Thu hút vốn đầu tư . . .<br />
<br />
Kinh tế - Kỹ thuật<br />
THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRÊN THỊ TRƯỜNG<br />
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM<br />
<br />
Lê Thị Tuyết Hoa*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Về phương diện lý luận và từ kinh nghiệm thực tiễn của các nước trên thế giới, có thể khẳng<br />
định rằng, trong số các kênh tạo vốn trong nước, thị trường chứng khoán (TTCK) là một trong những<br />
kênh có vị trí quan trọng nhất. Tuy nhiên, TTCK là một định chế tài chính trực tiếp, có cơ chế vận hành<br />
rất phức tạp và có mức độ ảnh hưởng rất sâu rộng, tới hầu hết các lĩnh vực hoạt động khác của nền<br />
kinh tế xã hội. Do vậy, con đường phát triển TTCK phải trên nguyên tắc hội nhập nhưng thận trọng,<br />
cân nhắc kỹ lưỡng điều kiện trong nước và hoàn cảnh quốc tế để có biện pháp phù hợp.<br />
Một trong những vấn đề mang tính nguyên tắc, pháp lý, thu hút sự quan tâm đặc biệt của<br />
các nhà đầu tư đối với một TTCK nào đó, chính là quyền hạn tham gia đầu tư chứng khoán của các<br />
nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK đó. Nội dung của bài viết tập trung vào viêc bàn về những lợi ích<br />
và bất lợi của việc tăng dòng vốn ngoại vào TTCK, kinh nghiệm thực tiễn của một số quốc gia và sự<br />
cần thiết của việc thu hút dòng vốn ngoại trên TTCK Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở lý luận và thực<br />
tiễn, bài viết cũng đề xuất một số giải pháp trước mắt và lâu dài cho vấn đề này.<br />
Từ khóa: thị trường chứng khoán, vốn đầu tư nước ngoài trong giao dịch chứng khoán<br />
<br />
ATTRACTING INVESTMENT CAPITAL IN VIETNAM STOCK MAKET<br />
ABSTRACT<br />
In theory and based on the pratical experiences from all of the world, we can affirm that,<br />
among the national capital channels, the Stock Exchange (SEs) is one of the most important channels.<br />
However, the SE is the direct financial institution which has the complex operating mechanism and<br />
indepth influence level toward all the fields of socio-economic operations. So, the road of developing<br />
SE should be based on the integration principles, but we must be careful with weghing-up the national<br />
conditions and international environments in order to have the appropriate solutions.<br />
One of the problems with the principle and legal characteristics atttracting the special<br />
considerations of the investors with respect to a Stock Exchange is mainly the authority of participating<br />
in the SE investment of the foreign investors into that SE. The reseach focuses on the advantages and<br />
disadvantages of increasing foreign capital flow into SE; pratical exeriences from some countries;<br />
and the needs of attracting foreign capital into Vietnam SE at the present time. Based on the theory<br />
and practices, the research also proposes some present and long- run solutions to this problem.<br />
Keywords: the Stock market, foreign capital flow into Stock Exchange<br />
* PGS.TS. Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh<br />
<br />
1<br />
<br />
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br />
<br />
1. Một số quan điểm<br />
Các nhà nghiên cứu soạn thảo chính sách,<br />
liên quan tới lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước<br />
ngoài trên thị trường chứng khoán, đã bàn luận<br />
nhiều về vấn đề này và có thể quy tụ thành hai<br />
loại quan điểm trái ngược nhau như sau:<br />
<br />
các quốc gia chậm phát triển và đang thiếu<br />
vốn. Do đó cần mạnh dạn cho phép các chủ<br />
thể nước ngoài được tự do đầu tư vốn vào<br />
TTCK trong nước. Chính điều này sẽ đem lại<br />
một số lợi ích sau:<br />
- Cho phép thực hiện được mục tiêu tăng<br />
nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài<br />
- Học tập được kinh nghiệm và khoa học<br />
kỹ thuật tiên tiến của các nước trong lĩnh vực<br />
thị trường chứng khoán<br />
- Mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế<br />
trên các lĩnh vực.<br />
<br />
● Loại quan điểm thứ nhất<br />
Cho dù nguồn vốn nước ngoài là hết sức<br />
cần thiết cho sự phát triển kinh tế quốc gia.<br />
Nhưng trong điều kiện TTCK mới hình thành<br />
và phát triển, không thể mở rộng cho người<br />
nước ngoài tham gia đầu tư vào TTCK trong<br />
nước. Bởi vì:<br />
- Nhà đầu tư nước ngoài thường có tiềm<br />
lực về vốn mạnh, có sự hiểu biết và kinh<br />
nghiệm hoạt động trên TTCK. Do vậy khả<br />
năng dẫn dắt thị trường, kiểm soát hệ thống<br />
tài chính là rất có thể nếu họ nắm giữ một tỷ<br />
trọng cổ phiếu đáng kể;<br />
- Kinh nghiệm của các nước cho thấy,<br />
mức độ quốc tế hóa thị trường càng cao, thì<br />
bên cạnh những mặt tích cực cũng có những<br />
mặt tiêu cực khôn lường. Mối quan hệ kinh tế<br />
qua lại giữa TTCK các nước đã dẫn tới việc<br />
chuyển những rủi ro kinh tế từ nước này sang<br />
nước khác, trong đó các nước càng chậm phát<br />
triển càng gánh chịu rủi ro nhiều hơn;<br />
- Nguồn vồn nước ngoài trên TTCK có<br />
thể làm hỗn loạn thị trường trong trường hợp<br />
nhà đầu tư nước ngoài bán tháo cổ phiếu và ồ<br />
ạt rút vốn khỏi thị trường (như đã từng xảy ra<br />
trong thời gian khủng hoảng tài chính châu Á<br />
năm 1997).<br />
<br />
2. Kinh nghiệm thực tiễn<br />
Quá trình hình thành và phát triển của<br />
TTCK một số nước trên thế giới cho thấy, quy<br />
định về sự tham gia của các nhà đầu tư nước<br />
ngoài trên TTCK ở mỗi nước và mỗi thời kỳ<br />
khác nhau. Nhưng đại đa số các nước khi mới<br />
thành lập TTCK, đều hạn chế khả năng tham<br />
gia của các nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK.<br />
Thị trường chứng khoán Hàn Quốc, thành<br />
lập năm 1956, sau 36 năm mới chính thức mở<br />
cửa thị trường cổ phiếu cho người nước ngoài<br />
với giới hạn 10% trên tổng số cổ phần của<br />
một công ty.<br />
Thị trường chứng khoán Indonesia bắt đầu<br />
được thành lập và đi vào hoạt động từ năm<br />
1912. Nhưng cho đến tháng 10/1988 (nghĩa<br />
là sau 76 năm), chính phủ mới thông qua quy<br />
chế cho phép tổ chức nước ngoài tham gia<br />
vào hoạt động của TTCK, nhưng hạn chế nhà<br />
đầu tư nước ngoài chỉ được sở hữu tối đa 49%<br />
trong một công ty.<br />
Thị trường chứng khoán Philippines<br />
cũng chỉ cho phép người nước ngoài được<br />
quyền nắm giữ 49% vốn cổ phần của một<br />
công ty địa phương. Nhưng không phải tất cả<br />
các ngành, mà có một số ngành công nghiệp<br />
cụ thể không cho phép người nước ngoài<br />
<br />
● Loại quan điểm thứ hai<br />
Sự tham gia của các nhà đầu tư nước<br />
ngoài trên TTCK là vô cùng quan trọng,<br />
đối với sự phát triển của nền kinh tế và thị<br />
trường vốn trong nước, đặc biệt là đối với<br />
2<br />
<br />
Thu hút vốn đầu tư . . .<br />
<br />
được đầu tư. Ngoài ra, việc hạn chế nhà đầu<br />
tư nước ngoài còn được thực hiện bằng cách<br />
phát hành hai loại chứng khoán A và B hoặc<br />
bằng việc khước từ đăng ký chuyển nhượng.<br />
Bên cạnh đó, còn có một loại cổ phiếu dành<br />
riêng cho các quỹ đầu tư nước ngoài mà<br />
người nắm giữ có thể thu lợi nhuận nhưng<br />
không được quyền bỏ phiếu.<br />
Tuy nhiên, cũng có một số quốc gia, ngay<br />
khi TTCK mới thành lập, đã mạnh dạn cho<br />
phép các nhà đầu tư nước ngoài được tư do<br />
tham gia hoạt động trên thị trường này, chẳng<br />
hạn như trường hợp TTCK ở Đức.<br />
Ở Việt Nam, TTCK đã được chính thức<br />
thành lập và hoạt động từ cách đây gần 15<br />
năm, trong bối cảnh nền kinh tế các nước<br />
đang phát triển theo hướng mở cửa, hướng<br />
ngoại; cùng với xu thế mạnh mẽ của toàn<br />
cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó<br />
việc thực hiện cơ chế thị trường đóng, nghĩa<br />
là một thị trường không có sự tham gia của<br />
nhà đầu tư nước ngoài là điều không thể.<br />
Nhưng cũng chưa thể phù hợp nếu thực hiện<br />
ngay một TTCK hoàn toàn mở cửa và hướng<br />
ngoại. Do đó trong giai đoạn đầu, khi TTCK<br />
Việt Nam mới thành lập (7/2000), Việt Nam<br />
đã chọn con đường trung gian - nghĩa là vẫn<br />
cho phép sự tham gia của các nhà đầu tư<br />
nước ngoài trên TTCK, nhưng có sự khống<br />
chế giới hạn tham gia thông qua các quy định<br />
của pháp luật- theo quy định, khi mới thành<br />
lập là 30% và hiện nay là 49%.<br />
Mặc dù có những quy định hạn chế,<br />
nhưng trong thời gian qua, sự tham gia của<br />
nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam<br />
đã và đang có những đóng góp to lớn cho sự<br />
phát triển của TTCK. Bên cạnh sự đóng góp<br />
nguồn lực tài chính dưới hình thức ngoại tệ,<br />
chính sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài,<br />
với kiến thức, kinh nghiệm và tiềm lực về vốn<br />
<br />
đã kéo theo sự quan tâm của các nhà đầu tư<br />
trong nước, từ đó làm cho TTCK càng phát<br />
triển mạnh hơn. Ngay từ cuối năm 2005 và<br />
đầu năm 2006, với sự tăng mạnh các giao dịch<br />
của chủ thể nước ngoài trên TTCK, đã góp<br />
phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng cả về khối<br />
lượng giao dịch và quy mô niêm yết, tạo đà<br />
cho VN-Index tăng mạnh.<br />
3. Sự cần thiết mở rộng đầu tư nước<br />
ngoài trên thị trường chứng khoán Việt<br />
Nam trong giai đoạn hiện nay<br />
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã có<br />
thời gian hình thành và phát triển gần 15<br />
năm. Tuy thời gian không phải là dài so với<br />
lịch sử, nhưng cũng đủ để khẳng định sự cần<br />
thiết và quan trọng của TTCK- kênh đầu tư<br />
và huy động vốn hữu hiệu cho nền kinh tế.<br />
Thông qua TTCK, Chính phủ đã huy động<br />
được 1.200.000 tỷ đồng vốn bằng trái phiếu<br />
chính phủ, các doanh nghiệp và các thành<br />
phần kinh tế khác huy động được 800.000<br />
tỷ đồng vốn bằng cổ phiếu và chứng chỉ quỹ<br />
qua thị trường này. “Với quy mô vốn hóa<br />
31 đến 32% GDP, TTCK Việt Nam không<br />
thể nói là còn nhỏ, mà đã định hình là một<br />
kênh huy động vốn trong nền kinh tế”(3).<br />
Đã đến lúc Việt Nam cần mạnh dạn mở rộng<br />
hoạt động đầu tư của chủ thể nước ngoài<br />
trên TTCK, xuất phát từ những cơ sở thực<br />
tiễn sau:<br />
Thứ nhất, Điều kiện kinh tế thuận lợi<br />
Điều mà các nhà đầu tư nước ngoài quan<br />
tâm nhiều nhất khi đầu tư trên TTCK Việt nam<br />
đó là sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh<br />
tế. Cho đến nay, Việt Nam đã vượt qua giai<br />
đoạn kém phát triển để vươn lên tầm quốc gia<br />
có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Năm 2014,<br />
các chỉ số kinh tế vĩ mô đã có những chuyển<br />
biến tích cực.<br />
3<br />
<br />
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br />
Hình 1: Tình hình chỉ số giá cả hàng hóa tiêu dùng và giá bán lẻ xăng dầu<br />
<br />
Nguồn; SSI (1)<br />
<br />
Mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2015 chính phủ Việt Nam đặt ra là 6,2% , ổn định chỉ số giá<br />
cả hàng hóa tiêu dùng (CPI) ở mức thấp hơn 5% và ổn định Việt Nam đồng (VND) đặt mục tiêu<br />
2% cho sự trượt giá của VND. Theo Ủy ban Kinh tế-Xã hội khu vực châu Á-Thái Bình Dương<br />
(ESCAP) của Liên Hợp Quốc đánh giá, năm 2015 và năm 2016, tăng trưởng kinh tế của Việt<br />
Nam dự báo sẽ tăng vào khoảng 6,1 đến 6,2% (2).<br />
Đánh giá chung về triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam, ESCAP cho rằng, kinh tế sẽ tiếp<br />
tục tăng trưởng, hòa nhập tốt vào bối cảnh toàn cầu, lạm phát sẽ giảm do giá dầu thế giới thấp.<br />
Đây là cơ hội tốt để Việt Nam có thể thu hút nguồn vốn nước ngoài đầu tư trên TTCK Việt Nam.<br />
Bảng 1: Một số chỉ tiêu tiền tệ tín dụng của hệ thống tài chính Việt Nam<br />
Đơn vị tính: % GPD<br />
Nguồn: vietbao.vn (3)<br />
<br />
Chỉ tiêu<br />
<br />
2010<br />
<br />
2011<br />
<br />
2012<br />
<br />
2013<br />
<br />
2014<br />
<br />
M2<br />
<br />
114,85<br />
<br />
99,8<br />
<br />
106,45<br />
<br />
117,03<br />
<br />
-<br />
<br />
Tín dụng<br />
<br />
124,66<br />
<br />
110,22<br />
<br />
104,91<br />
<br />
108,23<br />
<br />
100<br />
<br />
Chứng khoán<br />
<br />
39<br />
<br />
27,3<br />
<br />
26<br />
<br />
31<br />
<br />
32,23<br />
<br />
Thứ hai, Yêu cầu phát triển nguồn vốn cho nền kinh tế từ TTCK<br />
Không thể phủ nhận sự phát triển của TTCK Việt Nam trong thời gian qua, đã góp phần<br />
quan trọng trong việc cung ứng khối lượng vốn đầu tư rất lớn cho sự phát triển kinh tế Việt<br />
Nam. Tuy nhiên, nguồn vốn cung ứng cho nền kinh tế từ TTCK vẫn còn chiếm một tỷ trọng khá<br />
khiêm tốn, so với nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển . Thực tế cho thấy, đến nay nguồn cung ứng<br />
vốn cho nền kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc rất lớn (gần 70%) vào nguồn vốn từ hệ thống các<br />
định chế tài chính trung gian.<br />
Với mục tiêu phát triển cân bằng, lành mành và toàn diện thị trường tài chính bao gồm cả<br />
thị trường vốn và thị trường tiền tệ, đòi hỏi phải chú trọng hơn nữa đối với các dòng vốn chảy<br />
vào TTCK. Đánh giá về vấn đề này, Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia cũng cho rằng, để<br />
4<br />
<br />
Thu hút vốn đầu tư . . .<br />
<br />
TTCK phát triển bền vững cần có sự tham gia<br />
tích cực của cả dòng tiền ngoại và dòng tiền<br />
trong nước.<br />
Thứ ba, góp phần thúc đẩy nhanh tiến<br />
trình cổ phần hóa doanh nghiệp<br />
Theo kế hoạch cổ phần hóa doanh nghiệp<br />
nhà nước đã được Chính phủ phê duyệt, trong<br />
giai đoạn 2014 – 2015, Việt Nam sẽ thực hiện<br />
cổ phần hóa 432 doanh nghiệp. Trong năm<br />
2014 vừa qua, chúng ta đã thực hiện cổ phần<br />
hóa được 143 doanh nghiệp.<br />
Như vậy, phần nhiệm vụ kế hoạch còn lại<br />
phải hoàn thành trong năm 2015 là 289 doanh<br />
nghiệp. Đây là chỉ tiêu nhiệm vụ vô cùng<br />
nặng nề, khó có khả năng hoàn thành, bởi lẽ<br />
tính đến hết quý I/2015, cũng mới chỉ có 29<br />
doanh nghiệp được phê duyệt phương án cổ<br />
phần hóa, tương đương với 10% kế hoạch cả<br />
năm được thực hiện. Với một phần tư quỹ<br />
thời gian đã trôi qua, song chỉ tiêu kế hoạch<br />
mới chỉ thực hiện được 10%; lại thêm những<br />
khó khăn mới xuất phát từ nguồn vốn trên thị<br />
trường hạn chế. Đây quả là một thách thức<br />
không nhỏ, trong việc thực hiện nhiệm vụ kế<br />
hoạch cổ phần hóa năm 2015.<br />
Có thể thấy, kế hoạch cổ phần hóa trong<br />
năm nay sẽ được hoàn thành đến mức độ nào,<br />
phụ thuôc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố<br />
quan trọng mang tính quyết, chí là khả năng<br />
hấp thụ của TTCK. Vì vậy, sự tham gia tích<br />
cực của dòng vốn ngoại vào TTCK trong giai<br />
đoạn này là hết sức cần thiết và có ý nghĩa rất<br />
quan trọng.<br />
Thứ tư, sự quan tâm của các nhà đầu tư<br />
nước ngoài<br />
Tính đến ngày 30/4/2015, Trung tâm Lưu<br />
ký Chứng khoán Việt Nam (VSD) đã cấp mã<br />
số giao dịch chứng khoán cho 17.776 nhà đầu<br />
tư nước ngoài, trong đó có 2.654 nhà đầu tư tổ<br />
chức và 15.122 nhà đầu tư cá nhân (4)<br />
<br />
Điều đặc biệt là trong hơn 17 ngàn tài<br />
khoản nhà đầu tư nước ngoài, có tới 40% là<br />
của các nhà đầu tư Nhật Bản.Trong khi đó,<br />
nếu xét về quy mô, TTCK Việt nam nhỏ hơn<br />
rất nhiều so với TTCK Nhật Bản. Điều này<br />
cho thấy kỳ vọng của nhà đầu tư nước ngoài<br />
vào TTCK Việt Nam.<br />
Tuy nhiên, dòng vốn ngoại chảy vào<br />
TTCK Việt Nam vẫn còn hạn chế. Một trong<br />
những nguyên nhân là do giới hạn tỷ lệ sở<br />
hữu đối với nhà đầu tư ngoại. Hiện nay có<br />
nhiều cổ phiếu được nhiều nhà đầu tư nước<br />
ngoài quan tâm nhưng đã hết room trong đó<br />
tập trung vào những doanh nghiệp lớn, đầu<br />
ngành, ví dụ như: Hàng tiêu dùng (VNM,<br />
EVE, KMR, PNJ, TCM, BBC, MWG), Dược<br />
(DHG, DMC, JVC), và một số cổ phiếu khác<br />
FPT, REE, CTD, BMP, VNS, GMD…<br />
Đại đa số các nhà đầu tư nước ngoài đều<br />
mong muốn, Việt Nam nâng tỷ lệ trần sở hữu<br />
hoặc dỡ bỏ hoàn toàn mức trần 49% của khối<br />
ngoại. Nếu việc tăng room được thực hiện, có<br />
nghĩa là cơ hội để cho nhà đầu tư nước ngoài<br />
tham gia vào TTCK Việt Nam càng cao, từ đó<br />
thu hút thêm dòng vốn ngoại và tăng khả năng<br />
thanh khoản cho TTCK Việt Nam.<br />
5. Một số đề xuất<br />
Với các phân tích về lý luận và thực tiễn<br />
trên cho thấy, trong thời gian tới, bên cạnh việc<br />
tiếp tục duy trì và đẩy mạnh khai thác nguồn<br />
vốn từ các nhà đầu tư trong nước, cần nghiên<br />
cứu áp dụng những chính sách, biện pháp phù<br />
hợp, để gia tăng việc thu hút dòng vốn đầu tư<br />
nước ngoài qua kênh TTCK Việt Nam.<br />
Tác giả có một số suy nghĩ đề xuất với các<br />
nhà nghiên cứu, các chuyên gia hoạch định<br />
chính sách về lĩnh vực TTCK như sau:<br />
Thứ nhất, trước mắt cần tiến hành xem xét<br />
và phân loại doanh nghiệp để thực hiên nâng<br />
tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại<br />
5<br />
<br />