YOMEDIA
ADSENSE
Nguyễn Thị Kiêm – “Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới”
53
lượt xem 4
download
lượt xem 4
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Nguyễn Thị Kiêm là một nhân vật rất đặc biệt của giai đoạn hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Bà được xem là “nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới”. Tác phẩm của bà nằm chính ở những ý tưởng đột phá về nhận thức văn học, nhận thức nữ quyền, là sự xuất hiện vô tiền khoáng hậu trên diễn đàn thơ Cũ – thơ Mới và những bài báo rồi sẽ trở thành tư liệu quý hiếm của văn học sử giai đoạn trước 1945 ở Việt Nam.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Nguyễn Thị Kiêm – “Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới”
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 14 (39) - Thaùng 3/2016<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nguyễn Thị Kiêm –<br />
“Nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới”<br />
Nguyen Thi Kiem – “The new figure, the new emotion, the new literature”<br />
<br />
TS. Lê Thị Thanh Tâm<br />
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG Hà Nội<br />
<br />
Ph.D. Le Thi Thanh Tam<br />
University of Social Sciences and Humanities – National Univeristy Ha Noi<br />
<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Nguyễn Thị Kiêm là một nhân vật rất đặc biệt của giai đoạn hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ<br />
XX. Bà được xem là “nhân vật mới, tình tứ mới, văn chương mới”. Tác phẩm của bà nằm chính ở<br />
những ý tưởng đột phá về nhận thức văn học, nhận thức nữ quyền, là sự xuất hiện vô tiền khoáng hậu<br />
trên diễn đàn thơ Cũ – thơ Mới và những bài báo rồi sẽ trở thành tư liệu quý hiếm của văn học sử giai<br />
đoạn trước 1945 ở Việt Nam.<br />
Qua các bài diễn thuyết và các bài báo (gồm cả thể loại phóng sự ngắn, phê bình nghệ thuật) của nữ sĩ<br />
Manh Manh, có thể thấy tư duy phân tích khoa học sắc bén, triệt để là phong cách căn cốt của bà. Đó là<br />
“tài văn”, tài năng về văn chương nhìn từ góc độ nhận thức tiến trình văn chương trong quan hệ với nền<br />
quốc học, tâm thế “duy tân” và khả năng đúc rút, nắm bắt tinh nhạy những bài học thực tế, gọn ghẽ về<br />
cuộc “cách mạng” thơ ca.<br />
Từ khóa: Nguyễn Thị Kiêm, diễn đàn thơ Mới – thơ Cũ, nữ quyền…<br />
Abstract<br />
Nguyen Thi Kiem is the special figure of the period of modernization of Vietnamese literature at the<br />
beginning of 20th century. She was to be “the new figure, the new emotion, the new literature”. Her<br />
works show breakthrough idea of literary appreciation, the understanding of feminism. And her pre war<br />
articles (before 1945) are precious materials of Viet nam literary. She appeared as an orator at New –<br />
Old poetry community.<br />
Through her speeches and articles (including newspaper-reports and artistic criticals), we are able to<br />
realize that the sharp and absolute scientific thinking is her essential style. It is talent of literature of her<br />
from the point of view to be aware of the literary process in the relation with the national culture, state<br />
of renovation and ability of consolidation as well as the capacity to quickly grasp many realistic lessons<br />
of the revolution of poetry.<br />
Keywords: Nguyen Thi Kiem, New – Old poetry community, feminism…<br />
<br />
<br />
<br />
1. Tiểu sử mà trở thành một cá tính độc nhất vô nhị,<br />
Từ sau năm 1930, có một uy tín mới một chân dung dĩnh ngộ làm văn học<br />
không nằm trong danh sách những tên tuổi không lẫn vào đâu, đó là trường hợp<br />
làm quản lí, chủ bút hay viết sách, xuất bản Nguyễn Thị Kiêm. Tác phẩm của bà nằm<br />
<br />
13<br />
chính ở những ý tưởng đột phá về nhận Tân văn số 197 ngày 27-4-1933).<br />
thức văn học, nhận thức nữ quyền, là sự Thực tế, sự già dặn bất ngờ của bà<br />
xuất hiện vô tiền khoáng hậu trên diễn đàn trong nhận thức về văn học, về giá trị<br />
thơ Cũ - thơ Mới và những bài báo rồi sẽ người phụ nữ cũng như về các vấn đề văn<br />
trở thành tư liệu quý hiếm của văn học sử hóa, xã hội Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ<br />
giai đoạn trước 1945 ở Việt Nam. XX cho thấy lời giới thiệu trân trọng và<br />
Nguyễn Thị Kiêm (có khi được ghi là quả quyết của Phụ nữ Tân văn về nhân vật<br />
Nguyễn Thị Kim trên Phụ nữ Tân văn) thiếu niên “kì lạ” trên (tuổi trẻ - văn già) là<br />
sinh ngày 3 tháng 1 năm 1914 tại Sài Gòn; có cơ sở và đúng đắn.<br />
quê gốc của bà ở Gò Công, tỉnh Tiền Năm 1932, sự kiện bà diễn thuyết để<br />
Giang. Thân phụ là ông Nguyễn Đình Trị bảo vệ Thơ mới đã gây chấn động văn đàn<br />
(tức Huyện Trị), ông Hội đồng nổi danh thời đó, ảnh hưởng sâu sắc đến bước đi đầu<br />
đất Gò Công. tiên của phong trào Thơ mới.<br />
Bà là một trí thức trưởng thành từ môi Năm 1936, bà tham gia phong trào<br />
trường giáo dục và văn đàn Gia Định, Đông Dương đại hội. Bà cũng là người rất<br />
trung tâm xứ Nam Bộ. Bà từng là nữ sinh tích cực trong việc tuyên truyền, tổ chức<br />
của trường Nữ học Sài Gòn, sau đổi thành thực hiện hội Dục Anh và Nữ lưu học hội.<br />
trường Nữ Gia Long, hay còn gọi là trường Năm 1937, bà kết hôn với ông Trương<br />
Nữ sinh Áo Tím (nay là trường THPT Văn Em, bút hiệu Lư Khê, là nhà giáo, nhà báo<br />
Nguyễn Thị Minh Khai). Tốt nghiệp bằng (lễ cưới được tổ chức vào ngày 11-11-1937 tức<br />
thành chung (Trung học Đệ Nhất cấp), bà ngày mồng 1 tháng 10 năm Đinh Sửu).<br />
bắt đầu làm báo từ năm 1932 với nhiều bút Vì hoàn cảnh riêng rất bi đát (bà mất<br />
danh khác như: Nguyễn Thị Manh Manh, khả năng sinh nở, con gái Minou bị liệt và<br />
Manh Manh, Mym, Nguyễn Văn Mym, Lệ qua đời sau đó), bà chấp nhận cho chồng đi<br />
Thủy (hoặc kí tắt là L.T)… Bà tham gia bước nữa.<br />
viết bài cho các báo: Công luận, Việt Nam, Năm 1950, Nguyễn Thị Kiêm sang<br />
Nữ lưu, Tuần lễ Nay, Sống… Đặc biệt, bà Pháp định cư. Năm 2005, có thông tin bà<br />
là cây bút chủ lực của Phụ nữ Tân văn. đã mất ở một trại dưỡng lão ở Paris, thọ 91<br />
Ban biên tập Phụ nữ Tân văn từng viết tuổi (?). Tuy nhiên, năm 2006, theo thông<br />
về “một thiếu niên nữ sĩ trong bộ biên tập tin chúng tôi tiếp cận được ở Đồng Tháp,<br />
của bổn báo” như sau: Kiên Giang (nhà ông Trương Minh Đạt,<br />
“Ngày nay trong Nam ngoài Bắc, ai em trai của chồng bà Kiêm - Lư Khê), bà<br />
cũng biết tên nữ-sĩ Nguyễn Thị Kim. vẫn đang yếu bệnh trong một trại dưỡng<br />
Các độc giả yêu quý của Phụ-nữ Tân- lão Pháp. Hiện chúng tôi chưa thể có bằng<br />
văn chắc đều vui lòng thưởng những bài chứng chính xác về thông tin bà sống như<br />
thơ lối mới ký biệt-hiệu Nguyễn Thị Manh thế nào từ năm 1956 cho đến thời điểm bà<br />
Manh: nhân-vật mới, tình-tứ mới, văn- ốm mất.<br />
chương mới! 2. Sự nghiệp<br />
E xúc-phạm đến lòng khiêm-nhượng Sự nghiệp văn học của Nguyễn Thị<br />
của người bạn đồng-sự thiếu-niên, chúng Kiêm tập trung ở 3 mảng: diễn thuyết, sáng<br />
tôi chỉ nói qua về công trước tác của nhà tác thơ văn, làm báo. Trong đó, mảng diễn<br />
văn sĩ tuổi trẻ mà nghề văn già” (Phụ nữ thuyết có thể xem là sự nghiệp ấn tượng và<br />
<br />
14<br />
không lặp lại ở bất kì ai trong dòng văn 2.2. Bài báo<br />
chương nữ lưu Nam Bộ. Ảnh hưởng diễn - “Hai ngày ở thánh thất Cao Đài”,<br />
thuyết của bà không chỉ gói gọn ở vùng Nguyễn Thị Manh Manh, Phụ nữ Tân văn<br />
Gia Định mà còn lan rộng ra Huế, Hà Nội, số 176 ngày 10-11-1932, số 177 ngày 17-<br />
nơi mà cử tọa đến nghe đông đến nỗi “chật 11-1932, số 178 ngày 24-11-1932.<br />
nứt khán phòng”, mỗi lần diễn thuyết có - “Hai ngày ở thánh thất Cao Đài”,<br />
đến 5,6 nghìn người. Sức hấp dẫn của nữ sĩ Nguyễn Thị Manh Manh, Phụ nữ Tân văn<br />
Nguyễn Thị Manh Manh toát ra từ đề tài số đặc biệt Xuân 1933, ra ngày 19-1-1933<br />
nóng, cách nói táo bạo, phong thái trí thức - “Những cái dở của điệu hát cải lương<br />
đĩnh đạc và sự thông tuệ, chắc chắn hiếm ta”, Phụ nữ Tân văn số 230 ngày 4-1-1933.<br />
có của một “thiếu niên” am hiểu văn hóa. - “Các điệu hát Bắc kỳ”, Phụ nữ Tân văn<br />
Sự có mặt của Nguyễn Thị Kiêm trong số đặc biệt Xuân 1933, ra ngày 19-1-1933.<br />
văn học sử được đo đếm bằng khoảng chục - “Năm tết, Tết đến”, Nguyễn Thị<br />
bài thơ được viết theo lối “thơ mới” từ giai Manh Manh, Phụ nữ Tân văn số 208, ngày<br />
đoạn “trứng nước” và nhiều bài báo mà sự 20-3-1933.<br />
thông minh về tư duy bằng chữ quốc ngữ - “Một cảnh vật, hai tâm hồn”, Phụ nữ<br />
đáng cho người thời nay có cảm hứng Tân văn số 196, ngày 20-4-1933.<br />
nghiên cứu, thẩm nhận và tôn vinh. - “Nhân vật buổi “kinh tế””, Nguyễn<br />
Dưới đây là phần thống kê chi tiết nhất V-Mym, Phụ nữ Tân văn số 197, ngày 27-<br />
có thể về sự nghiệp trước tác và “lập 4-1933.<br />
thuyết” của bà: - “Các điệu hát Bắc kỳ”, Phụ nữ Tân<br />
2.1. Diễn thuyết văn số 205, ngày 22-6-1933.<br />
- Bài diễn thuyết “Vấn đề nữ lưu và - “Chuyện ngoài đường”, Mym, Phụ<br />
văn học” đăng trên Phụ nữ Tân văn số 131 nữ Tân văn số 208, ngày 20-7-1933.<br />
ngày 26-5-1932 - “Đấu xảo nữ công”, Nguyễn Thị<br />
- “Bài diễn thuyết của cô Nguyễn Thị Manh Manh, Phụ nữ Tân văn số 208, ngày<br />
Kiêm về lối thơ mới” ở Hội Khuyến học 20-7-1933.<br />
Sài Gòn ngày 26-71933, sau đăng lại trên - “Một giờ phỏng vấn đội trưởng hội<br />
Phụ nữ tân văn số 131 ngày 26-5-1933 Phụ nữ Cái vồn”, Nguyễn Thị Kiêm, Phụ<br />
- Bài diễn thuyết “Dư luận nam giới nữ Tân văn số 210, 1933.<br />
đối với phụ nữ tân tiến” tại hội trường - “Mấy con số đáng ghê sợ”, Nguyễn<br />
Quảng Trị, Huế, ngày 8-5-1934 Thị Kim, Phụ nữ Tân văn số 215, ngày 7-<br />
- Bài diễn thuyết “Một ngày của một 9-1933.<br />
người đàn bà tân tiến” tại Hội Khai trí tiến - “Viếng một cái sầu thành: nhà thương<br />
đức, Hà Nội ngày 8-9-1933 Bạc Hà”, Phụ nữ Tân văn số 212, ngày 17-<br />
- Bài diễn thuyết “Có nên tự do kết 8-1933.<br />
hôn không?” tại Nam Định ngày 3-11-1934 - “Phê bình kịch “Bạn và vợ””,<br />
- Bài diễn thuyết “Có nên bỏ chế độ đa Nguyễn Thị Manh Manh, Phụ nữ Tân văn<br />
thê không?” tại Hải Phòng ngày 29-11- số 213, ngày 24-8-1933.<br />
1934 (Theo Nguyễn Kim Anh (chủ biên), - “Phụ nữ với hôn nhơn”, Nguyễn Thị<br />
Thơ văn nữ Nam Bộ thế kỷ XX, NXB Kiêm, Phụ nữ Tân văn số 221 ngày 19-10-<br />
Thành phố Hồ Chí Minh), 2002). 1933.<br />
<br />
15<br />
- “Nói chuyện với ông Giáo-sư Leuret Nguyễn Thị Kiêm nằm trong bối cảnh tác<br />
Le Ferron”, Phụ nữ Tân văn số 250, ngày động của toàn xã hội về các vấn đề: quốc<br />
12-7-1934. học, nữ quyền, báo chí quốc ngữ, sự nhạy<br />
- “Đi mót tư tưởng ngoài đồng ruộng”, cảm với cái mới trên mọi lĩnh vực cũng<br />
Phụ nữ Tân văn số 254, ngày 16-8-1934. như bối cảnh hiện đại hóa nền văn học<br />
- “Niêm phong cái gói tam tùng lại”, nước nhà.<br />
Phụ nữ Tân văn số 255, ngày 23-8-1934. Trong “tuyên ngôn” đã được phát ra<br />
- “Điệu hát cải lương ta”, Nguyễn Thị với toàn thể quốc dân năm 1929, Phụ nữ<br />
Kiêm, Phụ nữ Tân văn số 231 ngày 11-1- Tân văn viết:<br />
1934, số 232 ngày 18-1-1934. “Ngày hôm nay, Phụ Nữ Tân Văn ra<br />
- “Dưới chơn Đèo Cả”, Phụ nữ Tân đời, là non sông thêm một tay thợ điểm tô,<br />
văn số 252 ngày 2 – 8 – 1934. xã-hội thêm một người lo công việc, trên<br />
- “Bói dầu tuồng hội chợ”, Nguyễn Thị trường văn trận bút, thêm một đội binh<br />
Kiêm, Tuần lễ Nay, ngày 12-1-1948. đàn-bà, mà trong bạn buồng khuê cửa các<br />
- “Miễn lễ”, Nguyễn Thị Kiêm, Tuần chúng ta, cũng có một cơ-quan để cùng<br />
lễ Nay, ngày 12-1-1940. nhau phấn đấu với đời đây!(…)<br />
2.3. Thơ Phải làm sao cho người đờn-bà cũng<br />
- “Viếng phòng vắng”, Phụ nữ Tân văn có học-vấn rộng rãi, trí thức mở mang, có<br />
số đặc biệt Xuân 1933, ra ngày 19-1-1933. thể hiểu biết được phận-sự mình là một bà<br />
- “Lá rụng”, Phụ nữ Tân văn số 193, nội-tướng thì mới có ích lợi cho đời được.”<br />
ngày 30-3-1933. (Phụ nữ Tân văn số 1 năm 1929).<br />
- “Sa đà…”, Phụ nữ Tân văn số 194, Với tinh thần đó, người thiếu niên chưa<br />
ngày 6-4-1933. đầy 20 tuổi Nguyễn Thị Kiêm đã hoạt động<br />
- “Vịnh hội chợ đêm Pháp – Việt”, nhiều hơn vai trò của một nhà báo. Trong<br />
Phụ nữ Tân văn số 195, ngày 13-4-1933. ba “công nghiệp” của Phụ nữ Tân văn:<br />
- “Tặng “Văn học tuần san””, Phụ nữ - Tổ chức Hội Dục Anh<br />
Tân văn số 195, ngày 13-4-1933. - Tổ chức một cuộc hội chợ Phụ nữ<br />
- “Hai cô thiếu nữ”, Phụ nữ Tân văn số - Tổ chức Nữ lưu học hội<br />
204, ngày 15-6-1933. thì Nguyễn Thị Kiêm đều đóng vai trò<br />
- “Canh tàn”, Phụ nữ Tân văn số 213, quan trọng và ghi dấu ấn khá rõ. Bà tham<br />
ngày 24-8-1933. gia tổ chức Hội chợ Phụ nữ để gây quỹ cho<br />
- “Bức thơ gửi cho tất cả ai ưa hay là Hội Dục Anh, tổ chức kêu gọi thành lập<br />
ghét lối thơ mới”, Phụ nữ Tân văn số 228, Nữ lưu học hội. Bà còn được cho là người<br />
ngày 14-12-1933. đã “tung truyền đơn” trong phong trào<br />
- “Bà La Fugie nhà thám hiểm và họa Đông Dương đại hội tại nhà hát Tây để<br />
sĩ”, Phụ nữ Tân văn số 239, ngày 26-4-1934. truyền bá dân nguyện. Ban biên tập Phụ nữ<br />
- “Đêm khuya qua Xuân Lộc”, Phụ nữ Tân văn hoàn toàn đặt niềm tin vào bà<br />
Tân văn số 264, ngày 25-10-1934. trong “chiến dịch” đánh thức tinh thần phụ<br />
3. Những quan niệm cơ bản của nữ và làm dấy lên một trào lưu “nhận thức<br />
Nguyễn Thị Kiêm về văn chương, văn học nữ quyền” nhằm khắc sâu một tinh thần<br />
3.1. Quan niệm phụ nữ với văn chương mới, giá trị sống mới có ích cho quốc dân.<br />
Quan niệm phụ nữ với văn chương của Với bài diễn thuyết “Nữ lưu với văn<br />
<br />
16<br />
học” (sau đăng trên Phụ nữ Tân văn số 131 mà nói, thì cái phong trào nầy (tức phong<br />
ngày 26-5-1932), nữ sĩ Manh Manh trở trào nam hóa, đàn bà “mưu lấy quyền lợi<br />
thành một trong số những người không chỉ bình đẳng ở xã hội” - L.T.T.T nhấn mạnh)<br />
hoạt động văn học như một minh chứng về chính là một cái triệu chứng về sự tấn hóa<br />
việc “phụ nữ làm văn học” mà còn làm của nữ lưu ở trên đường văn học”. Như<br />
phong phú thêm cho một nền lý luận văn vậy, bà cấp cho mối quan hệ giữa nữ giới<br />
học giới ở buổi đầu vàng thau. Nguyên do với văn học một nguồn gốc “sang trọng” từ<br />
chính của việc nữ sĩ tuyên truyền về vai trò cuộc cách mạng về nữ quyền, xu thế tất<br />
của nữ lưu với văn học xuất phát từ việc yếu trên thế giới. Bà giải thích một cách<br />
kêu gọi hình thành Nữ lưu Học hội với sứ ngộ nghĩnh, thú vị, phần nào “sâu cay” về<br />
mệnh “đàn bà là có mật thiết quan hệ đến sự hiện diện của Nữ lưu Học hội ở xứ Nam<br />
văn chương nước nhà” (2). ta như sau:<br />
Chuỗi lập luận của bà đi từ triết học “Đối với những cái thiên tài xuất<br />
đến khoa học về giới rồi dẫn vào tâm lý chúng, Nữ lưu Học hội có thể không là cần<br />
học nghệ thuật. Đó là lối suy nghĩ, tiếp cận thiết; đối với những kẻ dung tục chí ngu,<br />
trước những vấn đề mang tính trừu tượng Nữ lưu Học hội có thể cho là đồ thừa.<br />
rất khác biệt của nữ sĩ Manh Manh. Nhưng đối với những người như<br />
“Theo lẽ sinh lý, thì đàn bà thường chúng tôi đây: ngu mà muốn học cho khôn,<br />
nặng về phần hồn mà nhẹ về phần trí, cảm dốt mà muốn học cho giỏi, không biết mỹ<br />
tình thì sâu mà tư tưởng thì hẹp nên trong thuật mà muốn yêu mến mỹ thuật, không<br />
văn học thường sở trường về lối tả cảnh, biết văn chương mà muốn cảm mến văn<br />
đạo tình mà ít hay về lối khách quan, triết chương, thì Nữ lưu Học hội thiệt là cần ích<br />
lý”. Từ nền tảng chung này, bà phân tích cho chúng tôi lắm”.<br />
rằng “đàn bà vốn nặng về chủ quan” nên Rất khéo léo khi lập luận trong diễn<br />
có đủ quan tâm vào cái thế giới nhân loại thuyết, bà không sa vào món lý luận trừu<br />
bao la mà đàn ông vốn ưa khách quan có tượng mặc dù cũng đủ lý luận để khiến<br />
phần bỏ quên. Nghĩa là, theo bà, năng lực thính giả khỏi tranh cãi nhiều. Bà còn dẫn<br />
đi vào thế giới của cảm giác, “tâm giới cả kinh Phật rất đúng lúc: “Tự giác nhi<br />
mênh mông” của phụ nữ là một thế mạnh, giác tha”; bà giải thích: “Người đàn bà<br />
một loại “biệt tài” được phát lộ trực tiếp và cũng có cái tinh thần cần phải tự giác để<br />
gián tiếp dưới nhiều hình thức. Điều này chiếu sáng ra ở chung quanh mình, cho gia<br />
vẫn rất đúng. đình mình được êm đềm phong phú, cho xã<br />
Phát hiện quan trọng và thú vị của hội được rực rỡ quang minh”. Vậy là đưa<br />
Nguyễn Thị Kiêm là nhấn mạnh khả năng cả triết học tôn giáo vào cuộc.<br />
“tạo cảm hứng viết cho đàn ông” như một Tóm lại, cách hiểu của nữ sĩ Manh<br />
hình thái tham dự sáng tạo của phụ nữ thay Manh về nữ lưu và văn học là rất nhất quán<br />
vì chỉ nói về cách mà phụ nữ tạo ra tác bao gồm các phương diện: triết học, giới<br />
phẩm. Bà cho rằng “văn học được phát đạt tính, tâm lý, văn học, bản năng làm văn<br />
vô cùng” là do cái phần thôi thúc của tâm chương của phụ nữ và định mệnh lịch sử<br />
hồn nữ giới đối với các “văn nhân tao sĩ” của phụ nữ ở thời khắc mưu cầu cuộc cách<br />
vốn là đàn ông kia. Điều này cũng rất đúng. mạng về nữ quyền, tri thức và tiến hóa về<br />
Bà lập luận: “về phương diện văn học tinh thần.<br />
<br />
17<br />
3.2. Quan niệm cách tân văn học - sẽ: biến câu chuyện cũ - mới thành câu<br />
lý do tất yếu Thơ mới sẽ sống chuyện Tây - Tàu, biến nhu cầu thiết tha<br />
Vai trò hệ trọng của Nguyễn Thị Kiêm cách tân thơ thành câu chuyện “phá đám”<br />
đối với sự khai mở của Thơ mới năm 1932 của loại thơ ngọng nghịu không đủ lệ luật,<br />
là không thể bàn cãi. đánh đổi câu chuyện nghiêm trọng về nền<br />
Rất đáng chú ý là cách hiểu thơ mới thơ hiện đại bằng cách phê bình những bài<br />
cũng như sự hùng hồn, quyết liệt của bà thơ mới thất bại.<br />
trước sự hiện diện của thơ mới rõ ràng xuất Cách tư duy ngụy biện và “đánh lạc<br />
phát từ ý thức, tư tưởng nhất quán toàn hướng” của phe thủ cựu trước những biến<br />
diện về một cái mới tất yếu mà thơ mới chỉ đổi quá lớn (nói như Hoài Thành, “cả nền<br />
là một ví dụ đặc sắc. Bà hoàn toàn nhuần tảng xưa bị một phen điên đảo, lung lay”)<br />
nhị về “chiến lược cái mới” cho mọi cắt rất dễ trở thành hòn đá tảng ngăn lại dòng<br />
nghĩa về giới, về xã hội, văn chương và cụ thác canh tân đang cuồn cuộn đến. Bởi câu<br />
thể hơn nữa là thơ. Vì thế, những bài diễn chuyện cũ và mới là cuộc đối thoại vượt ra<br />
thuyết của bà đều hấp dẫn như nhau, vì khỏi rất nhiều khả năng nghĩ và tư duy của<br />
chúng thuộc cùng một hệ thống tư duy về người Việt lúc đó. Nếu biến nó thành<br />
một cái mới đang hiện diện, cần có mặt, chuyện ảnh hưởng Tây hay Tàu thì đó lại là<br />
cái mới có giá trị, mặc dù các chủ đề có thể một chủ đề tầm thường quanh quẩn và<br />
khác nhau. Đó mới thực sự là một đẳng cấp không hề có gốc rễ. Nguyễn Thị Kiêm<br />
tư duy – điều hiếm có ở một người phụ nữ hoàn toàn hiểu rõ điều này và dùng khoa<br />
chưa tròn 20 tuổi. học để tranh luận. Với mỗi bài thơ mới<br />
Chuỗi lập luận lần này của bà như sau: được dẫn chứng, bà đều khéo dùng cách<br />
Thơ là gì? → Làm thơ là gì? → Không nói cũ để bàn về sự hình thành cái mới:<br />
gian thụ hưởng thơ truyền thống như thế “Một khúc có 6 câu. Câu thứ 1 và 5, 6 thì<br />
nào (bao gồm cái truyền thống thuộc về mỗi câu có 4 chữ. Câu 2, 3, 4, mỗi câu có 3<br />
dân tộc và cái truyền thống của chung chữ. Vận thì câu 1, 2, 3, 6 ăn nhịp với<br />
phương Đông, chủ yếu là Trung Quốc)? → nhau; 4, 5 vần với nhau”. Cách nói này rất<br />
Không gian thơ truyền thống đó đã làm cũ. Cũng có thể bà không cố tình nói cách<br />
chật hẹp điều gì? → Vậy người ta phải cũ mà cái tình thế tư duy và tình thế xã hội<br />
vùng vẫy khỏi cái chật hẹp ấy như thế nào lúc bấy giờ khiến người ta đương nhiên nói<br />
(trường hợp Phan Khôi và Tình già, Lưu thế. Ở góc độ nào đó, cách nói cũ mới lẫn<br />
Trọng Lư và Trên đường đời)? lộn này cũng là một “chỉ số” đo được phần<br />
Đoạn “chiếu nghỉ” trên nấc thang đến nào tâm thế và não trạng đối với cái mới<br />
cái mới của bà dừng lại ở câu cảm thán có của con người đương thời.<br />
tính phản đề: “Đây là tôi bày một ý kiến Từ quan điểm mới mẻ và chắc chắn,<br />
cho các thi sĩ (une proposition) chớ không nữ sĩ còn nhấn mạnh phê bình thơ Hồ Văn<br />
phải nói ông Lưu Trọng Lư bắt chước theo Hảo như một giá trị thơ mới (viết về cuộc<br />
thơ Pháp mà các ngài hòng la lên: Bỏ thơ đời thật). Nhận xét về bài Con nhà thất<br />
Tàu lại vớ thơ Tây!” nghiệp của Hồ Văn Hảo (Phụ Nữ Tân Văn<br />
Đoạn phản đề này rất thâm thúy. số 208 ngày 20-7-1933), nữ sĩ cho rằng<br />
Nữ sĩ “chặn” được cả cách phản biện “người ta cho là chẳng phải thơ, chỉ vì<br />
(định kiến) của phe thơ cũ bởi khả năng họ chẳng phải than thân trách phận, tả cảnh<br />
<br />
18<br />
hoa tàn nguyệt xế, suối chảy chim ngâm, thứ rường cột lặng lẽ cho công cuộc đổi<br />
mà là một cảnh thiết thật, một cảnh khổ có mới thơ ca có lẽ là một quyết định rất cần<br />
thật trong đời: người thất nghiệp… Có lẽ chú ý ở bà.<br />
trong thơ văn, người cu li ở trần quần vắn Với bài diễn thuyết lừng lẫy, nữ sĩ<br />
là một động vật không có gì lãng mạn Manh Manh gửi gắm hy vọng một cách<br />
chăng? Có lẽ cái bi kịch của một người tỉnh táo rằng đổi mới thơ là tất yếu: “chỉ<br />
nghèo khó phải đi ăn trộm “hụt”, chúng mong rằng lối thơ mới được nhiều người để<br />
hay được la 'ăn trộm' rồi anh chạy trốn, bi ý đến và nó có thể trở nên một lối thơ thông<br />
kịch ấy không gì lạ đáng để ý chăng?". Ý dụng để tả một cách thiết thực rõ ràng<br />
tưởng sắc sảo này của Nguyễn Thị Manh những thi cảm của các nhà thi sĩ hiện thời”.<br />
Manh từ thời điểm nhạy cảm phôi thai Lịch sử cho thấy niềm hy vọng ấy rất<br />
phong trào Thơ mới đã làm sáng thêm giá đáng xem là sự tiên đoán ngoạn mục.<br />
trị của đời thơ Hồ Văn Hảo, người mà về 4. Sự nghiệp Nguyễn Thị Kiêm nhìn<br />
sau, ngoài Đông Hồ dường như không có từ hiện tại - một vài đánh giá<br />
ai hiểu và trân trọng. Cái mới của nhà thơ 4.1. Thành tựu chung<br />
Hồ Văn Hảo nằm ở chỗ: tiên cảm về tính 1. Nguyễn Thị Kiêm là người đặt nền<br />
chân thực và sự dấn thân của thơ ca hiện móng xây dựng nghệ thuật diễn thuyết của<br />
đại, sự chủ động của cái tôi và sự dứt khoát phụ nữ - điều chưa từng có trong lịch sử<br />
với quá khứ ngâm ngợi từ chương. Riêng ở văn học Việt Nam. Bà đã đi vào lịch sử<br />
bài Con nhà thất nghiệp, tuy lời lẽ chưa bằng hoạt động diễn thuyết và nội dung<br />
phải là một áng thơ tuyệt tác nhưng ý diễn thuyết ở tuổi hoa niên với những chủ<br />
tưởng và cách nói mới đó rất xứng đáng đề làm thay đổi nhiều giá trị tinh thần của<br />
được xem là một mẫu hình quan trọng của xã hội.<br />
thơ mới, nhất là ở chặng đầu phôi thai. 2. Tư duy văn học của bà đi đôi với<br />
Dường như thơ mới trên bước đường “lưu khả năng hùng biện, phong cách nói và viết<br />
lạc” của nó đã bị xô hẳn về phía lãng mạn, chừng mực nhưng quyết liệt. Tư duy đó<br />
trôi hẳn về một “chân trời của cái tôi” do mang tính nguyên hợp, gắn chặt với tư duy<br />
nhiều lớp thi nhân (có hoặc không có tuyên khoa học thực sự. Bởi vậy, cái nhìn của bà<br />
ngôn) đã “vô tình” làm nên chân dung luôn là cái nhìn phản biện, phản tỉnh. Tính<br />
thuần túy của thơ mới; trong khi ở thời chất hoạt ngôn không tách rời khả năng<br />
trứng nước, nó đã ngấm ngầm làm một phân tích lý trí.<br />
cuộc chuyển hóa “mây gió trăng hoa tuyết 3. Các bài viết về văn học, nghệ thuật<br />
núi sông” thành một loại thơ dành cho chạm đến những vấn đề lý luận văn học<br />
nhân quần, thơ hướng xuống một địa ngục một cách tự nhiên (bao gồm các điểm: văn<br />
nhân sinh với những nỗi thương cảm chân học khách quan, văn học chủ quan, “nam<br />
thành. Phải chăng, cái “thực” của thơ mới hóa” làng văn nữ, văn học và khoa học,<br />
ở những chặng đầu tiên đã từng là cái thực văn học và mỹ thuật, sự tiến hóa của nữ<br />
của đời chứ không phải chỉ có thế giới của lưu trên đường văn học…). Nhiều khái<br />
tình - mộng - buồn như chúng ta hằng suy quát và so sánh hợp lý (đặt văn học vào<br />
nghĩ về bản chất thơ mới? Quan niệm của phông nền văn hóa văn minh châu Âu để<br />
nữ sĩ Manh Manh về trường hợp Hồ Văn tranh luận); phối hợp tri thức Đông Tây,<br />
Hảo và chọn lựa tác phẩm của ông như một công nghệ, tôn giáo… để thuyết phục<br />
<br />
19<br />
người nghe, người đọc. quần”. Điều ấy cũng không khác là bao<br />
4. Những bài báo phê bình nghệ thuật, việc bà chọn Hồ Văn Hảo, nhà thơ mới<br />
phóng sự, phỏng vấn… của bà về cơ bản Nam bộ với bài thơ về đời thất nghiệp để<br />
đều tay, chắc chắn, giàu cảm xúc và vốn làm điểm tựa cho cuộc cách tân thơ phải có<br />
sống (so với tuổi của bà). Các lĩnh vực ở xứ Annam.<br />
quan tâm rất đa dạng: từ những bài phóng 5. Giá trị lý luận từ những hoạt động<br />
sự dạng du kí như “Hai ngày ở thánh thất và nội dung diễn thuyết của bà có thể nói<br />
Cao Đài” (Phụ nữ Tân văn số 176 ngày 10- là rất lớn: đóng góp cho sự hình thành và<br />
11-1932, số 177 ngày 17-11-1932, số 178 phát triển thơ mới, góp phần đặt những<br />
ngày 24-11-1932, số đặc biệt Xuân 1933, viên gạch đầu tiên cho việc tìm hiểu văn<br />
ra ngày 19-1-1933) cho đến những bình chương nữ quyền ở Việt Nam; sớm nhận<br />
luận nghệ thuật như “Những cái dở của ra và đặt ra vấn đề văn học và phụ nữ một<br />
điệu hát cải lương ta” (Phụ nữ Tân văn số cách đích đáng, biết cách đặt văn học trong<br />
230 ngày 4-1-1933); “Các điệu hát Bắc kỳ” các trào lưu tiến bộ về tư tưởng, mỹ thuật,<br />
(Phụ nữ Tân văn số đặc biệt Xuân 1933, ra văn nghệ đương thời; đồng thời thấy rõ<br />
ngày 19-1-1933; Phụ nữ Tân văn số 205, tầm quan trọng của ảnh hưởng văn hóa văn<br />
ngày 22-6-1933); Phê bình kịch “Bạn và minh châu Âu đối với sự phát triển văn<br />
vợ” (Phụ nữ Tân văn số 213, ngày 24-8- học nước nhà.<br />
1933); “Điệu hát cải lương ta” (Phụ nữ Tân 4.2. Một vài hạn chế<br />
văn số 231 ngày 11-1-1934, số 232 ngày Hầu hết các bài viết của nữ sĩ Manh<br />
18-1-1934). Cách dẫn giải trong loạt bài Manh đều ít chọn lọc ngôn ngữ viết thuần túy<br />
này hầu hết mang tính khoa học, luận điểm mà thường chọn cách nói khá tự nhiên, dân<br />
rất mới mẻ và táo bạo (3). Mảng báo được dã. Văn bản của bà thường xuất hiện tình<br />
chăm sóc nhiều hơn cả lại nằm ở những bài trạng khẩu ngữ xen lẫn thuật ngữ, cách nói tài<br />
viết về đời sống, xã hội, cuộc sống lao khổ hoa, trí tuệ xen lẫn cách nói “rặt” địa phương<br />
của người dân, như các bài “Nhân vật buổi (miền Tây Nam Bộ), khiến cho tính chuyên<br />
“kinh tế”” (Phụ nữ Tân văn số 197, ngày nghiệp trong văn phong bị ảnh hưởng.<br />
27-4-1933); “Mấy con số đáng ghê sợ” Cách đặt vấn đề của bà thường khá lớn,<br />
(Phụ nữ Tân văn số 215, ngày 7-9-1933); có dáng dấp những phác thảo lớn nhưng<br />
“Viếng một cái sầu thành: nhà thương Bạc việc chi tiết hóa lại không cân xứng. Văn<br />
Hà” (Phụ nữ Tân văn số 212, ngày 17-8- phong quốc ngữ của bà đôi lúc còn ở dạng<br />
1933); “Phụ nữ với hôn nhơn” (Phụ nữ Tân thô, ít trau chuốt, có khi bị “cứng”, “sượng”.<br />
văn số 221 ngày 19-10-1933)… Đặc biệt, Ở tuổi hai mươi, bà đã làm quá nhiều<br />
bài “Dưới chơn Đèo Cả” (Phụ nữ Tân văn thứ vượt sức khi thử thách mình ở các vấn<br />
số 252 ngày 2-8-1934) gần với một phóng đề đặc biệt hệ trọng đối với sự phát triển<br />
sự giàu chất văn hơn là một bài báo phản đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam<br />
ánh đời sống “lao công” xây đường ray; giai đoạn thuộc Pháp. Một số kiến giải<br />
bài viết trộn lẫn cái nhìn sắc sảo về đời trong bài viết của bà còn dừng ở mức tản<br />
sống với niềm đa cảm của một tấm lòng tử mạn, nồng nhiệt nhưng đơn giản.<br />
tế. Mảng báo viết về xã hội, nhân sinh rất Thơ của bà quá tỉnh táo, thông minh<br />
nhất quán với quan niệm của bà về tinh nhưng thiếu tinh tế. Dùng nó để chứng<br />
thần dấn thân không mỏi vào cuộc “nhân minh cho “lộ trình” đổi mới thơ thì được,<br />
<br />
20<br />
nhưng chứng minh cho giá trị của thơ mới hoàn toàn tránh được sự xốc nổi, không<br />
thì vẫn còn là điều băn khoăn. tưởng. Di sản của bà giống như tiếng hót<br />
5. Kết luận con chim yêu đời, dấn thân, thần thái lớn<br />
Di sản của nữ sĩ Manh Manh để lại lao giữa trời cao rộng nhưng cũng sớm kết<br />
chứng tỏ một ranh giới giữa “tài văn” và thúc trong bi kịch riêng lặng lẽ.<br />
“văn tài”. Qua các bài diễn thuyết và các<br />
bài báo (gồm cả thể loại phóng sự ngắn, * Chú thích<br />
phê bình nghệ thuật) của nữ sĩ Manh Bài viết nằm trong đề tài KH&CN cấp Đại Học Quốc<br />
Manh, có thể thấy tư duy phân tích khoa gia loại B năm 2013, mã số B2013-18b-05: Hoạt động<br />
nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học quốc ngữ ở Nam<br />
học sắc bén, triệt để là phong cách căn cốt Bộ trước 1954 (Sưu tầm, tuyển chọn và nghiên cứu).<br />
của bà. Đó là “tài văn”, tài năng về văn (1) Các trích đoạn phần này đều rút từ bài diễn<br />
chương nhìn từ góc độ nhận thức tiến trình thuyết “Nữ lưu và văn học” (Phụ nữ Tân văn số<br />
văn chương trong quan hệ với nền quốc 131, ngày 26-5-1932).<br />
học, tâm thế “duy tân” và khả năng đúc rút, (2) Xin đọc nguyên văn một số nhận xét của bà:<br />
nắm bắt tinh nhạy những bài học thực tế, “Tôi không hiểu tại làm sao có người thấy rõ cái<br />
gọn ghẽ về cuộc “cách mạng” thơ ca. Cách dở của điệu ca của mình mà không chịu nhận<br />
như vậy. Bản nảo bản rí rít như than khóc, kể lể<br />
phát hiện vấn đề rất thông minh của bà và tỏ ra cái tánh yếu ớt của dân mình, cái hồn bị đè<br />
những lập luận không thể sáng rõ hơn cho áp phục tùng từ mấy ngàn năm xưa… Nhưng họ<br />
thấy những tính từ các nhà nghiên cứu cho vậy là mơ mộng, vẩn vơ, khen có tài văn<br />
dành cho bà: “xuất chúng”, “có tài và có chương trong lời hát. Mà văn chương của bài ca<br />
ta là văn chương tầm phào, nói đi nói lại (…)<br />
gan” là đích đáng. Âm nhạc của ta còn nghèo lắm vì chẳng có ai bổ<br />
Tuy nhiên, “tài văn” của bà không cứu sửa đổi các thứ đờn, chẳng có thầy đặt bài<br />
song trùng với “văn tài” - vốn là thứ được ca (compositeur) có bấy nhiêu điệu thì xài bao<br />
chưng cất trong mỗi con chữ sáng tác tài nhiêu đó” (trích “Điệu hát cải lương ta”, Phụ nữ<br />
Tân văn số 231 ngày 11-1-1934, trang 6); “Hát<br />
hoa. Trên thực tế, các bài thơ “làm chứng” cải lương của ta còn ở dưới một trình độ thấp<br />
của bà trong các diễn thuyết về “thơ mới” thỏi lắm. Người ngoại quốc đến xem ắt cho<br />
chưa thể có bất kì một vị trí nào trên văn người Annam có cái tâm hồn thật trong sạch<br />
đàn đương thời (và cả về sau cũng thế). (une caudeur d’âme), cái trẻ con thật thà, cái lạc<br />
quan “dày cuôi” vì rạp hát là cái phản chiếu sự<br />
Hoài Thanh đã đúng khi nhắc đến bà như văn minh của dân một xứ. Một số người trí thức<br />
một “ngòi châm” cho cuộc đổi ngôi vĩ đại Annam không chịu xem cải lương vì họ chê là<br />
trong lịch sử nghệ thuật ngôn từ thời hiện dở lắm. Một số người không chịu nghe nói đến<br />
cải lương vì họ cho là không thể sửa đổi được.<br />
đại (giai đoạn chuyển giao từ thơ cũ sang<br />
Không, nếu hát xướng của ta mà có thể làm<br />
thơ mới) mà không chọn lấy một câu thơ, cho người ngoài lầm về cái trình độ trí thức<br />
một bài thơ nào của bà để đặt vào “Hội Tao của ta thì chúng ta phải quan tâm mới được<br />
đàn” huyền thoại năm xưa. (L.T.T.T nhấn mạnh). Thấy nó dở không nên<br />
chê nó dở mãi, phải tìm cái dở tại đâu mà có,<br />
Nhìn chung, Nguyễn Thị Kiêm là một<br />
làm sao mà bổ cứu cho nó được cao lên” (trích<br />
nhân vật rất đặc biệt của giai đoạn hiện đại “Những cái dở của điệu hát cải lương ta”, Phụ<br />
hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Toàn nữ Tân văn số 230 ngày 4-1-1933).<br />
bộ đóng góp của bà thể hiện ở tài năng, tư<br />
chất phản biện khoa học về văn chương TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
một cách rạch ròi, mạnh mẽ, không khoan 1. Hoài Anh, Hồ Sĩ Hiệp (1999), Những danh<br />
nhượng song cũng rất có tình, chừng mực, sĩ miền Nam, Nxb Tổng hợp Tiền Giang.<br />
<br />
21<br />
2. Hoàng Anh (1998), “Nguyễn Thị Kiêm: Manh Manh - Nguyễn Thị Kiêm đôi nét<br />
“Nữ vệ sĩ của phong trào “thơ mới” buổi đời thường”, Tạp chí Văn, số 86.<br />
đầu””, Tạp chí Văn, Hội nhà văn<br />
17. Nguyễn Tấn Long (1968), Việt Nam thi<br />
TP.HCM, số 83.<br />
nhân tiền chiến, 3 quyển, Sống mới xuất<br />
3. Hoàng Anh (1999), “Nữ sĩ Nguyễn Thị bản, Sài Gòn.<br />
Manh Manh”, Sài Gòn giải phóng, ngày<br />
13-4-1999. 18. Nguyễn Tấn Long, Phan Canh (1968),<br />
Khuynh hướng thi ca tiền chiến, Sống mới<br />
4. Nguyễn Kim Anh (chủ biên) (2005), Văn xuất bản.<br />
học Nam Bộ nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế<br />
kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia. 19. Tứ Ly (1935), “Một cuộc diễn thuyết ở<br />
Sài Gòn: Vấn đề thơ mới và thơ cũ”,<br />
5. Phạm Xuân Độ (1970), Nữ thi hào Việt Phong hóa, số 135, 8-2-1935.<br />
Nam, Trung tâm học liệu xuất bản, Sài Gòn.<br />
20. Hoàng Như Mai (1993), “Người phụ nữ<br />
6. Bằng Giang (1992), Văn học Quốc ngữ ở chăm sóc thơ mới từ buổi ấu thơ”, Phụ nữ,<br />
Nam Kì 1865-1930, Nxb Thành phố Hồ số ra ngày 6-1-1993.<br />
Chí Minh.<br />
21. Tố Mai (1935), “Cô Nguyễn Thị Kiêm trả<br />
7. Bằng Giang (1999), “Phụ nữ tân văn lời”, Sống, số 2, 29-1-1935.<br />
(1929-1935) - Cái bệ phóng cho một tài<br />
năng”, Văn nghệ, số 21 (bộ mới). 22. Hương Nguyên (2001), “Các nhà văn nữ<br />
Việt Nam thời Pháp thuộc”, Tạp chí Văn<br />
8. Nguyễn Hữu Hiệp (1998), “Bước ngoặt học, số 10-2001.<br />
thơ mới ở Nam Kỳ”, Xưa và nay, số 52B-<br />
6/1998. 23. Vũ Ngọc Phan (1944), Nhà văn hiện đại,<br />
Tân Dân xuất bản, Hà Nội.<br />
9. Mai Hương (biên soạn và tuyển chọn)<br />
(1997), Nữ sĩ Việt Nam nửa đầu thế kỷ 24. Thế Phong (1974), Lược sử văn nghệ Việt<br />
XX, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. Nam - Nhà văn tiền chiến 1930-1945,<br />
Vàng son xuất bản, Sài Gòn.<br />
10. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1988),<br />
Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 25. Kiều Thanh Quế (1968), Cuộc tiến hóa<br />
1900-1930, Nxb ĐH&THCN, Hà Nội. văn học Việt Nam, Hoa Tiên xuất bản,<br />
(Sài Gòn).<br />
11. Ngộ Không (1935), “Tường thuật buổi<br />
diễn thuyết tranh luận giữa Nguyễn Thị 26. Bộ sưu tập Bùi Văn Quế (2001), “Nguyễn<br />
Kiêm và Nguyễn Văn Hanh tại Hội Thị Manh - nữ tiên phong thơ mới ở Nam<br />
Khuyến học Sài Gòn, 16-1-1935”, Phong Kỳ” (Lưu trữ tại thư viện Tổng hợp<br />
hóa, 2-1935. TP.HCM, BH2001-CD room).<br />
<br />
12. Lê Đình Kỵ (1989), Thơ mới - Những 27. Nguyễn Hữu Tiến (1934), “Thơ mới thơ<br />
bước thăng trầm, Nxb TP.HCM. cũ”, Nam Phong, số 193.<br />
<br />
13. Thạch Lam (1935), “Thơ mới”, Phong 28. Hoài Thanh, Hoài Chân (1942), Thi nhân<br />
hóa, số 142, 25-3-1935. Việt Nam, Nguyễn Đức Phiên xuất bản.<br />
<br />
14. Thanh Lãng (1973), Phê bình văn học thế hệ 29. Thanh Việt Thanh, Thiện Mộc Lan<br />
1932, Phong trào văn hóa xuất bản, Sài Gòn. (1999), Nữ sĩ Nguyễn Thị Manh Manh,<br />
Nxb Văn nghệ TP. HCM.<br />
15. Thanh Lãng (1995), 13 năm tranh luận<br />
văn học, tập 2, Nxb Văn nghệ, Hội nghiên 30. Nguyễn Q. Thắng (1990), Tiến trình văn<br />
cứu và giảng dạy văn học TP.HCM. nghệ miền Nam, Nxb An Giang.<br />
<br />
16. Nguyễn Phước Thị Liên (1998), “Nữ sĩ 31. Nguyễn Thành Thi, Đoàn Lê Giang, Trần<br />
<br />
22<br />
Hữu Tá (2013), Nhìn lại Thơ mới và văn 35. Phạm Việt Tuyền (1965), Văn học miền<br />
xuôi Tự lực văn đoàn, Nxb Thanh niên, Nam, Khai Trí xuất bản, Sài Gòn.<br />
TP. HCM. 36. Ngô Lãng Vân (1972), Nữ thi sĩ Việt Nam,<br />
32. Nguyễn Ngọc Thiện (2005), Một cái triệu Sống mới xuất bản, Sài Gòn.<br />
hay: Tranh luận văn nghệ ở nước ta nửa 37. Nguyễn Vỹ (1994), Văn thi sĩ tiền chiến,<br />
đầu thế kỷ XX (tập 1, 2), Nxb Lao động, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.<br />
Hà Nội. 38. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2001), “Văn<br />
33. Anh Thơ (2001), “Các nhà thơ nữ trước học hiện đại Việt Nam, bước khởi đầu<br />
Cách mạng tháng 8”, Tạp chí Văn học, số quan trọng ở Sài Gòn, Nam Bộ”, Tạp chí<br />
7-2001. Văn học, số 3-2001.<br />
34. Minh Trí (1998), “Nữ sĩ Manh Manh,<br />
tiếng hót lạ trong làng báo Sài Gòn”, Phụ<br />
nữ TP.HCM, số 6-1998.<br />
<br />
<br />
Ngày nhận bài: 25/02/2016 Biên tập xong: 15/03/2016 Duyệt đăng: 20/03/2016<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
23<br />
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn