Nam... Đó cũng là<br /> nền thơ có thi pháp riêng được quy định bởi thế giới<br /> quan, nhân sinh quan và thẩm mỹ quan của thời đại<br /> 103<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112<br /> <br /> phong kiến Á Đông. Thi pháp đó có nhiều đặc điểm<br /> như sự tôn sùng thiên nhiên, tính quy phạm, tính ước<br /> lệ, tính phi ngã. Những nữ sĩ đứng ở giai đoạn giao<br /> thời như: Đạm Phương, Sương Nguyệt Anh sử<br /> dụng hầu hết các thể thơ truyền thống như: tứ<br /> tuyệt, thất ngôn bát cú Đường luật, ngũ ngôn,<br /> song thất lục bát, lục bát và từ khúc.<br /> <br /> Ngoài thơ thất ngôn tứ tuyệt, thơ thất ngôn bát cú<br /> của bà có phần đặc sắc, gợi tả tâm trạng của nhà<br /> thơ trước cuộc đời. Các bài thơ Hoàng hôn, Vịnh<br /> đêm thu, Vịnh cảnh Ngũ Hành sơn tiêu biểu cho<br /> lối thơ truyền thống, giàu chiêm nghiệm.<br /> Trong khi nhiều nhà thơ lãng mạn cùng thời chịu ảnh<br /> hưởng của văn chương phương Tây thì Ngân Giang<br /> vẫn gắn bó với thơ Đường luật và các thể thơ dân tộc.<br /> Thơ của Ngân Giang gồm các thể: tứ tuyệt, lục bát,<br /> Đường thi thất ngôn bát cú... Bài Xuân mong đợi,<br /> Mười bài tâm sự... được dùng để ký thác niềm riêng<br /> của tác giả. Thơ Đường luật thất ngôn bát cú là thể thơ<br /> khó làm nhất nhưng với Ngân Giang bỗng trở nên “dễ<br /> dàng” như bất cứ thể thơ nào khác. Người đọc bắt gặp<br /> trong Xuân chiến địa:<br /> <br /> Đạm Phương là người góp phần duy trì một<br /> hướng sáng tác thơ Đường luật bằng chữ Quốc<br /> ngữ, mở đầu cho một hướng đi mới của nhiều nhà<br /> thơ về sau. Bài thơ Nhớ bạn, Nhớ cảnh núi… của<br /> Đạm Phương; Đáp Hồ Bá Xuyên, Tỏ chí, Tự thán<br /> của Sương Nguyệt Anh cho thấy sự tài hoa và tố<br /> chất nghệ sĩ của họ. Thể từ gần như ít xuất hiện<br /> trên văn đàn nhưng những bài thơ của Đạm<br /> Phương và Sương Nguyệt Anh là những bài đầu<br /> tiên viết bằng chữ Quốc ngữ theo đúng điệu:<br /> <br /> Lành lạnh bên sông một quán nghèo<br /> Đèn lay dáng trúc gió hiu hiu<br /> <br /> Mảnh trăng đêm dọi bóng quanh thềm<br /> Bóng dọi quanh thềm giấc khó êm.<br /> Giấc khó êm vì thương nhớ bạn<br /> Vì thương nhớ bạn, mảnh trăng đêm.<br /> <br /> Hướng dương trà vẫn thơm như cũ<br /> Khói toả tương tư đượm ít nhiều?<br /> Đường luật thất ngôn bát cú là thể thơ thích hợp<br /> với nữ sĩ. Đọc thơ bà khiến ta thấy nhẹ nhàng,<br /> được sống thoải mái trong không gian cổ kính đầy<br /> yêu thương… Bài thơ Trưng Nữ Vương là một ví<br /> dụ tiêu biểu. Bài thơ hoàn thành vào năm 1939,<br /> thoạt nhìn hình thức vẫn là thể thức của Thơ mới,<br /> gồm có năm đoạn, mỗi đoạn bốn câu, mỗi câu bảy<br /> chữ. Hình thức mới nhưng vẫn còn mang nặng sắc<br /> thái khí vị của thơ Đường, đầy nhạc điệu: Lạc<br /> tướng quên đâu lời tuyết hận/ Non hồng quét sạch<br /> bụi trần ai/ Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận/<br /> Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời…<br /> <br /> (Nhớ bạn - Đạm Phương)<br /> Năm canh thức nhắp, năm canh những,<br /> Nửa gối so le, nửa gối chờ.<br /> Vườn én rủ ren trên lối cũ,<br /> Canh gà xao xác giục tình xưa.<br /> (Tự thán - Sương Nguyệt Anh)<br /> Thơ của Cao Ngọc Anh gồm thơ viết bằng<br /> chữ Hán và thơ viết bằng chữ Quốc ngữ. Những<br /> bài thơ tứ tuyệt cho thấy tài thơ chữ Hán của bà<br /> Cao Ngọc Anh quả không tầm thường, bài thơ<br /> Đào hoa khẩu chiếm là một bài thơ tiêu biểu:<br /> <br /> Về mặt thể loại, các nhà thơ nữ đã vận dụng thành công<br /> các thể thơ dân tộc nhưng không gò bó trong khuôn khổ<br /> những quy phạm chặt chẽ của thể loại mà luôn có<br /> những phá cách và thể nghiệm mới. Với thể thơ lục bát,<br /> thơ nữ đã thể hiện sự linh hoạt, sáng tạo của mình.<br /> Không mô phỏng hoàn toàn ca dao và lục bát dân tộc,<br /> các bà lựa chọn những đặc điểm, yếu tố thích hợp của<br /> lục bát, ca dao để sáng tác cho phù hợp với tâm hồn<br /> của con người thời đại. Các bà biết phát huy giá trị tích<br /> cực của thơ ca dân tộc để đem đến cho thơ ca những giá<br /> trị phù hợp với thực tế đời sống và thế giới nội tâm của<br /> nhà thơ. Cấu trúc câu thơ được sắp xếp theo quy luật<br /> của cảm xúc và dòng chảy của tâm thức. Lục bát, song<br /> thất lục bát cũng là thể thơ quen thuộc được các nhà thơ<br /> nữ sử dụng với tỷ lệ cao. Những bài thơ lục bát, song<br /> <br /> Tích niên lang tháp song đào thụ<br /> Kim kiến đào hoa bất kiến lang<br /> Giả sử hoa thần như hữu thức<br /> Vị lang tiều tuỵ giảm dung quang.<br /> Tác giả đã tự dịch ra tiếng Việt như sau:<br /> Bói hoa đào<br /> Song đào chàng mới trồng năm trước<br /> Nay thấy đào hoa chẳng thấy chàng<br /> Ví khiến thần hoa như có biết,<br /> Vì chàng nhan sắc giảm phần chăng?<br /> <br /> 104<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112<br /> <br /> thất lục bát nhẹ nhàng, giàu cảm xúc: Sóng thơ của Thu<br /> Hồng; Âm thầm, Tơ sầu của Mai Đình; Lòng quê,<br /> Quán cũ trong sương của Hằng Phương; Thuyền đi của<br /> Vân Đài; Vườn trưa, Bóng ai của Cẩm Lai; Ru con,<br /> Ngõ chơ Khâm Thiên của Anh Thơ…<br /> <br /> Sóng lao xao lấp loáng, ánh xa ngời.<br /> <br /> Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, thể thơ song thất<br /> lục bát tạo nên những dòng cảm xúc riêng biệt, không<br /> hoà lẫn. Để khai thác trọn vẹn hơn những khát khao<br /> thầm kín trong hành trình đi tìm hạnh phúc, các nhà<br /> thơ nữ đã khai thác và khám phá một cách toàn vẹn<br /> nhất trái tim của những người phụ nữ yêu thương và<br /> khát khao được sẻ chia, bày tỏ trong thể thơ song thất<br /> lục bát.<br /> <br /> Gợi lòng cho khách qua đàng nhớ nhung…<br /> <br /> Anh Thơ sáng tác ở nhiều thể thơ và hầu như thể<br /> loại nào cũng thể hiện sự thành công của tác giả.<br /> Thể thơ tám chữ là thể thơ được Anh Thơ sử dụng<br /> tương đối nhiều, qua thể thơ này, Anh Thơ đã<br /> giúp cho chúng ta có thêm những hiểu biết, những<br /> cảm nhận về bức tranh phong cảnh, bức tranh<br /> cuộc sống của con người; giúp người đọc như<br /> đang được đắm mình vào cảnh quê, được sống lại<br /> không khí của thôn quê hay cuộc sống lao động,<br /> chiến đấu của con người mới. Tiêu biểu là các bài:<br /> Trưa hè, Chiều xuân, Rằm tháng bảy, Qua đỉnh<br /> đèo Ngang, Mùa chiêm mới, Theo cánh chim<br /> câu…<br /> <br /> (Quán cũ trong sương - Hằng Phương)<br /> <br /> Trời trong biếc không qua mây gïợn trắng,<br /> <br /> Các nhà thơ nữ hầu như sử dụng các thể thơ quen<br /> thuộc như thơ năm chữ, bảy chữ, lục bát, thơ tám chữ.<br /> Sự tìm tòi, đổi mới trong thơ thể hiện ở việc gia tăng<br /> các khổ thơ, câu thơ hoặc thay đổi nhịp thơ, vần điệu,<br /> từ ngữ… Sự đổi mới ấy tuy không đặc biệt nhưng cho<br /> thấy ít nhiều nét sáng tạo, thấy được ý thức và nỗ lực<br /> kiếm tìm cách thức để làm mới thơ. Nhưng sự đổi<br /> mới đó vẫn không làm thay đổi lối thơ trong sáng,<br /> chân thành; giọng thơ uyển chuyển, êm đềm của các<br /> nhà thơ nữ.<br /> <br /> Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa.<br /> <br /> Và búp hoa nghểnh dậy đón hương trời,<br /> Cây tuôn bóng, lửng lơ, đò chẳng lướt!<br /> (Tơ lòng với đẹp - Thu Hồng)<br /> <br /> Bao thế sự xoá nhoà rêu phủ,<br /> Còn lại đây quán cũ vài gian,<br /> Trong sương lặng đứng mơ màng.<br /> <br /> Hoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắng,<br /> Lũ bướm vàng lơ đãng lướt bay qua.<br /> (Trưa hè)<br /> Được cách tân và sáng tạo, thể thơ tám chữ là phương<br /> tiện để các nhà thơ nữ biểu hiện tâm trạng, bộc lộ cái<br /> tôi. Thể thơ này có sự phóng túng trong câu chữ, nhịp<br /> điệu linh hoạt, có sức dung chứa cuộc sống, có khả<br /> năng giãi bày tiếng nói sâu kín trong tâm hồn con<br /> người, thích hợp với kiểu con người tự do, con người<br /> tâm linh, con người cá nhân thành thực với lòng mình<br /> và cuộc sống. Thể thơ này là cơ sở để các nhà thơ nữ<br /> thể hiện những quan niệm của cá nhân về tình yêu, về<br /> lẽ sống, về cái đẹp, về cuộc đời. Bên mồ Hàn Mặc Tử<br /> của Mai Đình; Tơ lòng với đẹp, Lịch của Thu Hồng;<br /> Khúc nhạc bên đường của Hằng Phương; Trưa hè,<br /> Chiều xuân, Rằm tháng bảy, Qua đỉnh đèo Ngang,<br /> Mùa chiêm mới, Theo cánh chim câu của Anh Thơ...<br /> là minh chứng cho những thành công ấy. Những bài<br /> thơ của các bà thể hiện tinh thần, khát vọng tự do<br /> mạnh mẽ nhất, là sản phẩm tinh thần của tầng lớp trí<br /> thức nói chung và các nhà Thơ mới nói riêng.<br /> <br /> Sáng tác của các nhà thơ nữ trong khuôn thơ<br /> tương đối ổn định: thơ thất ngôn, thơ tám chữ và<br /> vận dụng thể thơ lục bát và thơ ngũ ngôn một<br /> cách điêu luyện. Thơ tám chữ là thể thơ có nguồn<br /> gốc từ thể hát nói. Thể thơ này có sức dung chứa<br /> lớn, lời thơ, ý thơ gần với lời kể, giàu yếu tố tự sự,<br /> thi nhân tự do biểu hiện cảm xúc đối với làng quê.<br /> Cuộc sống thường nhật đi vào trong thơ các tác<br /> giả nữ một cách sinh động, cụ thể, neo giữ hồn<br /> người.<br /> Còn có gì hơn thầm lặng anh ơi...<br /> Dồn thương nhớ vào tận cùng cân não<br /> Để đêm nay xây đắp mộng luân hồi<br /> <br /> Thơ bảy chữ là thể thơ ra đời khá sớm trong lịch sử<br /> thơ ca của dân tộc. Thơ bảy chữ gồm tứ tuyệt (bốn<br /> câu bảy chữ), bát cú (tám câu bảy chữ). Gọi thơ bảy<br /> chữ (thất ngôn) vì đặc điểm chính của câu thơ là mỗi<br /> câu có bảy chữ. Bài thơ bảy chữ ngắn nhất cũng phải<br /> <br /> Anh hãy cùng em về căn nhà nhỏ<br /> (Bên mồ Hàn Mặc Tử - Mai Đình)<br /> Kìa trăng vỡ trong hồ khi nước động,<br /> 105<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112<br /> <br /> là bốn câu: thất ngôn tứ tuyệt (Mời trầu, Bánh trôi<br /> nước, Con ốc nhồi của Hồ Xuân Hương)..., thất ngôn<br /> bát cú Đường luật (Thăng Long thành hoài cổ, Qua<br /> đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan)...<br /> <br /> Nhìn liễu rơi vàng lá báo thu...<br /> (Chớp mắt)<br /> Thơ năm chữ là thể thơ liên quan đến việc thể<br /> hiện cảm xúc, nội dung giãi bày tâm trạng. Thơ<br /> năm chữ thường ngắt nhịp 2/3 tạo cho câu thơ<br /> chất luyến láy hoặc 3/2 tạo âm hưởng mênh mang,<br /> trầm lắng của nỗi nhớ mong. Vốn có nguồn gốc từ<br /> thơ ca dân gian, hát dặm Nghệ Tĩnh và loại thơ<br /> ngũ ngôn, đến các nhà Thơ mới, thơ năm chữ đã<br /> mở rộng hơn, tự do hơn cho tứ thơ để dễ dàng<br /> diễn tả tâm hồn, cảm xúc mới của thi nhân. Thể<br /> thơ năm chữ cũng được Anh Thơ sử dụng nhiều<br /> như các bài: Tiếng chim tu hú, Vá áo, Tết về…<br /> Với thể thơ này, Anh Thơ thường chia làm nhiều<br /> khổ và nối liền mạch thơ để diễn tả cảm xúc. Nhà<br /> thơ thường thiên về lối kể, tả, để diễn tả tình cảm<br /> yêu thương, trìu mến của mình.<br /> <br /> Thơ thất ngôn tứ tuyệt và thất ngôn bát cú Đường<br /> luật có yêu cầu về niêm luật chặt chẽ. Các nhà thơ<br /> nữ ít sử dụng lại thể thơ Đường luật. Họ chủ yếu<br /> sử dụng thơ bảy chữ theo kiểu cổ phong, do ảnh<br /> hưởng của xon-nê Pháp nên cấu tạo lại thành<br /> những khổ thơ có bốn câu. Nếu các thi gia xưa<br /> sáng tác thơ Đường đã dùng nhiều Hán tự, điển tích<br /> cho bài thơ hàm súc, chặt chẽ và có phần nặng nề<br /> thì thơ bảy chữ của các nhà thơ nữ gần gũi với cuộc<br /> sống. Các nhà thơ nữ làm thơ bảy chữ không hạn<br /> định số dòng, số câu, gởi gắm vào đó những tư<br /> tưởng mới mẻ, với những lời thơ trong sáng nên rất<br /> rõ ràng, khúc chiết. Vần, nhịp trong thơ vừa tiếp<br /> nối thơ truyền thống, vừa linh hoạt, phản ánh hơi<br /> thở của cuộc sống, diễn tả cảm xúc của thi nhân:<br /> <br /> Bỗng tiếng chim tu hú<br /> Đưa từ vườn vải xa<br /> <br /> Ngắt theo nhịp 2/2/3:<br /> Lại thoảng tình hương ở các bông<br /> <br /> Quả bắt đầu chín lự<br /> <br /> Bay ra lan đượm khắp không trung;<br /> <br /> Ngọt như nỗi nhớ nhà…<br /> <br /> Trong cơn ngây ngất say sưa ấy<br /> <br /> Tu hú ơi tu hú!<br /> <br /> Chợt động cành cây tiếng lá rung.<br /> <br /> Kêu hoài chi vườn xanh?<br /> Ta còn đi đi nữa<br /> <br /> (Tiếng đêm - Vân Đài)<br /> <br /> Như dòng sông trôi nhanh...<br /> <br /> Thể thơ thất ngôn được các nhà thơ nữ cách tân, phá<br /> vỡ niêm luật, khổ thơ, vần điệu tạo nên thể thơ bảy<br /> chữ. Đây chính “là sự hoà giải tỉnh táo của ý thức thể<br /> loại” (Lê Duy Anh, Lê Quang Vinh, 2006, tr. 36). Chính<br /> vì thế, thể thơ này trở nên phổ biến rộng rãi, câu thơ<br /> tự do hơn: Ai cấm người thơ yêu quá độ?/ Ai ghì gió<br /> lốc giữa không gian?/ Và ai đặt chữ tình dang dở/<br /> Mà để so le nghĩa thiếp chàng? (Căm giận - Mai<br /> Đình).<br /> <br /> (Tiếng chim tu hú)<br /> Đóng góp không nhỏ cho sự nghiệp thơ ca của<br /> Anh Thơ phải kể đến việc vận dụng thể thơ một<br /> cách linh hoạt vào sáng tác của bà. Anh Thơ sử<br /> dụng nhiều thể thơ: thể thơ bốn chữ, năm chữ, bảy<br /> chữ, tám chữ; thể thơ tự do, thể thơ lục bát... Ở<br /> bất cứ thể thơ nào, Anh Thơ cũng đạt được thành<br /> tựu đáng kể.<br /> <br /> Thể thơ bảy chữ chiếm một số lượng không nhỏ trong<br /> sáng tác của Anh Thơ. Với thể thơ này, Anh Thơ đã<br /> có sự cách tân qua kết cấu, ngắt nhịp, hiệp vần linh<br /> hoạt. Sự điêu luyện đó không chỉ diễn tả cảnh vật<br /> phong phú, đa dạng mà còn thể hiện tình cảm, tâm<br /> trạng của tác giả. Có thể kể đến các bài thơ: Chớp<br /> mắt, Chiếc cáng thơ, Xuân quê, Nắng…<br /> <br /> Có thể nói, thể thơ truyền thống là thể thơ được các<br /> tác giả nữ sử dụng nhiều hơn cả. Đó là âm vang quen<br /> thuộc của thi tứ phương Đông trong dòng chảy mới<br /> mẻ của thơ ca nữ giai đoạn này. Loại hình câu thơ của<br /> các nhà thơ nữ sử dụng phong phú đa dạng tùy từng<br /> thể loại thơ và cảm xúc thơ. Câu thơ vừa mang tính<br /> truyền thống bởi tính chất đều đặn của nhịp điệu thơ,<br /> vừa mang tính hiện đại ở cấu trúc, ý nghĩa và cảm xúc<br /> thơ.<br /> <br /> Có những ngày buồn chả ước mơ<br /> Bỏ ăn, quên ngủ, biếng làm thơ.<br /> <br /> Thanh âm thơ ca truyền thống phương Đông vẫn âm<br /> vang trong thơ nữ. “Chưa bao giờ như bây giờ họ<br /> <br /> Cứ ngồi ngơ ngẩn bên song cửa<br /> <br /> 106<br /> <br /> An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112<br /> <br /> cảm thấy tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ<br /> xưa chỉ biến thiên chứ không sao tiêu diệt” (Hoài<br /> Thanh, Hoài Chân, 2000, tr. 119). Thơ của các nhà<br /> thơ nữ giai đoạn này vẫn dạt dào dòng chảy<br /> Đường thi. Đó không phải là ngẫu nhiên ở một<br /> tâm hồn luôn luôn chìm trong thâm trầm suy nghĩ<br /> của cuộc trở về với hồn thơ phương Đông. Những<br /> thể Đường thi vừa giản dị, giàu nhạc điệu, gợi<br /> cảm mà các nhà thơ nữ ưa chuộng tồn tại vững<br /> chãi và phát triển trong giai đoạn chuyển mình<br /> của thơ ca dân tộc.<br /> <br /> Cách phản ứng trước thời cuộc và nhân tình thế<br /> thái khiến ta thêm gần gũi bà. Bà bước ra khỏi<br /> chốn gia môn để tham gia các công việc xã hội,<br /> văn hoá, là một nữ sĩ tiên phong; một người phụ<br /> nữ trang nghiêm, chung thủy và thanh cao, xứng<br /> đáng với tinh thần quốc gia dân tộc. “Tài đức và<br /> thi ca của bà là những cánh hoa thơm ngát, những<br /> tia sáng tươi màu trong rừng văn học nước nhà”<br /> (Phạm Xuân Độ, 1959, tr. 65).<br /> Ngôn ngữ chính là chất liệu của thi ca, một hệ<br /> thống từ ngữ có một thế giới tinh thần riêng của<br /> nó. Đặc biệt là động từ “giãi bày”, “tiễn biệt”,<br /> “gửi”, “quên”, tính từ “băn khoăn”, “tươi tỉnh”…<br /> Hệ thống sử dụng các động từ, tính từ cảm xúc<br /> trong thơ Hằng Phương đa dạng và phong phú<br /> biểu hiện các cung bậc của cảm xúc lòng người.<br /> <br /> 2.2 Ngôn ngữ thơ giàu cảm xúc<br /> Ngôn ngữ thơ là cội nguồn chất liệu của thơ ca<br /> qua việc dùng từ, đặt câu, xây dựng hình ảnh…<br /> “Ngôn ngữ là một hình thức cội rễ nhất, là cội<br /> nguồn vật liệu thứ nhất của thơ ca” (Vũ Văn Sỹ,<br /> 2005, tr. 44). Ngôn ngữ ảnh hưởng không nhỏ<br /> trong việc thể hiện ý thức nữ quyền của nhà thơ<br /> nữ trong văn học đầu thế kỷ XX.<br /> <br /> Lòng luống băn khoăn khó giãi bày<br /> Khi nhìn rặng núi khuất ngàn cây<br /> Và khi tiễn biệt trên đường thẳm<br /> <br /> Đến với thơ Cao Ngọc Anh, người đọc hình dung<br /> được trọn vẹn tác giả - một người con gái khuê<br /> các, đoan trang và giàu trí tuệ. Với bà, giao lưu<br /> với bạn bè, du ngoạn đây đó là để bồi dưỡng cho<br /> cái tâm và cái trí của mình. Tâm hồn bà như cánh<br /> bướm dập dờn trên mọi miền cỏ hoa sông núi:<br /> Ngoài giậu, sương gieo chồi cúc đượm/ Trên hồ,<br /> sen nở tiếng chim kêu (Vịnh cảnh chùa Dược Sư).<br /> Hay: Âm thầm nhạn liệng năm canh vắng/ Khắc<br /> khoải quyên sầu mấy dặm khơi (Thu cảm). Những<br /> vần thơ lấp lánh trong veo nỗi buồn, người đọc<br /> nhìn thấy được tận cùng cái cốt lõi nhân bản của<br /> người phụ nữ Việt Nam.<br /> <br /> Muốn gửi hồn theo cánh nhạn bay.<br /> (Tiễn biệt - Hằng Phương)<br /> Nếu giọng điệu tạo cho người đọc nhiều rung cảm<br /> thì ngôn ngữ sẽ giúp ta có được thế giới hình ảnh.<br /> Chính thế giới hình ảnh ấy của ngôn ngữ sẽ tạo<br /> cho người đọc nhiều cái nhìn khác nhau về một<br /> vấn đề và trong thơ Hằng Phương, nhờ những hình<br /> ảnh ấy mà thơ của bà đã đi vào lòng người đọc.<br /> Với hình ảnh của những rặng núi, cánh nhạn chiều<br /> tà, người đọc bắt gặp người phụ nữ đang khát khao<br /> có một tình yêu như thế nào và trong ngay chính<br /> bản thân của bà luôn tiềm ẩn một sức sống một<br /> tình yêu không bao giờ cạn.<br /> <br /> Thơ của Sương Nguyệt Anh phần lớn là tiếng thơ<br /> của khí tiết. Mỗi câu thơ là lời ký thác những tâm<br /> sự nữ nhi giữa thời truân chuyên và loạn lạc. Điều<br /> khiến cho thơ bà trở nên sâu lắng và có sức gợi<br /> qua thời gian chính là tấm lòng chân thành trước<br /> cuộc đời. Câu thơ chứa đựng nỗi ngậm ngùi, kín<br /> đáo và cảm động:<br /> <br /> Trong đời sống văn học, ngôn ngữ là công cụ, là chất<br /> liệu cơ bản đồng thời là thành tố văn hoá có vị trí<br /> quan trọng trong đời sống xã hội. Ngôn ngữ Việt thể<br /> hiện rõ nét tính cách con người Việt. Các nhà thơ nữ<br /> sử dụng ngôn ngữ bình dị, kết hợp cách nói dân gian<br /> và hiện đại. Song, với sự thay đổi của hiện thực đời<br /> sống và hiện thực tâm trạng, những chi tiết bộn bề<br /> của cuộc sống ngày càng thâm nhập vào thơ, những<br /> từ ngữ được dùng để diễn tả trạng thái tâm hồn được<br /> các nhà thơ đẩy đến tận cùng độ căng của cảm xúc.<br /> Vẻ đẹp của thơ Mộng Tuyết, không phải là vẻ đẹp<br /> của cấu tứ và kỹ thuật, mà nó có sức lay động ở sự<br /> trong trẻo trong cảm xúc và những hình ảnh có sức<br /> gợi:<br /> <br /> Ngọc ánh chi nài son phấn đượm<br /> Vàng ròng há sợ mất màu phai<br /> (Cây mai - Sương Nguyệt Anh)<br /> So với Hồ Xuân<br /> Quan, Đoàn Thị<br /> Nguyệt Anh kém<br /> không thiếu phần<br /> <br /> Hương hay Bà Huyện Thanh<br /> Điểm, ngọn bút của Sương<br /> linh động, tài tình nhưng nó<br /> rắn rỏi, tự nhiên, chân thành.<br /> 107<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2