Thời kì hội nhập quốc tế - Quan hệ hôn nhân và gia đình ở Việt Nam: Phần 1
lượt xem 37
download
Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong thời kì hội nhập quốc tế: Phần 1 trình bày những vấn đề chung về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài như khái niệm quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, đặc trưng của pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài và các nội dung khác.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thời kì hội nhập quốc tế - Quan hệ hôn nhân và gia đình ở Việt Nam: Phần 1
- TS. NÔNG QUỐC BINH TS. NGUYỄN HỒNG BẮC QUAN HỆ HỒN NHÃN VÀ GIA DÍNH CỒ YẾU TỐ Nlrác NGOÀI ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP ọuốc TẾ NHÀ XUẤT BẢN Tư PHÁP HÀ NÔI - 2006
- LỜI GIỚI THIỆU Với chính sách hội nhập kinh tê quôc tế của Đảng và Nhà nưốc ta, các quan hệ giao lưu quôc tê được mở rộng và phát triển, trong đó có quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tô" nưốc ngoài. Quyền và lợi ích hỢp pháp của các bên trong quan hệ hôn nhân, quan hệ giữa cha, mẹ, con, quan hệ nuôi con nuôi có vếu tô" nước ngoài được xác lập hoặc công nhận theo quy định của pháp luật Việt Nam được tôn trọng và bảo vệ bằng nhiều biện pháp khác nhau trên cơ sở Hiên pháp, pháp luật Việt Nam và các điều ước quôc tê mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập. Cuôn sách “Q uan hệ hôn n h â n và gia đ ỉn h có yếu tô nước ngoài ở Việt N am trong thời kỳ hội nhập quốc íé” của TS. Nông Quốc Bình và TS. Nguyễn Hồng Bắc là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho bạn đọc, các chuyên gia, các nhà nghiên cứu, sinh viên luật học quan tâm tới lĩnh vực này. Xin trân trọng giới thiệu cùng han đoc! Hà Nội, tháng 4 năm 2006 NHÀ XUẤT BÀN Tư PHÁP
- C hương I NHỬNG VẤN ĐỀ CHUNG VỂ QUAN HỆ HÒN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI I. KHÁI NIỆM QUAN HỆ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH có YẾU TÔ NƯỚC NGOÀI 1. Khái niệm quan hệ hôn nhãn Hôn n h ả n là một hiện tượng xã hội đặc biệt, trong đó các bên chủ thể gắn kết vói nhau với mục đích tạo dựng một tê bào của xã hội là gia đình. Khác vối các quan hệ dân sự bình thường, mục đích của các chủ thể trong quan hệ hôn nhân không phải nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thần trong một thòi điểm nhất định mà nhằm xác lập môi quan hệ lâu dài. Thông thường hôn nhân là kết quả của tình yêu và dựa trên sự tự nguyện của các bên chủ thể nhằm xây dựng mối quan hệ bềii vOng. Sự bển vững này tồn tại cùng vỏi cuộc đòi của các chủ thê và được củng cô bằng các quan hệ phái sinh khác như quan hệ của cha mẹ đối vối con cái, ông bà đôi với cháu chắt. Nói cách khác,
- Quan hệ hôn nhân và gia đinh có yếu tố nước ngoài ở VN... hôn nhân là cơ sở tạo nên quan hệ vỢ chồng và quan hệ huyết thống mà tổng hỢp các môi quan hệ này là nền tảng của gia đình. Vì hôn nhân là cơ sở tạo nên gia đình nên vê mặt khoa học. hôn nhân là một khái niệm gắn liền với khái niệm gia đình. Hai khái niệm này cùng song song tồn tại và phát triển theo lịch sử phát triển của xã hội loài người. Trong thời kỳ nguyên thủy, khi con ngưòi còn sông theo bầy đàn. hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên, chưa có phân công lao động xã hội, do đó chưa có hôn nhân và cũng không có gia đình, ơ thòi kỳ này, quan hệ giữa đàn ông và đàn bà là quan hệ tính giao bừa bãi. Thời kỳ quan hệ tính giao này kéo dài hàng trăm nghìn năm và nó kết thúc bằng sự ra đời của chê độ quần hôn'" khi có sự phân công lao động xã hội. Tương ứng với chê độ quần hôn là hình thức gia đình quần hôn. Hình thức này được coi là hình thức gia đình sớm nhất. Nó là kết quả liên kết của nhiều ngưòi đàn ông vỏi nhiều ngưòi đàn bà. Chê độ quần hôn đưỢc hình thành và phát triển qua hai giai đoạn chính và được thế hiện dưói hai hình thức gia đình đó là gia đình huyết tộc và gia đình Pu-na-lu-an (gia đình mà trong đó nhóm các chị em gái lấy nhóm các anh em trai)'-*. Sau giai đoạn này là sự ra đòi và Trường Đại học Luật Hà Nội (1994), Giáo trinh Luật hôn nhân và gia đinh Việt Nam, Hà Nội, tr. 4. Trướng Đại học Luật Hà Nội (1994), Sđd, tr. 4. 8
- Chương I. Những vấn để chung về quan hệ HN&GĐ... phát triển của hình thái hôn nhân đôi ngẫu và hôn nhân một vợ một chồng, tương ứng với chúng là gia đình đốì ngẫu và gia đình có một vỢ một chồng. Có thê nói, nhìn vào các hình thái hôn nhân trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau ta thây sự khác nhau về nội dung của khái niệm hôn nhân. Trước kia, trong thòi kỳ tồn tại hình thức gia đình quần hôn, khái niệm hôn nhân được hiểu là sự liên kết của nhiều người đàn ông vói nhiêu người đàn bà nhàm tạo thành một gia đình. Ngày nay khi chê độ hôn nhân một vỢ một chồng được coi là hình thức hôn nhân tiến bộ thì khái niệm vê hôn nhân cũng thay đổi. Nó được hiểu là sự liên kết giữa nam và nữ đế tạo nên quan hệ vỢ chồng. Khái niệm hòn nhân đã được nhiều tài liệu đê cập đến. Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển - NXB Khoa học xã hội xuất bản năm 1994 thì khái niệm hôn nhân được hiểu là “việc nam nữ chính thức lấy nhau làm ượ chồng". Theo giải thích của Oxford advanced Learner’s Dictionary do Oxford ưniversity Press xuất bản năm 1992 thì '‘hôn nhân là sự liên kết pháp lý giữa một người đàn ông ‘ với một người đàn bà n h ư vỢ chồng". Thoo Từ điển giải thích thuật ngữ lu.ật học của Trường Đại học Luật Hà Nội thì “/lôn nhân là sự liên kết giữa người nam và người nữ dựa trên nguyên tắc tự nguyện, binh đắng theo điều kiện và trinh tự luật định, nhằm
- Quan hệ hôn nhân và gia đinh có yếu tố nước ngoài ở VN... chung sống với nhau suốt đời và xảy dựng gia đinh hạnh phúc và hoà thuận". Th 00 quy định của khoíin 6 và khoan 10 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 thì "Hôn nhàn là quan hệ giữa vỢ và chồng sau khi đã kết hôn". Trong xã hội có giai cấp, hôn nhân và gia đình mang tính giai cấp sâu sắc. Lịch sử đã chứng minh trong mỗi hình thái xã hội có các hình thái hôn nhân và gia đình nhất định. Các hình thái hôn nhân và gia đình này phản ánh bán chất xã hội mà hình thái hôn nhân và gia đình đó đang tồn tại. Một xã hội bình đẳng hay bâ't bình đẳng giữa ngưòi với người sẽ thế hiện ngay trong cuộc sống hôn nhân và gia đình của xả hội đó. Nói cách khác, nhìn vào cuộc sống hôn nhân và gia đình, ta có thế nhận biết được phần lón thực trạng của đời sỗhg xã hội và ngược lại nghiên cứu cuộc sông xã hội có thế thấy được cuộc sông hôn nhân và gia đình, vì hôn nhân và gia đình là hình ảnh của một xã hội được thu nhỏ. Q uan hệ hôn n h à n là quan hệ giữa các chủ thê trong hôn nhân, nó được xác lập từ khi các bên nam nữ chính thức lấy nhau làm vợ chồng và chấm dứt khi các bôn không còn quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật, Có thê nói, việc xác lập và chấm dứt quan hệ hôn nhân trước hết hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các cá nhân 10
- Chương I. Những vấn đề chung về quan hệ HN&GĐ... trong hòn nhân phù hỢp với quy định của pháp luật. Quan hệ hôn nhân là loại quan hệ pháp luật dân sự đặc biệt. Tính chất dân sự và tính chấl clặc biệt trong quan hệ hôii nhâii dược thê hiện như sau: Thứ nhát, tính chất dân sư trong quan hê hôn nhản được biếu hiện ở ba diếni cơ bán: Một là, đôl tượng điêu chỉnh của pháp luật vê hôn nhân giông như đôi tượng điêu chỉnh của pháp luật dân sự. Khi quan hệ hôn nhân đưỢc xác lập thì các quan hệ vê nhân thân (danh dự, nhân phẫm, uy tín...) và quan hệ tài sán
- Quan hệ hôn nhân và gia đỉnh có yếu tố nưdc ngoài ở VN... chồng), Điều 42 (quyền ly hôn)... Thứ hai, tín h dăc biêt trong q u a n hê hôn n h â n được thể hiện ở yếu tô tình cảm của các bên chủ thể. Có thể nói, tình cảm của các bên chủ thể đốì với nhau được coi là cơ sở cơ bản và phổ biến trong việc xác lập quan hệ hôn nhân. Dựa trên yếu tô" tình cảm mà quan hệ hôn nhân tồn tại bền vững, lâu dài, không mang tính chất nhất thòi và không mang tính chất đền bù ngang giá giông như hầu hết các quan hệ dân sự khác. Hơn nữa, trong quá trình thực hiện nghĩa vụ của mình, các chủ thể trong quan hệ hôn nhân không chỉ vì lợi ích của bản thân mà còn vì lợi ích của những người khác trong các quan hệ phái sinh từ quan hệ hôn nhân như quan hệ huyết thống (cha mẹ với con cái) hoặc quan hệ thân thuộc (cha, mẹ, anh, em, họ hàng của các bên vỢ và chồng). Quan hệ hôn nhân là quan hệ được hình thành trên cơ sở của hôn nhân, nó thể hiện sự liên kết giữa các chủ thể trong đòi sốhg hôn nhân. Tuy nhiên, đòi sốhg hôn nhân không phải tự nhiên được hình thành mà nó chỉ được hình thành khi có sự liên kết của các chủ thể với những điều kiện nhất định, đồng thòi đòi sốhg hôn nhân không tồn tại vĩnh viễn mà nó sẽ bị chấm dứt trong những trường hỢp nhất định. Trên cơ sỏ mức độ liên kết giữa các chủ thê trong quan hệ hôn nhân có thể chia quan hệ hôn nhân thành ba giai đoạn: giai đoạn kết hôn, giai đoạn tồn tại quan hệ vỢ chồng 12
- Chương I. Những vấn để chung vé quan hệ HN&GĐ... và giai đoạn chấm dứt quan hệ vợ chồng. G iai đoan kết hôn là giai đoạn xác lập quan hệ vợ chồng trên cơ sở của việc kết hôn; g ia i đoan qu a n hệ ượ chồng là giai đoạn sau khi kết hôn và g ỉa i đoan chấm d ứ t q u a n hệ vợ chồng là giai đoạn thường được đánh dấu bằng sự kiện chết của một bên, hoặc bàng việc ly hôn. Như vậy, quan hệ hôn nhân bao gồm tổng thể ba quan hệ; quan hệ kết hôn, quan hệ vỢ chồng và chấm dứt quan hệ vỢ chồng. 2. Khái niệm gia đinh Gia d in h là hiện tượng xã hội. phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài ngưòi. Hôn nhân là cơ sở của gia đình, gia đình là tê bào của xã hội mà trong đó có sự kết hỢp chặt chẽ, hài hoà lợi ích của mỗi công dân, nhà nưóc và xã hội. C.Mác và Ph.Ảnghen đã chứng minh rằng, cùng vài hôn nhân, gia đình là một phạm trù phát triển theo lịch sử, giữa chê độ kinh tê - xã hội và tổ chức gia đình có mốì liên quan trực tiếp và chặt chẽ. Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và của nhà nước", Ph.Ảnghen đã nhấn mạnh chê độ gia đình trong xă hội phụ thuộc vào quan hệ sở hữu thông trị trong xã hội đó; quá trình chuyến từ hình thái gia đình này lên hình thái gia đình khác cao hơn suy cho cùng được quy định bỏi những thay đổi trong điều kiện vật chất của đòi sống xã hội. Bằng tác phẩm đó, Ph.Ảnghen đã làm thay đôi quan điểm trưóc đây về các hình thái gia đình trong lịch sử. Ph.Ảnghen là 13
- Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nưổc ngoài d VN... ngưòi đầu tiên đă phân tích nguồn gốc gia đình từ giai đoạn thấp nhất của xã hội loài ngưòi, khi con người mói chỉ bắt đầu tách ra khỏi thiên nhiên, chưa sản xuât ra được một thứ sản phẩm nào mà chỉ hái lượm những thức ăn sẵn có của thiên nhiên, vì thê chưa có sự phân công lao động trong xã hội. Trong thòi kỳ này không có hôn nhân, không có gia đình; bộ lạc như là một đơn vị duy nhất không tách ròi của xã hội nguyên thuỷ'". Từ trạng thái nguyên thuỷ đó, bước tiếp theo của lịch sử đã phát triển những hình thái gia đình đầu tiên, gia đình huyết tộc, gia đình punaluan, gia đình đốì ngẫu... gia đình xã hội chủ nghĩa. Như vậv, xã hội loài ngưòi đã trải qua nhiêu hình thái gia đình khác nhau. Gia đình là sản phẩm của xã hội đã phát sinh và phát triển cùng vỏi sự phát triển của xã hội. Các điều kiện kinh tê - xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định là nhân tô" quyết định tính chất và kết cấu của gia đình. Do vậy, gia đình là hình ảnh thu nhỏ của xă hội, là tê bào của xã hội. Gia đình xã hội chủ nghĩa là hình thái gia đình cao nhất trong lịch sử, khác hản vê chất so vói gia đình của các chê độ xã hội trưóc đây. Chê độ xã hội chủ nghĩa quyết định sự xuất hiện và phát triển của gia đình xã hội chủ nghĩa. Quan hệ bình đẩng vê mọi mặt giữa vỢ và chồng trong gia đình xả hội chủ nghĩa phản ấnh mối quan hệ bình đắng giữa nam và nữ trong xã hội Trường đại học Luật Hà Nội (1999), Giáo trình Luật hôn nhân và gia đinh Việt Nam, Nxb. Công an nhàn dân, Hà Nội, tr. 3-4. 14
- Chương Ị. Những vân để chung về quan hệ HN&GĐ... xã hội chủ nghĩa. Khái niệm '"gỉa dinh" đã được đê cập trong các sách nghiên cứu và trong các văn bản pháp luật của Nhà nước ta. Theo Từ điển triết học thì “Gia đinh là một hình thức có tính chất lịch sử của tổ chức đời sông chung của loài người, giữa nam giới và nữ g i ớ i . . Theo xã hội học thì “Gỉa đinh được quan niệm là một nhóm xả hội, hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhản và quan hệ huyết thống"'-'. Cách hiểu vê gia đình của xã hội học đã mở rộng phạm vi chủ thể gia đình hơn quan niệm gia đình của triết học. Nếu gia đình theo cách nhìn nhận của triết học chỉ là quan hệ hôn nhân (tức giữa nam và nừ), thì theo cách nhìn nhận của xã hội học, gia đình còn bao gồm cả quan hệ huyết thông (cha mẹ và con). Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển - NXB Khoa học xã hội xuất bản năm 1994 thì g ia d in h được hiểu là “íập hỢp người cùng sông chung thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và dòng máu, thường gồm có vỢ chồng, cha mẹ và con cái""*. Theo giải thích của Oxford Advanced Learner s Dictionary do Oxford University Press xuất bản năm 1992 Từ điển triết học (1972). Nxb.Sựthật, Hà Nội. tr. 354. Nguyễn Sinh Huy (1999), Xà hội học đại cương. Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội. tr. 70. Từ điển tiếng Việt (1994), Trung tàm từ điển, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.94. 15
- Quan hệ hôn nhân và gia đinh có yếu tô nưâc ngoài ỏ VN... thì "'gia đ ìn h " là nhóm ngưòi bao gồm cha mẹ và con c íi của họ"’. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì “Gỉ’ a đinh là tập hỢp những người cùng chung sống, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân, huyết thông hoặc nuôi dường, có quyền và nghĩa vụ tương ứng với nhau"'^-\ Khái niệm gia đình lần đầu tiên được quy định tại khoản 10 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình nàm 2000: “Gia đinh là tập hỢp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thông hoặc do quan Hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật này". Đây là khái niệm pháp lý đầy đủ nhất về gia đình, là sự tập hỢp những ngưòi gắn bó vói nhau do quan hệ hôn nhân, hu\'ết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, từ đó làm phát sinh nghĩa vụ và quyền giữa họ vối nhau theo quy định của pháp luật vê hôn nhân và gia đình và các quy tắc của đạo đức xã hội biểu hiện qua những phong tục tập quán, truyền thổhg đạo lý của gia đình. Bởi vậy, mỗi thành viên trong gia đình đều gắn bó, cô kết vê quyền và bổn phận của mình với các thành viên khác, không thể tự mình thoát ly khỏi môi trường gia đình, thoát ly khỏi xã hội. Như Oxíord University Press, (1992) Oxhrd Advanced Learner’s Dictionaiy. Trường Đại học Luật Hà Nội, (1999), Từ điển giải thích thu ật ngữ luật học, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 146. 16
- Chương I. Những vấn để chung về quan hệ HN&GĐ... C.Mác đã từng nói, sông trong xã hội con ngưòi không thế tách mình ra khỏi xã hội; tự do của mỗi ngưòi không thể tách khỏi tự do của người khác. Hiện nay, do sự phát triển của các môl giao lưu dân sự quổc tê nên tập hỢp những người tạo nên gia đình trong xã hội Việt Nam không chỉ bó hẹp giữa các thành viên có cùng quõc tịch và cùng cư trú trên lãnh thổ một nưóc mà còn được mở rộng giữa các thành viên có quốc tịch khác nhau và có thế các thành viên đó cư trú ở các nước khác nhau. Trong gia đình này có thể là vỢ, chồng khác quốc tịch hoặc có thê là vỢ, chồng, con (và các thành viên khác) khác quổc tịch. Họ có thể là những ngưòi cùng quôc tịch nhưng cư trú ở các nước khác nhau. Quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng ở đây cũng có thể phát sinh từ sự kiện pháp lý xảy ra ở nưóc ngoài. Sự khác nhau vê quốc tịch, ndi cư trú giữa các thành viên trong gia đình hoặc căn cứ pháp lý làm nảy sinh quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưõng đó đã làm cho gia đình loại này khác với gia đình truyền thống trong xã hội Việt Nam - đó là gia đình có yếu tô nưóc ngoài. Trên cơ sở khái niệm pháp lý vê gia đình, có thế hiểu; Gia đ ìn h có yếu tô nước ngoài là tập hỢp những người gắn bó với nhau do hôn nhản, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng có yếu tô nước ngoài, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa họ với nhau theo quy định của pháp luật. Gia đình có yếu tố nưốc ngoài cũng được hình thành trên cơ sỏ hôn nhân (sự kiện kết hôn giữa hai người khác quôc tịch) hoặc nuôi dưỡng (người nhận nuôi và con nuôi khác quốc 17 2.QHHN-A
- Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ở VN... tịch). Do có các sự kiện trên nên trong gia đình này các thành viên có các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản nhất định đốì với nhau, cùng quan tâm giúp đỡ nhau vê vật chất và tinh thần. Trong gia đình có yếu tô" nưóc ngoài, những yếu tố tình cảm, huyết thống, sự nuôi dưõng đan xen lẫn nhau trong mức độ truyền thốhg gia đình khác nhau và tạo nên môl liên hệ chặt chẽ khác nhau giữa các thành viên. Nhu cầu giữa các thành viên trong gia đình là được yêu thương, chàm sóc, nuôi dưỡng, được bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cũng rất khác nhau, đôi khi tuỳ thuộc vào ý thức pháp luật của mỗi thành viên trong gia đình đó. Hôn nhân là cơ sở của gia đình. Theo Điều 7 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì “Gia đinh là tê bào của xã hội... Gia đinh tốt thi xã hội mới tốt, xã hội tốt thi gia đinh càng tốt". Vậy, gia đình có yếu tô" nước ngoài có phải là tê bào của xã hội Việt Nam? Trong mỗi chê độ xã hội, gia đình có yếu tô' nước ngoài đều thực hiện những chức năng cơ bản của gia đình và một trong các chức năng là tái sản xuất ra con ngưòi, duy trì nòi giốhg. Đó là quá trình cần thiết của cuộc sống trong một xã hội nhất định. Quá trình này được thể hiện ở chỗ ''Hàng ngày tái tạo ra đời sông của bản thản minh, con người bắt đầu tạo ra những con người khác, sinh con, nảy nở. Đó là quan hệ giữ a vỢ và chồng, giữa cha mẹ và con cái - đó là gia đình"^'\ Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Giáo trinh Luật hôn nhẩn và gia đình Việt Nam, Nxb.Công an nhàn dân, Hà Nội, tr. 19 18 2.QHHN-B
- Chương I. Những vấn để chung về quan hệ HN&GĐ... Nếu không có sản xuât và tái sản xuất ra con ngưòi thì xã hội không thể phát triển được, thậm chí không thể tồn tại được. Như vậy, gia đình có yếu tò nước ngoài là một trong những thể chê cơ bản của xã hội. Nó ra đòi, tồn tại và phát triển trưóc hết là nhò Nhà nước thừa nhận đồng thòi định ra những biện pháp, những nguyên tắc nhằm ổn định quan hệ xã hội này. Khoản 1 Điều 100 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã thể hiện quan điểm đó; “N/ià nước Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quan hệ gia đình có yếu tô nước ngoài...". Như vậy, cũng như gia đình được xác lập từ những yếu tô trong nưóc, gia đình có yếu tô nước ngoài ở Việt Nam được coi là tê bào của xã hội Việt Nam. Như đã trình bày ở trên, có thê thấy “ hôn nhăn" và ''gia đinh" là hai khái niệm có môi quan hệ gắn bó mật thiết vói nhau, cùng tồn tại và nội dung của chúng cùng phát triển trong sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, về mặt lý luận thì hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau và có tính độc lập nhâ't định. Tính độc lập này được thề hiện ở hai điểm khác nhau cơ bản, đó là sự hình thành và chủ thể tham gia trong đòi sông hôn nhân và gia đình. Thứ nhất, về sự hình thành. Nếu hôn nhân được hình thành trên cơ sở kết hỢp giữa nam và nữ để xác lập quan hệ vỢ chồng, thì gia dinh đưỢc hình thành trên nhiều cđ sỏ khác nhau, trong đó hôn nhân được coi là một trong những cơ sở phổ biến. Có lẽ chính vì môl quan hệ khăng khít có tính nhân quả này mà đôi khi khó có thể phân biệt rạch ròi 19
- Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tô' nước ngoài ở VN... giữa hôn nhân và gia đình. Thứ hai, về chủ thể tham gia. Nếu chủ thể tham gia đòi sống hôn nhân là các bên xác lập quan hệ vợ chồng thì trong đòi sông gia đình các chủ thể tham gia không những chỉ là vỢ chồng mà còn là những ngưòi khác dựa trên cơ sở của quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng như con đẻ, ông bà, con nuôi... Như vậy, có thể nói hôn nhân là một khái niệm độc lập với khái niệm gia đình. Do đó, việc nghiên cứu quan hệ hôn nhân cũng được đặt trong sự độc lập của nó vài việc nghiên cứu quan hệ gia đình. 3. Khái niệm quan hệ hôn nhân và gia đình có yêu tô nước ngoài Theo lý lụận chung về nhà nưóc và pháp luật thì nhu cầu sinh tồn và phát triển đã buộc con người phải liên kết với nhau thành những cộng đồng, giữa các thành viên của cộng đồng luôn nảy sinh những sự liên hệ về vật chất, vê tinh thần và những mốì liên hệ này luôn có giói hạn nên người ta gọi là những “ quan hệ". Những quan hệ xuất hiện trong quá trình hoạt động xã hội của con ngưòi, nghĩa là chúng xuất hiện trong quá trình sản xuất và phân phối của cải vật chất, trong việc thoả mãn các nhu cầu văn hóa, tinh thần cùng như trong việc bảo vệ lợi ích của xă hội thì được gọi là “quan hệ xã hội". Sự hình thành và phát triển của các quan hệ xã hội diễn ra dưới tác động của nhiều yếu tô khác nhau song quyết định nhất vẫn là do điều kiện sản xuất và 20
- Chương I. Những vấn để chung về quan hệ HN&GĐ... sinh hoạt vật chất. Quan hệ xã hội tồn tại khách quan không lệ thuộc vào ý chí của con ngưòi. Tính khách quan của chúng thê hiện ở chỗ, con ngưòi sông trong xã hội không thê tự đặt mình ngoài những môi liên hệ xã hội đang tồn tại. Xã hội không thể tồn tại thiếu con người và con người không thề tồn tại ngoài xã hội, ngoài những môl liên hệ xã hội. Chính vì lẽ đó mà C!Mác gọi “Bản chất của con người là tổng hoà tất cả quan hệ xả hội""\ Tính tổ chức của đòi sông cộng đồng đòi hỏi các quan hệ xã hội phải được điều chỉnh. Điều này có thê thực hiện được bằng cách đặt ra những quy tắc xử sự buộc mọi người phải tuân theo. Quan hệ xã hội rất đa dạng và phong phú. Quan hệ hôn nhân và gia đình là loại quan hệ xã hội bao gồm quan hệ kết hôn, quan hệ giữa vỢ và chồng; cha, mẹ và con; quan hệ giữa các thành viên khác trong gia đình. Quan hệ hôn nhăn và quan hệ gia đinh có mối liên quan mật thiết với nhau. Môl liên quan mật thiết này được thể hiện ở sự đan xen, chồng lấn giữa chúng. Sự đan xen, chồng lâ"n này là quan hệ vỢ chồng. Khi nói đến quan hệ hôn nhân, ngưòi ta không thế không đê cập tói quan hệ vợ chồng, đồng thòi khi nói đến quan hệ gia đình, ngưòi ta cũng không thể không nhắc tới quan hệ vợ chồng. Nói cách khác quan hệ hôn nhân và quan hệ gia đình đều đê cập tói C.Mác - Anghen toàn tập, (1971), tập 2, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 492. 21
- Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ỏ VN... quan hệ vợ chồng. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, hôn nhân là một khái niệm độc lập với khái niệm gia đình nên sự chồng lấn này không làm mất đi tính độc lập của quan hệ hôn nhân đối vói quan hệ gia đình. Căn cứ vào khoản 14 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có thể hiểu: Q uan hệ hôn n h â n và g ia đ in h có yếu tô nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình phát sinh giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài hoặc giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam hoặc giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó phát sinh ở nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài. Theo khái niệm này, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tô'nước ngoài hao gồm: Qutm hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài ,, Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì kết hôn là việc “nam và nữ chính thức lấy nhau làm vỢ, chồng theo quy định của pháp luật” hoặc theo khoản 2 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “K ềi hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vỢ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn". Như vậy, có thể nói kết hôn là thủ tục pháp lý bắt buộc đê xác lập quan hệ vợ chồng. 22
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Thời kì hội nhập quốc tế - Quan hệ hôn nhân và gia đình ở Việt Nam: Phần 2
164 p | 162 | 29
-
Quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế biển trong thời kì đổi mới
5 p | 115 | 12
-
Một số nội dung hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong thời kì hội nhập quốc tế
8 p | 101 | 10
-
Việt Nam: tăng cường hội nhập quốc tế và thực thi EVFTA
72 p | 15 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn