intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thơ tượng trưng Pháp: Đặc điểm và ảnh hưởng đối với phong trào thơ mới ở Việt Nam

Chia sẻ: ViKakashi2711 ViKakashi2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

174
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việc nghiên cứu trường phái thơ tượng trưng Pháp và những ảnh hưởng đối với thơ ca Việt Nam hiện đại những năm đầu thế kỷ XX giúp người học hai ngôn ngữ, hai nền văn hóa có cái nhìn tổng quan về thơ tượng trưng, về sự giao thoa ngôn ngữ-văn hóa Việt Nam và Pháp trong một khúc ngoặt của dòng chảy lịch sử.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thơ tượng trưng Pháp: Đặc điểm và ảnh hưởng đối với phong trào thơ mới ở Việt Nam

v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> THƠ TƯỢNG TRƯNG PHÁP:<br /> ĐẶC ĐIỂM VÀ ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI<br /> PHONG TRÀO THƠ MỚI Ở VIỆT NAM<br /> ThS. NGUYỄN THỊ THU HÒA1<br /> Học viện Khoa học Quân sự ✉ nguyenthuhoa_78@yahoo.com<br /> 1<br /> <br /> Ngày nhận: 07/11/2016; Ngày hoàn thiện: 28/11/2016; Ngày duyệt đăng: 30/11/2016<br /> Phản biện khoa học: PGS. TS. NGUYỄN LÂN TRUNG, NGUYỄN THỊ BÌNH<br /> <br /> <br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Thơ tượng trưng là một trường phái thơ hiện đại ra đời đầu tiên ở Pháp năm 1886. Các nhà thơ<br /> tượng trưng đề cao quan niệm tương giao các giác quan, cảm nhận thế giới bằng trực giác, thiên<br /> về dùng biểu tượng, ẩn dụ để gợi cảm xúc chứ không mô tả cụ thể. Thơ tượng trưng là sự sáng tạo<br /> về ngôn từ, mang đậm tính nhạc và luôn chứa đựng những yếu tố huyền bí về một thế giới vô hình.<br /> Tư tưởng và phong cách của các nhà thơ tượng trưng Pháp đã thổi một luồng gió mới cho phong<br /> trào Thơ Mới ở Việt Nam. Việc nghiên cứu trường phái thơ tượng trưng Pháp và những ảnh hưởng<br /> đối với thơ ca Việt Nam hiện đại những năm đầu thế kỷ XX giúp người học hai ngôn ngữ, hai nền<br /> văn hóa có cái nhìn tổng quan về thơ tượng trưng, về sự giao thoa ngôn ngữ-văn hóa Việt Nam và<br /> Pháp trong một khúc ngoặt của dòng chảy lịch sử.<br /> Từ khóa: chủ nghĩa tượng trưng, thơ tượng trưng Pháp.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> C<br /> hủ nghĩa tượng trưng (Symbolisme) là một 1. NGUYÊN TẮC MỸ HỌC TƯỢNG TRƯNG<br /> trào lưu nghệ thuật, một quan điểm triết học-<br /> mỹ học xuất hiện vào cuối thế kỉ XIX, đầu Mỹ học tượng trưng quan niệm giữa vũ trụ và con<br /> thế kỉ XX. Ở Pháp, ngày 18 tháng 9 năm 1886, Jean người có một mối tương giao bí ẩn: tương giao về ý<br /> Moréas cho đăng trên tờ báo Figaro bài viết có tựa đề niệm, về cảm giác, về không gian, về màu sắc, về mùi<br /> “Symbolisme” (Chủ nghĩa tượng trưng) được coi như vị... Với quan niệm tâm linh về thế giới (conception<br /> bản tuyên ngôn tượng trưng (Manifeste symboliste); spirituelle du monde), các nhà thơ theo chủ nghĩa<br /> trong đó Moréas đề xuất một quan niệm thi ca mới tượng trưng cho rằng thế giới hữu hình chỉ là hình<br /> khởi nguồn từ phái Thi Sơn (Parnasse) và đoạn tuyệt ảnh, là cái bóng, là tượng trưng cho một thế giới<br /> với triết lý khoa học, vật chất của chủ nghĩa tự nhiên vô hình huyền bí. Nếu như chủ nghĩa lãng mạn<br /> (Naturalisme) lúc bấy giờ. Những đại diện tiêu biểu (Romantisme) giao cảm với thiên nhiên chủ yếu bằng<br /> cho thơ tượng trưng Pháp là Charles Beaudelaire trực cảm (perception directe) qua cách miêu tả cụ thể<br /> (1821-1867), Arthur Rimbaud (1855-1891), Paul bằng hình ảnh thì thơ tượng trưng gợi lên mối tương<br /> Verlaine (1844-1896), Guillaume Apollinaire (1880- hợp, tương giao (analogie, correspondance) giữa con<br /> 1918), Paul Valéry (1871-1945) và Stéphane Mallarmé người và vũ trụ thông qua các biểu tượng được cảm<br /> (1842-1898). nhận bằng trực giác (intuition).<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 48 Số 4 - 11/2016<br /> VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br /> <br /> <br /> <br /> Trong bài Tương hợp (Correspondances) in trong tập nga, cảm xúc giả tạo, mô tả chủ quan (ennemie de<br /> thơ Hoa khổ đau (Les fleurs du Mal, 1857), Charles l’enseignement, la déclamation, la fausse sensibilité, la<br /> Beaudelaire, người đi tiên phong cho trường phái thơ description objective), nghĩa là thơ phải gợi chứ không<br /> tượng trưng Pháp đã thể hiện rất rõ quan điểm mỹ vẽ các đường nét, hình thể.<br /> học của mình qua những vần thơ đầy biểu tượng:<br /> Bàn về vấn đề này, chủ soái của thơ tượng trưng Pháp,<br /> “La Nature est un temple où de vivants piliers Stéphane Mallarmé, đã chỉ rõ: Thơ không phải là vẽ<br /> Laissent parfois sortir de confuses paroles: một sự vật mà vẽ hiệu ứng do sự vật đó tạo ra (Peindre<br /> L’homme y passe à travers des forêts de symboles non une chose mais l’effet qu’elle produit).<br /> Qui l’observent avec des regards familiers.”<br /> Trong một tuyên ngôn khác, nhà thơ lý giải một cách<br /> Rõ ràng yếu tố thần bí của vũ trụ, thiên nhiên cụ thể hơn: Gọi tên một vật, tức là làm giảm đi ¾ niềm<br /> (Nature) được hình tượng hóa qua hình ảnh ngôi hạnh phúc được khám phá dần dần một bài thơ: Gợi<br /> đền (temple) với những cây cột sống (vivants piliers) ra nó mới thực sự là lý tưởng. Đó chính là việc sử dụng<br /> tựa như những cây lớn trong khu rừng biểu tượng nhuần nhuyễn những bí ẩn, những biểu tượng: gợi<br /> (forêts des symboles) nơi con người (homme) phải dần dần một vật để diễn đạt tâm trạng hoặc ngược lại<br /> băng qua. Con người được nói đến ở đây ngầm hiểu chọn một vật, giải mã nó để diễn đạt một tâm trạng.<br /> là nhà thơ; hình ảnh con người vượt qua những khu (Nommer un objet, c’est supprimer les trois quarts de la<br /> rừng để đến ngôi đền là hình ảnh ẩn dụ về hành jouissance du poème qui est faite du bonheur de deviner<br /> trình cảm nhận bằng trực giác, hành trình nhà thơ peu à peu: le suggérer, voilà le rêve. C’est le parfait<br /> đi tìm cái bí ẩn của thế giới vô hình-thế giới đích usage de ce mystère qui constitue le symbole: évoquer<br /> thực. Nhà thơ quan niệm biểu tượng (symboles) tựa petit à petit un objet pour montrer un état d’âme, ou,<br /> như những lời nói không rõ ràng (confuses paroles), inversement, choisir un objet et en dégager un état<br /> là những dấu hiệu cụ thể biểu đạt một ý nghĩa trừu d’âme, par une série de déchiffrements.)<br /> tượng, phản ánh thế giới siêu hình huyền bí, nơi mọi<br /> thứ hòa quyện thành một thực thể thống nhất (une Theo đó, thơ tượng trưng không cần hình tượng rõ nét<br /> ténébreuse et profonde unité) mà ở đó mùi hương, và phải gắn chặt với âm nhạc. Mỗi bài thơ là một bản<br /> màu sắc và âm thanh hòa hợp với nhau. (Les parfums, hòa âm huyền ảo, mỗi lời thơ là một điệu nhạc, mỗi<br /> les couleurs et les sons se répondent.) từ trong thơ phải gắn liền với một nốt nhạc. Về điểm<br /> này, trong bài thơ Nghệ thuật thi ca (Art poétique),<br /> 2. QUAN ĐIỂM THƠ CA Paul Verlaine đã khẳng định âm nhạc là nghệ thuật<br /> cao siêu nhất vượt trên tất cả: “De la musique avant<br /> Xuất phát từ quan điểm mỹ học nói trên, các nhà thơ toute chose”. Âm nhạc chắp cánh cho thơ bay cao (Que<br /> tượng trưng rất chú trọng đến quan niệm tương ứng ton vers soit la chose envolée), phiêu du trong làn gió<br /> các giác quan. Với Paul Verlaine, thơ là sự dao động run rẩy sớm mai (Que ton vers soit la bonne aventure.<br /> kéo dài giữa âm thanh và ý nghĩa (La poésie, cette Eparse au vent crispé du matin). Âm nhạc thổi tâm hồn<br /> hésitation prolongée entre le son et le sens). vươn tới những khung trời lạ, những tình yêu mới mẻ<br /> (Qu’on sent qui fuit d’une âme en allée. Vers d’autres<br /> Rimbaud lại cho rằng, người nghệ sĩ phải đến với cieux à d’autres amours.) Và những gì đọng lại chính là<br /> thơ ca bằng con đường thấu thị của một kẻ có thiên văn học, là thi ca (Et tout le reste est littérature.)<br /> nhãn: Thi sĩ phải làm cho mình thành người có thiên<br /> nhãn bằng sự rối loạn lâu dài, rộng khắp và có sự suy 3. MỘT SỐ NÉT ĐẶC TRƯNG VỀ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT<br /> tính tất cả các giác quan (Le poète se fait voyant par<br /> un long, immense et raisonné dérèglement de tous 3.1. Về nội dung<br /> les sens), bởi lẽ các giác quan gắn bó ta với thực tại,<br /> trở thành tấm màn chắn ngăn ta chẳng thấy được gì Chủ đề yêu thích của các nhà thơ tượng trưng là sự<br /> xa hơn… chết chóc, sự huyền bí, mờ ảo, là nỗi buồn, là những<br /> giấc mộng, những cảnh sắc phản chiếu góc khuất<br /> Các nhà thơ tượng trưng Pháp coi thơ như một thứ tâm hồn. Điểm này được thể hiện tương đối rõ ngay<br /> siêu cảm giác, không giải thích được. Thơ tượng trong tiêu đề các tuyển tập thơ, các bài thơ tượng<br /> trưng là kẻ thù của các hình thức giáo khoa, ngâm trưng. Đó là những thi phẩm trong Hoa khổ đau (Les<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 4 - 11/2016 49<br /> v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br /> <br /> <br /> fleurs du Mal) của Charles Beaudelaire: Ái tình và sọ hommes d’équipage) và những chú chim hải âu (des<br /> người (L’amour et le crâne), Thuốc độc (Le poison), albatros) - vua của biển cả (ces rois de l’azur) với đôi<br /> Rượu của kẻ sát nhân (Le vin de l’assassin), Cái chết cánh rộng màu trắng (leurs grandes ailes blanches)…<br /> của tình nhân (La mort des amants), Cái chết của nghệ để rồi đến khổ thơ cuối, tác giả đột ngột chuyển<br /> sỹ (La mort des artistes), Cái chết của người nghèo (La hướng nói về Thi sĩ (Le Poète):<br /> mort des pauvres), Người chết vui vẻ (Le mort joyeux),<br /> Chiều hoàng hôn (Le crépuscule du soir), Khúc chiều “Le Poète est semblable au prince des nuées<br /> tà (Harmonie du soir), Bóng tối (Les ténèbres), Nỗi Qui hante la tempête et se rit de l’archer;<br /> buồn của mặt trăng (Tristesses de la lune), Sương mù Exilé sur le sol au milieu des huées,<br /> và mưa (Brumes et pluies)... Đó là Một mùa ở địa ngục Ses ailes de géant l’empêchent de marcher.”<br /> (Une saison en Enfer), Vũ điệu của những người bị treo<br /> cổ (Bal des pendus), Người ngủ trong thung lũng (Le Vậy ra chim hải âu chỉ là biểu tượng, nói cách khác<br /> dormeur du val), Giấc mộng nghèo (Le pauvre songe) là hình ảnh tượng trưng cho Thi sĩ. “Thi sĩ giống vua<br /> của Arthur Rimbaud. Đó là Cái chết (La mort), Đào ngàn mây gió. Khoái phong ba, cung nỏ xá chi. Lưu đầy<br /> huyệt (L’enterrement), Mưa trong tim (Il pleure dans giữa tiếng cười chê. Mang đôi cánh rộng khó bề bước đi”<br /> (Phạm Nguyên Phẩm). Thi sĩ - người được các nghệ<br /> mon coeur), Giấc mơ quen thuộc (Mon rêve familier),<br /> sĩ theo chủ nghĩa tượng trưng coi là nắm giữ quyền<br /> Thu ca (Chanson d’automne), Ánh trăng (Clair de<br /> lực duy nhất để giải mã thế giới vô hình - lại trở nên<br /> lune) của Paul Verlaine; là Mộ phần (Tombeau), Nỗi<br /> kẻ tội đày cô độc (exilé sur le sol au milieu des huées)<br /> kinh hoàng (Angoisse), Lâu đài hi vọng (Le château de<br /> trong con mắt người đời. Sự cô đơn, nỗi khổ đau của<br /> l’espérance), Giấc mơ cổ đại (Rêve antique), Hạ buồn<br /> Thi sĩ được gợi lên qua hình ảnh những chú chim hải<br /> (Tristesse d’été) của Stéphane Mallarmé…<br /> âu bị đám thủy thủ hành hạ, trêu chọc làm trò tiêu<br /> khiển, mua vui: “Người dùng tẩu gõ chim chơi. Kẻ thời<br /> Soi vào hoàn cảnh lịch sử của nước Pháp thế kỷ XIX,<br /> bắt chước chim trời què chân.” (Phạm Nguyên Phẩm)<br /> chúng ta có thể lý giải tại sao các nhà thơ tượng<br /> (L’un agace son bec avec un brûle-gueule. L’autre mime,<br /> trưng Pháp lúc bấy giờ lại mang tâm trạng buồn bã,<br /> en boîtant, l’infirme qui volait !)<br /> chán chường, tuyệt vọng vào thơ ca như vậy. Bất<br /> bình, hoang mang trước một xã hội đầy rẫy những Một ví dụ khác minh chứng cho nghệ thuật sử dụng<br /> biến động, nhà thơ nhiều lúc muốn chối bỏ thực tại, biểu tượng, ẩn dụ, uyển ngữ tài tình của các nhà thơ<br /> có lúc muốn tìm đến cái chết, có khi lại tìm về một tượng trưng Pháp: Bài thơ Người ngủ trong thung lũng<br /> quá khứ huy hoàng hoặc bay đến thế giới tương lai (Le dormeur du val) của Arthur Rimbaud.<br /> mộng tưởng.<br /> Mở đầu bài thơ, tác giả vẽ cảnh một thung lũng xanh<br /> 3.2. Về nghệ thuật rờn, nơi có suối hát ca, cỏ mọc đua chen, nơi lấp lánh<br /> những tia nắng bạc rọi xuống từ đỉnh núi cao vót:<br /> 3.2.1. Sử dụng biểu tượng (symbole), hình ảnh so sánh<br /> (comparaison), ẩn dụ (métaphore) “C’est un trou de verdure où chante une rivière,<br /> Accrochant follement aux herbes des haillons<br /> Như trên chúng tôi đã trình bày, thơ tượng trưng đề D’argent ; où le soleil, de la montagne fière,<br /> cao tính bí ẩn, huyền diệu của thi ca. Để gợi lên thế Luit : c’est un petit val qui mousse de rayons.”<br /> giới vô hình, các nhà thơ tượng trưng thường sử dụng<br /> những biểu tượng, hình ảnh so sánh, ẩn dụ nhằm Khổ thơ thứ hai đi vào cận cảnh một người lính trẻ<br /> biểu đạt một cách gián tiếp, ngầm ẩn thông điệp cần đang ngủ say sưa trên thảm cỏ, gối đầu trần lên đám<br /> truyền tải cho độc giả. Điểm này hoàn toàn khác với cải xanh, làn da tái nhợt dưới ánh nắng mặt trời:<br /> lối miêu tả và biểu lộ tình cảm trực tiếp của chủ nghĩa<br /> lãng mạn. Chúng ta hãy cùng phân tích bài thơ Chim “Un soldat jeune, bouche ouverte, tête nue,<br /> hải âu (L’albatros) của Charles Beaudelaire để hiểu Et la nuque baignant dans le frais cresson bleu,<br /> thêm về đặc điểm này. Dort ; il est étendu dans l’herbe, sous la nue,<br /> Pâle dans son lit vert où la lumière pleut.”<br /> Ba khổ thơ đầu vẽ ra một cảnh đại dương mênh mông<br /> qua hình ảnh con tàu (navire), những vực sâu chết Những khổ thơ kế tiếp vẫn miêu tả người lính ấy<br /> người (les gouffres amers), những người thủy thủ (les nhưng nhấn vào những dấu hiệu bất bình thường: nụ<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 50 Số 4 - 11/2016<br /> VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br /> <br /> <br /> <br /> cười như đứa trẻ bị bệnh (Souriant comme; Sourirait bởi e câm: pluie, s’ennuie, pluie/peine, haine, peine).<br /> un enfant malade), cái lạnh của người lính giữa ngày Chính sự lặp lại của các âm, các vần, đặc biệt là âm<br /> nắng rực (Nature, berce-le chaudement: il a froid), cánh [r] tràn ngập đã tạo nên chất nhạc cho bài thơ, êm<br /> mũi bất động (Les parfums ne font pas frissonner sa ái, du dương, đượm buồn man mác. Cái Tôi trữ tình<br /> narine). Bài thơ khép lại với hình ảnh hai lỗ màu đỏ của nhà thơ giao cảm với mưa theo kiểu “Người buồn<br /> trên ngực phải của chàng trai (Tranquille. Il a deux cảnh có vui đâu bao giờ.” Bài thơ có thể ví như một sự<br /> trous rouges au côté droit.), hé lộ một sự thật đau hòa quyện giữa mưa ngoài đời và mưa trong lòng tác<br /> lòng: Người lính trẻ đã hi sinh. Nhà thơ không dùng giả. Mỗi từ ngân lên như một nốt nhạc hòa thành một<br /> những từ như chết chóc (mourir), máu (sang) để nói khúc mưa buồn. Cũng dễ hiểu tại sao bài thơ lại được<br /> về sự hi sinh của người lính, mà sử dụng uyển ngữ Christophe Bourdoiseau giữ nguyên vẹn phần lời và<br /> “người ngủ” (dormeur), “ngủ” (dormir), “ngủ trưa” (faire phổ nhạc thành bài hát cùng tên.<br /> un somme), kết hợp những dấu hiệu gợi mở (signes<br /> suggestifs ou révélateurs) cùng hình ảnh ẩn dụ “deux 3.2.3. Sự sáng tạo về ngôn từ<br /> trous rouges au côté droit” để chỉ hai vết thương chảy<br /> máu trên ngực chàng trai. Cái tài của Rimbaud là ở Một điểm nổi bật khác của thơ tượng trưng Pháp là sự<br /> đó, chỉ gợi chứ không nói thẳng ra, làm cho người sáng tạo về ngôn từ, trong đó phải kể đến Stéphane<br /> đọc phải khám phá; hiệu ứng của câu trả lời ở cuối Mallarmé, người được coi là thần tượng của trường<br /> bài thơ nhờ thế càng được nâng lên. Bài thơ thực chất phái Tượng trưng. Mallarmé thật sự đã thay đổi quan<br /> là một bản cáo trạng chiến tranh dù không mảy may niệm thơ ca, khai phóng ngôn ngữ. Theo ông, thơ ca là<br /> đả động đến những từ chiến tranh, đổ máu, hi sinh, tôn giáo, là ngôn ngữ tượng trưng cho cuộc đời. Ông<br /> chết chóc như lẽ thường. Nỗi đau, sự tàn phá mà chiến tìm kiếm một thứ ngôn ngữ toàn diện, mới mẻ, xa lạ<br /> tranh gây ra được khắc họa bằng sự đối lập đầy ẩn ý với ngôn ngữ thông thường, tựa như bùa chú, cho<br /> qua hình ảnh người lính trẻ tuổi đời phơi phới lại phải phép diễn tả điều cốt lõi.<br /> từ giã cuộc sống tươi đẹp (được ngầm ví với thung<br /> lũng xanh non ngập tràn ánh nắng và sự sống); qua Để minh họa cho thứ ngôn ngữ thần thánh đó, khi thì<br /> hiệu ứng sắc màu (màu bạc của nắng - argent, màu Mallarmé chọn cách chơi vần độc, vần lạ kiểu như trong<br /> xanh của cỏ cây - vert, màu xanh tái của làn da - pâle, bài Móng vuốt trong sạch (Ses purs ongles…): onyx,<br /> màu đỏ nhức nhối của vết thương - rouge). Thông Phénix, ptyx, Styx, nixe, fixe, lampadophore, amphore,<br /> điệp tố cáo chiến tranh không vì thế mà mờ nhạt, trái sonore, s’horore, or, décor, encore, septuor, nhằm tạo<br /> lại còn khắc sâu trong tâm trí người đọc bởi cái kết nên một không gian thần bí với đuốc, phượng hoàng,<br /> đau thương, bất ngờ. vò cổ, vàng, mã não, thủy thần…; lúc phá cách về ngữ<br /> pháp bằng cách ngắt tưởng chừng như vô lý chủ ngữ<br /> 3.2.2. Tính nhạc (Musicalité) và động từ của câu (Quel sépulcral naufrage, tu/Le sais,<br /> écume, mais y baves) trong bài thơ Trên đám mây trĩu<br /> Cùng với việc dùng biểu tượng, ẩn dụ để gợi tâm nặng, em… (À la nue accablante, tu…); có khi lại dựa vào<br /> trạng, gợi thông điệp, các nhà thơ tượng trưng mặc những khoảng trống tạo hình từ việc trình bày thả lỏng<br /> dù rất chuộng thể thơ tự do song cũng đặc biệt chú theo kiểu ziczac mô phỏng nội dung như trong bài thơ<br /> ý tới vần (rime) và nhịp (rythme) tạo cho thơ mang May rủi (Un coup de dés jamais n’abolira le Hasard)…<br /> đậm tính nhạc.<br /> Sự sáng tạo về ngôn từ ở các nhà thơ tượng trưng Pháp<br /> Hãy cùng đến với bài thơ Mưa trong tim (Il pleure dans còn cho độc giả được thưởng thức những hình ảnh<br /> mon coeur) của Paul Verlaine để cảm nhận những nốt đẹp và mới lạ. Cùng là mùi hương nhưng tùy theo tâm<br /> nhạc ấy. Nhịp thơ biến đổi uyển chuyển từ 3/3 sang trạng mà được cảm nhận khác nhau. Nếu như trong<br /> 2/4, tựa như tiếng mưa rơi tí tách: “Ô bruit doux de la bài Tương hợp (Correspondances), Charles Beaudelaire<br /> pluie. Par terre et sur les toits!” Lối gieo vần cũng rất gợi lên những mùi hương mát như da thịt trẻ con, ngọt<br /> lạ, không phải theo kiểu đan chéo (rimes croisées - ngào như tiếng sáo, xanh mượt như cỏ non: “II est des<br /> ABAB) hay bao bọc (rimes embrassées - ABBA) thường parfums frais comme des chairs d’enfants,/ Doux comme<br /> gặp mà gieo ba lần một vần trong một khổ thơ bốn les hautbois, verts comme les prairies,” thì trong Khúc<br /> câu (ABAA); khổ thơ thứ nhất và thứ ba gieo rime chiều tà (Harmonie du soir), nhà thơ lại tả hương hoa<br /> masculine (coeur, langueur, coeur/raison, trahison, như hương trầm qua hình ảnh ví von hoa nở như lư trầm<br /> raison), hai khổ còn lại gieo rime féminine (kết thúc ngút khói hương: “Chaque fleur s’évapore ainsi qu’un<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 4 - 11/2016 51<br /> v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br /> <br /> <br /> encensoir ;”. Cũng trong Khúc chiều tà, Beaudelaire đã hình);  Nàng bước tới như sông trăng chảy ngọc; Như<br /> vẽ lên một cảnh hoàng hôn đỏ rực, buồn sâu lắng qua nắng thơm hớp đặc cả nguồn hương (Nàng bước<br /> những hình ảnh so sánh, nhân hóa đầy táo bạo: Tiếng tới);  Có gì uyển chuyển trong da thịt; Nức một đường<br /> dương cầm run rẩy như trái tim sầu não; bầu trời đẹp và thơm một điệu êm (Châu)… Hòa hợp đến độ khó có<br /> buồn như một hương án khổng lồ; mặt trời ngút trong thể tách bạch đâu là hương thơm, màu sắc, âm thanh<br /> biển máu đặc quánh. bởi tất cả đã tạo thành một khối, dệt nên những hình<br /> ảnh, điệp ngữ, liên tưởng trùng phức đầy ám gợi và<br /> “Le violon frémit comme un coeur qu’on afflige, mê hoặc như trong Mộng cầm ca: “Trăng gây vàng,<br /> Un coeur tendre, qui hait le néant vaste et noir! vàng gây lên sắc trắng/ Của gương hồ im lặng tợ bài<br /> Le ciel est triste et beau comme un grand reposoir; thơ/ Chân nhịp nhàng, lòng nghe hương nặng nặng/<br /> Le soleil s’est noyé dans son sang qui se fige.” Đây bài thơ không tiếng của đêm tơ/ Trăng gây vàng,<br /> vàng gây lên sắc trắng/ Của hồn thu đi lạc ở trong mơ.”<br /> Với những nét đặc trưng về nội dung và nghệ thuật độc<br /> đáo nêu trên, thơ tượng trưng đã thổi luồng gió mới vào Thế giới được gợi ra trong Thơ Mới là một thế giới bí<br /> thi đàn Pháp, góp phần tạo nên cuộc cách mạng trong ẩn, huyền diệu. Thế giới của âm nhạc, của màu sắc,<br /> văn học Pháp những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. của mùi hương. Không phải vô cớ mà Thơ Mới viết<br /> nhiều về đề tài âm nhạc như vậy. Bích Khê có tuyển<br /> 4. ẢNH HƯỞNG CỦA THƠ TƯỢNG TRƯNG PHÁP tập Nhạc và Lệ với Mộng cầm ca, Tỳ bà, Nhạc, Thi vị…<br /> ĐỐI VỚI PHONG TRÀO THƠ MỚI Ở VIỆT NAM THẾ còn Xuân Diệu lại vẽ lên thế giới của thơ và nhạc với<br /> KỶ XX Nhị hồ, Nguyệt cầm, Huyền diệu:<br /> <br /> Đầu thế kỷ XX, văn học Pháp du nhập vào Việt Nam với “Hãy tự buông cho khúc nhạc hường <br /> một khối lượng tác phẩm dịch tương đối đồ sộ. Các Dẫn vào thế giới của Du Dương <br /> nhà văn, nhà thơ lớn thời kì này phần lớn được đào Ngừng hơi thở lại, xem trong ấy <br /> tạo từ các trường Pháp-Việt; một số du học từ Pháp Hiển hiện hoa và phảng phất hương...”<br /> trở về như Vũ Đình Liên, Hoàng Ngọc Phách, Chế Lan<br /> Viên, Khái Hưng, Nhất Linh, Nguyễn Mạnh Tường... (Huyền diệu - Xuân Diệu)<br /> Cùng với những bài thơ ngụ ngôn của La Fontaine,<br /> những vở kịch của Molière, tiểu thuyết của Alexandre Trong cái thế giới ấy, Thi sĩ, bằng trực giác tinh tế của<br /> Dumas, Victor Hugo, Honoré de Balzac…, những thi mình cảm nhận đến tận cùng sự giao hòa của vũ trụ,<br /> phẩm nổi tiếng của các nhà thơ lãng mạn và tượng của vạn vật để rồi đôi lúc lại thấy cô đơn, lạc lõng giữa<br /> trưng Pháp cũng theo làn sóng tràn vào Việt Nam, tạo cuộc đời. Về điểm này, xin được trích lời đề tựa của<br /> nên một sự khởi sắc cho phong trào Thơ Mới ở nước ta. Chế Lan Viên cho tập thơ Điêu tàn của ông: “Hàn Mặc<br /> Nếu như thơ Thế Lữ chịu ảnh hưởng của trường phái Tử nói: Làm thơ tức là điên. Tôi thêm: Làm thơ là sự phi<br /> lãng mạn Pháp (Chateaubriand, Lamartine, Musset) thường. Thi sĩ không phải là Người. Nó là Người Mơ,<br /> thì nhiều nhà thơ như Xuân Diệu (1916-1985), Huy Người Say, Người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tỉnh,<br /> Cận (1919-2005), Chế Lan Viên (1920-1989), Hàn Mặc là Yêu. Nó thoát Hiện Tại. Nó xối trộn Dĩ Vãng. Nó ôm<br /> Tử (1912-1940), Bích Khê (1916-1946) ở các mức độ trùm Tương Lai.” Chúng ta có thể thấy tuy sống cách<br /> đậm nhạt khác nhau đều chịu ảnh hưởng của trường xa nhau một thế kỉ và thuộc hai dân tộc khác nhau<br /> phái tượng trưng. nhưng trên bối cảnh xã hội có phần tương đồng nên<br /> các nhà thơ tượng trưng Pháp và các nhà thơ mới Việt<br /> 4.1. Ảnh hưởng về quan điểm mỹ học, thi ca và chủ Nam mang tâm trạng giống nhau. Đó là tâm trạng<br /> đề sáng tác của những người trí thức tiểu tư sản trước những biến<br /> đổi lớn lao của xã hội, cảm thấy mình bất lực chán<br /> Quan niệm mỹ học và thi ca của các nhà thơ tượng nản trước thời cuộc. Dễ dàng thấy sắc màu thơ tượng<br /> trưng Pháp in dấu rất rõ trong các sáng tác của các trưng Pháp trong chủ đề sáng tác của Thơ Mới: Chế<br /> nhà thơ mới Việt Nam. Dấu ấn về sự tương giao, Lan Viên với tập thơ Điêu tàn ngập tràn Trăng, Mộng,<br /> tương hợp của vạn vật trong vũ trụ, của các giác quan Cái sọ người, Mồ không, Những nấm mồ, Xương khô,<br /> trong Thơ Mới khá rõ nét… Đó là sự hòa hợp giữa các Đám ma, Đầu rơi, Xương vỡ máu trào, Hồn trôi, Bóng<br /> loại cảm giác trong thơ của Bích Khê: Nàng hé môi ra. tối, Đêm tàn, Đêm xuân sầu, Mơ trăng, Tắm trăng, Ngủ<br /> Bay điệu nhạc; Mát như xuân mà ngọt tựa hương (Hiện trong sao…; Hàn Mặc Tử với tập thơ Hương thơm,<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 52 Số 4 - 11/2016<br /> VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br /> <br /> <br /> <br /> Mật đắng, Máu cuồng và hồn điên; Huy Cận với Buồn, chủ nghĩa lãng mạn nhưng một chân kia đã đưa sang<br /> Buồn đêm mưa, Chiều xưa, Chết, Bi ca, Tràng Giang… và gần chạm đến bờ tượng trưng chủ nghĩa một cách có<br /> Xuân Diệu có Buồn trăng, Bến đêm biếc, Chiều, Chiều chủ ý, ngay từ đầu cầm bút.” (Mai Bá Ấn, 2011)<br /> đầu thu, Thu, Đây mùa thu tới, Ý thu, Huyền Diệu, Anh<br /> đã giết em… còn Bích Khê nổi tiếng với tập thơ Tinh Một điểm tương đồng nữa trong thơ tượng trưng<br /> huyết đầy rẫy Sọ người , Nấm mộ, Giờ trút linh hồn, Hiện Pháp và Thơ Mới, đó là tính nhạc. Xin được dẫn bài<br /> hình, Mộng, Xuân tượng trưng, Mơ tiên… Hoàng hoa của Bích Khê làm minh chứng:<br /> <br /> 4.2. Ảnh hưởng trên bình diện nghệ thuật Ở Hoàng hoa, cũng như Tỳ bà, chất nhạc bao trùm<br /> lên toàn bài thơ ba khổ sáu câu, bảy chữ toàn vần<br /> Cùng với sự tiếp thu quan điểm mỹ học của trường bằng. Nhạc tính ở đây còn được Bích Khê “kí âm” bằng<br /> phái tượng trưng, các nhà thơ của phong trào Thơ kiểu lặp ngữ, lặp từ, lặp vần thường thấy trong âm<br /> Mới Việt Nam thiên về sử dụng phép ẩn dụ, gợi nhiều nhạc (“Đây mùa hoàng hoa, mùa hoàng hoa”, rồi “Ngàn<br /> hơn tả. Nếu như ảnh hưởng của thơ tượng trưng khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi”)  hoặc những câu đầy<br /> trong Đây mùa thu tới của Xuân Diệu là sự “thức nhọn âm vang (“Làm mây theo chàng lên yên nhung”, “Non<br /> giác quan” để cảm nhận cái bước chuyển mùa rất cụ yên tên bay ngang muôn đầu”, “Ai xây mồ hoa chôn đời<br /> thể, sinh động với “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang/ tươi”)... Cách ngắt nhịp trong toàn bài thơ cũng góp<br /> Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng. Đây mùa thu tới, phần làm đậm thêm chất nhạc: Lấy nhịp 2/2/3 làm<br /> mùa thu tới./ Với áo mơ phai dệt lá vàng.” thì trong Tỳ “tiết tấu” chủ đạo (chủ âm) ở ngay khúc dạo đầu; xen<br /> bà, Bích Khê lại đi vào phía tiềm ẩn của mùa thu, tiến kẽ một vài tiết tấu lạ nhịp 4/3, 2/2/1/2, 2/5 rồi lại trở về<br /> đến một biểu tượng “vàng” trực giác bằng ý niệm: hợp âm chính theo nguyên tắc của nhạc. Đọc bài thơ<br /> mà ngỡ như đang hát. Muốn hát nhưng đó lại là thơ.<br /> “Ô hay buồn vương cây ngô đồng Ấy chính là thơ tượng trưng.<br /> Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông”.<br /> Cuối cùng, không thể không kể đến những đóng góp<br /> Bức tranh thu ở đây không được vẽ bằng hình ảnh của phong trào Thơ Mới trong việc cách tân thi ca, từ<br /> cụ thể nào mà được gợi lên bằng một khối vàng bao việc đi khai phá những chủ đề mới lạ với một nhãn<br /> trùm lên hết thảy, nhuốm chìm cả “cây ngô đồng” quan mới lạ đến việc giải phóng ngòi bút cho ra đời<br /> trong nỗi “buồn vương”. Đó không phải là nàng thu những tứ thơ cũng không kém phần mới lạ.<br /> với vóc hình cụ thể mà là nàng thu mơ hồ trong ý<br /> niệm: “Thu mênh mông”. Đều chịu ảnh hưởng của  Chịu ảnh hưởng của Mallarmé về cú pháp, với ý thức<br /> cách tân, Bích Khê không thôi tìm tòi và sáng tạo,<br /> chủ nghĩa tượng trưng nhưng thu của Xuân Diệu<br /> đưa ngôn ngữ thơ lại gần hơn những bộ môn nghệ<br /> được cảm nhận bằng trực cảm, nhấn vào sự tương<br /> thuật khác.<br /> hợp của các giác quan còn thu trong thơ Bích Khê là<br /> thu của trực giác, thu trong ý niệm, mơ hồ, huyền ảo.<br /> “Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới<br /> Của lời thơ lóng đẹp. Hạt châu trong<br /> Rồi cùng là tả màu xanh, trong khi Hàn Mặc Tử ví“Vườn<br /> Hạt châu trong ngời nhỏ giọt vô lòng<br /> ai mướt quá, xanh như ngọc” (Đây thôn Vĩ Dạ) hay<br /> Tràn âm hưởng như chiều thu sóng nắng”<br /> Xuân Diệu tả “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá” (Thơ<br /> duyên) thì Bích Khê chỉ gợi lên một màu của trực giác, (Duy Tân)<br /> mang tính biểu tượng trong bài Hoàng hoa:  “màu<br /> lưng chừng trời”, “màu phơi nơi nơi”. Tóm lại là một loại Ngoài kiến trúc là là mỹ thuật: “Hỡi hội họa đến muôn<br /> màu tượng trưng, tinh tế, huyền diệu không thể vẽ đời nức nở.”; là điêu khắc:  “Chữ điêu khắc, tỉa nghệ<br /> lại bằng hội họa. Rõ ràng sắc thái ảnh hưởng của chủ thuật sâu câm - Đầy thẩm mỹ như một pho thần tượng”;<br /> nghĩa tượng trưng ở các nhà thơ mới có những nét là âm nhạc: “Ròng âm nhạc của lòng trai ấp mái”; là vũ<br /> khác biệt trong tương đồng. “Xuân Diệu đứng cả hai đạo: “Múa song song khiêu vũ dưới đêm hồng”; là nhiếp<br /> chân vững vàng ở bờ lãng mạn với tay hái những chùm ảnh: “Đường nhiếp ảnh sắc khua màu”.<br /> tượng trưng, Hàn Mặc Tử thì cả hai chân cũng đứng<br /> vững trên nền của chủ nghĩa lãng mạn, nhưng hai chân Cũng trong Duy tân, Bích Khê đã tạo sự phá cách về<br /> cứ nhún nhảy […] một cách điệu nghệ với tượng trưng, lối trình bày thơ với những khoảng trống phảng phất<br /> siêu thực […] Còn Bích Khê thì một chân trụ vững ở bờ chất Mallarmé trong bài thơ May rủi.<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 4 - 11/2016 53<br /> v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br /> <br /> <br /> “Mộng? “Hồn tôi như đỉnh hương<br /> Thiên tài? Bốc lên mình thánh giá!<br /> Trên hỗn độn khỏa thân. Ý xuân mát đến xương<br /> Đẹp tỷ mỷ, hỡi rung động truyền thần.” Ngậm tuyết phun lã chã.”<br /> <br /> Sự sáng tạo về ngôn từ, cú pháp của các nhà thơ mới Tiếp thu quan niệm mới mẻ của Beaudelaire cho rằng<br /> mang dấu ấn thơ tượng trưng Pháp khá rõ nét. Ở cái đẹp không ở trong một thế giới riêng mà nằm ngay<br /> Xuân Diệu, đó là việc Việt hóa những cấu trúc, những trong những điều tầm thường nhất, thậm chí ngay<br /> cách diễn đạt phương Tây “plus d’un/une” (hơn một), trong cái Ác, cái Xấu, Bích Khê đã biến Sọ người thành:<br /> “voilà” (này đây), voici (này kia), “c’est” (đó là/đây là):<br /> “Ôi khối mộng của hồn thơ chếnh choáng!<br /> “Hơn một loài hoa đã rụng cành  Ôi buồng xuân hơ hớ cánh đào sương!<br /> Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh” Ôi bình vàng! ôi chén ngọc đầy hương!<br />  Ôi hồ nguyệt đọng nhiều trăng lấp loáng!<br /> (Đây mùa thu tới)  Ôi thần tình! Người chứa một trời thương.”<br /> “Của ong bướm này đây tuần trăng mật;   Người đọc như thả hồn trong thế giới Sọ người của Bích<br /> Này đây hoa của đồng nội xanh rì;  Khê với “khối mộng”, “hồn thơ”, “buồng xuân”, “cánh đào<br /> Này đây lá của cành tơ phơ phất; <br /> sương”, “bình vàng”, “chén ngọc”, “hồ nguyệt”… Tất cả<br /> Của yến anh này đây khúc tình si. <br /> gợi lên bóng dáng của một thế giới thần tiên, đầy “một<br /> Và này đây ánh sáng chớp hàng mi; <br /> trời thương”, xua tan mọi cảm giác sợ hãi về sự vật được<br /> Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;”<br /> miêu tả. Sự “vay mượn” này cũng dễ hiễu khi trong bài<br /> (Vội vàng) thơ Ăn mày, Bích Khê đã gọi tên Charles Baudelaire với<br /> sự ngưỡng vọng và niềm tôn kính sâu xa:<br /> Là người tiếp thu nhuần nhuyễn phép tương giao<br /> của lối thơ tượng trưng Pháp, Xuân Diệu đã phát huy Baudelaire! Người là Vua Thi Sĩ!<br /> triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và Cho xin trụm bao nhiêu mùi thi vị,<br /> mô tả thế giới bằng đầy đủ các giác quan. Những tứ Phả hơi lên, truyền nhiễm thấu trần ai…<br /> thơ lạ ra đời từ đó: “Mùi tháng năm đều rớm vị chia<br /> phôi”, “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”, “Này Sức ảnh hưởng của các nhà thơ tượng trưng Pháp<br /> lắng nghe em khúc nhạc thơm/ Say người như rượu tối cũng đi vào thơ Xuân Diệu trong bài Tình trai:<br /> tân hôn;”,“Ta muốn ôm/ Cả sự sống mới bắt đầu mơn<br /> mởn;/ Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,/ Ta muốn say “Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine<br /> cánh bướm với tình yêu,/ Ta muốn thâu trong một cái Hai chàng thi sĩ choáng hơi men<br /> hôn nhiều/ Và non nước, và cây, và cỏ rạng,/ Cho chếnh Say thơ xa lạ, mê tình bạn<br /> choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng/ Cho no nê Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen.”<br /> thanh sắc của thời tươi;/ - Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn<br /> vào ngươi!” Có thể nói, thơ tượng trưng Pháp là nguồn mạch<br /> quan trọng góp phần làm đổi mới thơ ca Việt Nam<br /> Nhiều tứ thơ của Beaudelaire cũng truyền cảm hứng hiện đại trong những thập niên đầu thế kỷ XX, đặc<br /> cho các nhà thơ mới Việt Nam. Bài Đi giữa đường biệt là phong trào Thơ Mới. Tuy nhiên, TS. Trần Huyền<br /> thơm của Huy Cận chẳng phải đã mượn tứ thơ của Sâm phát hiện: “Mỗi nhà thơ chịu ảnh hưởng của chủ<br /> Beaudelaire đó sao: “Đường trong làng: hoa dại với mùi nghĩa tượng trưng ở mỗi phương diện khác nhau, phù<br /> rơm.../ Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm,/ Lòng hợp với quan điểm thẩm mỹ của mình. Và ngay trong<br /> giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng./ […] Lên bề cao mỗi nhà thơ, tính chất lãng mạn và tượng trưng luôn<br /> hay đi xuống bề sâu?/ Không biết nữa - Có chút gì làm giao thoa cùng nhau. Xuân Diệu tìm thấy ở chủ nghĩa<br /> ngợp/ Trong không khí... hương với màu hòa hợp...” (Les tượng trưng một bản nhạc huyền diệu giữa ánh sáng,<br /> parfums, les couleurs et les sons se répondent.) Hình hương thơm và màu sắc. Vũ Hoàng Chương và Bích Khê<br /> ảnh hoa nở như đỉnh hương của Beaudelaire (Chaque tìm thấy một thế giới âm nhạc mênh mông, hư ảo. Hàn<br /> fleur s’évapore ainsi qu’un encensoir) đã được Bích Khê Mạc Tử tìm trong thế giới vô thức, siêu thực, bí ẩn.” (Trần<br /> vận dụng một cách tài tình trong Xuân tượng trưng: Huyền Sâm, 2002)<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 54 Số 4 - 11/2016<br /> VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br /> <br /> <br /> <br /> Nghiên cứu thơ tượng trưng Pháp, kết hợp đối chiếu 5. DOUMIC R. (1901), Les oeuvres complètes de Paul<br /> với thơ ca Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX không Verlaine, Revue des Deux Mondes, 5è période, tome 1.<br /> chỉ giúp chúng ta hiểu thêm những nét đặc trưng về<br /> nội dung và nghệ thuật của trường phái thơ hiện đại 6. HÀ Văn Lượng, Những ảnh hưởng của văn học<br /> này mà còn thấy được những nét giao thoa về ngôn phương Tây đối với văn học Việt Nam hiện đại, Tạp chí<br /> ngữ, văn hóa của hai quốc gia, hai dân tộc. Sức mạnh Sông Hương số 141 (Tháng 11).<br /> của thi ca có thể làm “mềm” đi những bất đồng, làm<br /> cho những trái tim xích lại gần nhau hơn trên con 7. HOÀNG Nhân (1998), Phác thảo quan hệ Văn học<br /> đường tìm kiếm những giá trị Chân, Thiện, Mỹ./. Pháp với Văn học Việt Nam hiện đại, NXB Mũi Cà Mau.<br /> <br /> Tài liệu tham khảo: 8. LEPAGE M. (1995), Le Symbolisme, Revue bimestrielle<br /> no 372, Broché.<br /> 1. BARTHES R. (1973), Le plaisir du texte, Le Seuil.<br /> 9. MAI Bá Ấn (2011), Bích Khê và chủ nghĩa tượng trưng,<br /> 2. BEAUDELAIRE C. (1857), Les Fleurs du Mal, Auguste PhongDiep.net.<br /> Poulet-Malassis.<br /> 10. NGUYỄN Thanh Mừng (1992), Bích Khê - Tinh hoa<br /> 3. CHRISTOPHE B. (2008), L’édition originale d’Une và Tinh huyết, NXB Hội Nhà văn.<br /> Saison en enfer d’Arthur Rimbaud, Revue d’histoire<br /> litté raire de la France, Vol 108, p.651-665. 11. TRẦNHuyềnSâm(2002),Tiếngnóithơca,NXB Vănhọc.<br /> <br /> 4. DURAND P. (2008), Mallarmé. Du sens des formes au 12. RINCÉ D., LECHERBONNIER B. (1986), Littérature du<br /> sens des formalités, Le Seuil. XIXè textes et documents, Nathan.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> FRENCH SYMBOLIC POETRY: CHARACTERISTICS AND INFLUENCES ON NEW POETRY<br /> MOVEMENT IN VIETNAM<br /> <br /> NGUYEN THI THU HOA<br /> <br /> Abstract: Symbolist poetry represents a modern school of poetry first launched in France in<br /> 1886. Symbolist poet emphasize the correspondence between the senses, perceiving the world<br /> intuitively; prefer using symbols and metaphors to inspire emotions to applying concrete<br /> description. Therefore, symbolist poetry is verbal creativity, rich in music and always contains<br /> mysterious elements of an unseen world. Ideology and style of French symbolists poets has blown<br /> a new wind into the New Poetry Movement in Vietnam. The study of the French symbolist poetry<br /> and her influence on modern Vietnamese poetry in the first years of the twentieth century helps<br /> people who learn two languages, two cultures to have an overview of symbolist poetry, of cross-<br /> culture and cross-language of Vietnam and France in a turning point in the history flow.<br /> <br /> Keywords: Symbolism, Frech symbolic poetry.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 4 - 11/2016 55<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2