TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 23, 2004<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
THỤ LÝ VỤ ÁN KINH TẾ <br />
NHỮNG BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN<br />
<br />
Đoàn Đức <br />
Lương<br />
Tr ường Đại học khoa học, Đại học <br />
Huế<br />
<br />
<br />
Việc giải quyết các vụ án kinh tế, dân sự, hành chính, lao động nói chung và <br />
vụ án kinh tế nói riêng phải tuân theo những trình tự, thủ tục nhất định. Giải quyết <br />
vụ án kinh tế tại Tòa án trên cơ sở Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế <br />
năm 1996, theo đó việc khởi kiện và thụ lý vụ án được quy định từ Điều 31 đến <br />
Điều 33. Thụ lý vụ án kinh tế có ý nghĩa quan trọng vì nó đặt trách nhiệm của Tòa án <br />
phải giải quyết vụ án trong thời hạn nhất định kể từ thời điểm thụ lý vụ án; đồng <br />
thời kể từ thời điểm này Tòa án mới tiến hành các hoạt động tố tụng để giải quyết <br />
vụ án. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về thụ lý vụ án <br />
kinh tế còn gặp nhiều vướng mắc do pháp luật thiếu thống nhất, thiếu cụ thể. Vì <br />
vậy, trong bài viết này chúng tôi phân tích các quy định của pháp luật về những bất <br />
cập của thụ lý vụ án kinh tế và đưa ra nhưng giải pháp trong quá trình xây dựng Bộ <br />
luật tố tụng dân sự.<br />
1. Pháp luật hiện hành về thụ lý vụ án kinh tế.<br />
Theo quy định tại Điều 1 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế <br />
năm 1994 thì cá nhân, pháp nhân theo thủ tục do pháp luật quy định có quyền khởi <br />
kiện vụ án kinh tế để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. <br />
Quyền khởi kiện vụ án kinh tế là cơ sở pháp lý đầu tiên để các chủ thể tham gia vào <br />
quan hệ tố tụng, thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự. Tuy nhiên, không phải <br />
bất kỳ chủ thể nào khởi kiện vụ án kinh tế Tòa án cũng thụ lý giải quyết, việc giải <br />
quyết của Tòa án khi đảm bảo các điều kiện sau:<br />
Thứ nhất , chủ thể khởi kiện phải có tư cách pháp lý. Đối với cá nhân thực <br />
hiện quyền khởi kiện bằng việc trực tiếp ký vào đơn khởi kiện hoặc thông qua <br />
người đại diện theo ủy quyền. Đối với năng lực hành vi tố tụng của cá nhân trong <br />
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 quy định cụ thể, việc khởi <br />
kiện vụ án kinh tế thì những chủ thể kinh doanh luôn luôn phải đảm bảo năng lực <br />
49<br />
hành vi đầy đủ mới được tiến hành các hoạt động kinh doanh nên trong Pháp lệnh <br />
thủ tục giải quyết vụ án kinh tế không đề cập đến năng lực hành vi tố tụng. Đối với <br />
pháp nhân thực hiện quyền khởi kiện thông qua người đại diện bằng văn bản. Trong <br />
tố tụng dân sự thì Viện kiểm sát có quyền khởi tố, tổ chức xã hội có quyền khởi <br />
kiện vì lợi ích chung trong những trường hợp nhất định liên quan đến người chưa <br />
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự... Trong tố tụng kinh tế pháp luật <br />
không quy định quyền khởi tố của Viện kiểm sát, quyền khởi kiện của tổ chức xã <br />
hội vì công việc kinh doanh là vấn đề riêng tư của các chủ thể, các cá nhân hoặc <br />
pháp nhân có đủ khả năng cân nhắc có nên khởi kiện tại Tòa án hay lựa chọn những <br />
phương thức giải quyết khác phù hợp hơn.<br />
Thứ hai, việc khởi kiện vụ án kinh tế thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa <br />
án nhân dân. Việc xác định vụ án có phải là vụ án kinh tế và thuộc thẩm quyền giải <br />
quyết của Tòa án nhân dân hay không thông qua việc nghiên cứu đơn khởi kiện, các <br />
tài liệu do nguyên đơn cung cấp và đối chiếu với Điều 12 của Pháp lệnh thủ tục giải <br />
quyết các vụ án kinh tế năm 1994:<br />
Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa <br />
pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh.<br />
Các tranh chấp giữa các thành viên trong công ty với nhau và các thành viên <br />
công ty với công ty liên quan đến quá trình thành lập, hoạt động và giải thể công ty.<br />
Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu.<br />
Khi đã xác định vụ án kinh tế thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân <br />
dân cũng cần lưu ý các bên có thỏa thuận trọng tài hay không. Theo Điều 1, Điều 3 <br />
và Điều 5 của Pháp lệnh trọng tài Thương mại năm 2003 và Nghị quyết 05/2003/NĐ <br />
HĐTP Tòa án nhân dân tối cao thì trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết <br />
các tranh chấp phát sinh tronh hoạt động thương mại nếu trước hoặc sau khi xảy ra <br />
tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, cũng có trường hợp thỏa thuận <br />
trọng tài nhưng thỏa thuận bị vô hiệu theo Điều 10 của Pháp lệnh trọng tài thương <br />
mại, có quyết định của Tòa án hủy quyết định của trọng tài (nếu các bên không có <br />
thỏa thuận khác thì Tòa án vẫn thụ lý giải quyết).<br />
Thứ ba. thủ tục khởi kiện chỉ được khởi kiện đối với những việc còn thời <br />
hiệu khởi kiện. Việc xác định thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp kinh tế có ý <br />
nghĩa quan trọng để Tòa án thụ lý giải quyết hay không. Thời hiệu khởi kiện vụ án <br />
kinh tế là 06 tháng kể từ ngày phát sinh tranh chấp, trừ trường hợp pháp luật có quy <br />
định khác. Ngoài ra trong một số trường hợp luật chuyên ngành có quy định thời hiệu <br />
khởi kiện riêng " thời hiệu tố tụng áp dụng cho tất cả các hành vi thương mại là 02 <br />
năm kể từ thời điểm phát sinh quyền khiếu nại" (Điêu 242 của Luật Thương mại).<br />
50<br />
Thứ tư, chủ thể khởi kiện chỉ được khởi kiện những việc trước đó Tòa án <br />
chưa giải quyết bằng bản án hay quyết định có hiệu lực của Tòa án hay của cơ quan <br />
có thẩm quyền khác.<br />
Việc giải quyết các tranh chấp kinh tế thường thông qua các hình thức <br />
thương lượng, hòa giải, trọng tài hoặc Tòa án. Trong trường hợp vụ án kinh tế đã <br />
được gải quyết bằng quyết định, bản án của Tòa án hoặc quyết định trọng tài đã có <br />
hiệu lực pháp luật thì Tòa án không thụ lý giải quyết nữa mà trả lại đơn cho đương <br />
sự theo khoản 03 Điều 32 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. <br />
Sau khi nghiên cứu đơn kiện và các chứng cứ do nguyên đơn cung cấp thấy <br />
đủ các điều kiện nêu trên và vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp mình thì thông <br />
báo ngay cho nguyên đơn biết. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được thông <br />
báo nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật và Tòa án <br />
vào sổ thụ lý vụ án kể từ ngày nguyên đơn xuất trình chứng cứ về việc nộp tiền tạm <br />
ứng án phí.<br />
2. Những bất cập của pháp luật về thụ lý vụ án kinh tế và giải pháp.<br />
Điều 33 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định " Nếu <br />
Tòa án xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình thì phải thông báo ngay cho <br />
nguyên đơn biết". Thời gian từ khi Tòa án nhận đơn khởi kiện đến khi thông báo cho <br />
nguyên đơn biết được xác định là bao nhiêu được hiểu một cách trừu tượng "thông <br />
báo ngay" nên dẫn đến việc kéo dài việc xem xét đơn khởi kiện và thụ lý vụ án. <br />
Theo pháp luật hiện hành thì thụ lý vụ án kinh tế, dân sự, lao động được quy định <br />
trong ba pháp lệnh khác nhau. Theo Điều 37 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ <br />
án dân sự thì trong thời hạn một tháng hoặc tối đa là hai tháng kể từ ngày Tòa án <br />
nhận đơn, đương sự phải nộp tạm ứng án phí thì Tòa án không thụ lý vụ án. Việc <br />
thụ lý vụ án lao động theo Điều 35 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp <br />
lao động năm 1996 thì thời hạn bảy ngày kể từ ngày nộp đơn nguyên đơn phải nộp <br />
tiền tạm ứng án phí. Như vậy, thời hạn và thời điểm tiến hành thủ tục thụ lý vụ án <br />
không thống nhất mà không thể lý giải được các quy định này dựa trên cơ sở khoa <br />
học nào. Đối với vụ án kinh tế thời hạn nộp tạm ứng án phí là một hoặc hai tháng kể <br />
từ ngày nhận đơn. Theo chúng tôi khi xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự nên quy định <br />
về thụ lý vụ án kinh tế, lao động, dân sự thống nhất về thời điểm: người khởi kiện <br />
phải nộp tiền tạm ứng án phí trong thời hạn hai mươi ngày kể từ ngày nhận được <br />
giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí.<br />
Trong trường hợp không đủ điều kiện thụ lý thì Tòa án trả lại đơn kiện cho <br />
người khởi kiện. Điều 32 của Pháp lệnh quy định việc trả lại đơn kiện: Người khởi <br />
kiện không có quyền khởi kiện, thời hiệu khởi kiện đã hết, sự việc đã được giải <br />
51<br />
quyết bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan Nhà nước <br />
có thẩm quyền.Khi trả lại đơn kiện thẩm phán có phải ra một quyết định về việc trả <br />
lại đơn kiện hay không. Pháp luật hiện hành mới chỉ quy định những căn cứ mà chưa <br />
quy định trình tự thủ tục trả lại đơn kiện. Trong thực tế nhiều trường hợp do nhận <br />
thức khác nhau về điều kiện thụ lý (như Tòa án cho rằng đã hết thời hiệu khởi kiện, <br />
người khởi kiện lại chứng minh rằng còn thời hiệu khởi kiện và việc trả lại đơn <br />
kiện không có cơ sở), người khởi kiện không thể khiếu nại việc không thụ lý của <br />
Tòa án vì không có văn bản. Vấn đề này hiện nay có ý kiến cho rằng Tòa án phải ra <br />
quyết định thụ lý vụ án hoặc quyết định không thụ lý vụ án và trả lại đơn kiện. <br />
Trong trường hợp này người khởi kiện có quyền khiếu nại quyết định không thụ lý <br />
của Tòa án. Theo chúng tôi để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi <br />
kiện thì Tòa án khi trả lại đơn khởi kiện không qua văn bản trả lại đơn kiện (chẳng <br />
hạn thông báo về việc trả lại đơn kiện) trong đó có nêu rõ lý do. Trong trường hợp <br />
người khởi kiện không thống nhất với văn bản trả lại đơn khởi kiện do thẩm phán <br />
ký có quyền khiếu nại với chánh án Tòa án có thẩm quyền. Nếu theo quan điểm <br />
thẩm phán ra quyết định không thụ lý vụ án kinh tế là chưa phù hợp vì từ thời điểm <br />
thụ lý vụ án mới xác định trách nhiệm của Tòa án trong việc giải quyết vụ án và ra <br />
các quyết định theo pháp luật tố tụng, thẩm phán không thể ra các quyết định trước <br />
khi thụ lý vụ án.<br />
Trong các quy định của pháp luật phải xác định rõ thời gian mà không nên quy <br />
định chung chung "thông báo ngay" dẫn đến việc áp dụng không thống nhất. Trên <br />
thực tế có những vụ án thời hạn một tuần kể từ ngày nộp đơn đã có thông báo nộp <br />
tạm ứng án phí, ngược lại có những vụ án nguyên đơn nộp đơn một vài tháng mà <br />
không được thông báo. Do vậy, đối với các vụ án dân sự, kinh tế, lao động nói chung <br />
và án kinh tế nói riêng liên quan đến lợi ích của các chủ thể nên cần xác định thời <br />
gian xem xét đơn khởi kiện cụ thể. Hiện nay trong dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự <br />
(lần thứ 11) tại Điều 172 vẫn giữ nguyên quy định của các pháp lệnh là "Tòa án <br />
thông báo ngay cho người khởi kiện" là chưa hợp lý. Đối với quy định này theo chúng <br />
tôi có thể quy định theo hướng: Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được đơn <br />
khởi kiện Tòa án phải thông báo cho người khởi kiện biết để làm thủ tục nộp tiền <br />
tạm ứng án phí.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Các văn bản pháp luật về tố tụng dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và thi <br />
hành án, nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội (2001).<br />
<br />
<br />
<br />
52<br />
2. Phạm Thanh Phấn, Nguyễn Huy Anh. Những nội dung cơ bản trong Luật <br />
Thương mại nước CHXHCN Việt Nam, nxb Đồng Nai (1997).<br />
3. Phan Hữu Thư. Xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự. Những vấn đề lý luận và <br />
thực tiễn. NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội (2001).<br />
4. Ủy ban thường vụ Quốc hội. Pháp lệnh trọng tài thương mại năm (2003).<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
<br />
Thụ lý vụ án kinh tế là công việc dầu tiên của Tòa án, là bước mở đầu của quá trình <br />
tố tụng. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật hiện hành về thụ lý vụ án kinh tế còn khái <br />
quát, nhiều điểm bất hợp lý. Trong bài viết này chúng tôi phân tích các quy định của pháp <br />
luật, những bất cập và đưa ra những giải pháp về thụ lý vụ án kinh tế trong quá trình xây <br />
dựng Bộ luật tố tụng dân sự.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
53<br />
THE ENROLMENT OF ECONOMIC CASE THE DRAWBACKS<br />
AND SOLUTIONS TO PERFECT<br />
Doan Duc Luong<br />
College of Sciences, Hue University<br />
SUMMARY<br />
The enrolment of economic case is first activity of the Court and it is also the first step <br />
of legal procedure.The legal provisions of the enrolment of economic case, however, are quite <br />
general and some of them are irritional. In this writing, we would like to analyse the current <br />
legal provisions, their drawbacks and propose the solutions to perfect them in the process of <br />
building the Vietnamese Civil Procedure Code.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
54<br />