66 Xã hội học, số 3 - 2007<br />
<br />
<br />
Thu nhập của hộ gia đình và<br />
các đặc trưng di cư của con cái từ nông thôn<br />
Nguyễn Thanh Liêm<br />
<br />
<br />
Giới thiệu<br />
Có rất nhiều bằng chứng cho thấy di cư được sử dụng như một chiến lược sống của nhiều<br />
gia đình nông thôn để đối phó với cảnh nghèo nàn. Một mặt, các hộ gia đình nông thôn sử dụng di<br />
cư như sự đầu tư cho một số thành viên trong gia đình nhằm đa dạng hóa các nguồn thu nhập trong<br />
thời kỳ nông nhàn. Các hộ gia đình nghèo ở nông thôn kỳ vọng rằng mức sống của họ sẽ được cải<br />
thiện qua những khoản tiền hay quà mà nguồn di cư gửi về. Bên cạnh đó, có nhiều hộ gia đình đầu<br />
tư vào con cái không nhằm mục đích thu lợi cho hộ gia đình mà chỉ đơn thuần là giúp con cái có<br />
cuộc sống tốt hơn.<br />
Mối quan hệ giữa di cư và thu nhập của hộ gia đình nông thôn rất phức tạp do tính tương tác<br />
giữa chúng. Do di dân luôn phải đi kèm một số khoản chi phí, nên những người thuộc nhóm dân số<br />
nghèo nhất không thể có đủ điều kiện di cư. Mặt khác, nghèo đói cũng thường là động cơ hay áp lực<br />
để di chuyển. Tuy nhiên, di cư cũng có thể làm cho hộ gia đình nông thôn mất lao động, rơi vào<br />
cảnh nợ nần do chi phí ban đầu cho di cư hay giúp dân di cư tìm được việc làm. Di cư từ những<br />
vùng nông thôn cũng góp phần cải thiện điều kiện kinh tế của những hộ gia đình ở lại thông qua các<br />
khoản tiền gửi về.<br />
Mục đích của bài viết này là tìm hiểu mô hình di cư của các hộ gia đình nông thôn từ kết<br />
quả của một cuộc khảo sát. Bên cạnh đó, bài viết này tập trung tìm hiểu những khác biệt về khả<br />
năng di cư giữa các nhóm dân số có thu nhập khác nhau nhằm tìm hiểu sâu hơn mối quan hệ giữa di<br />
dân và thu nhập.<br />
<br />
Địa bàn và phương pháp phân tích<br />
Các phân tích trong bài này sử dụng số liệu từ “Dự án nghiên cứu liên ngành về gia đình<br />
nông thôn Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi”. Nghiên cứu này được triển khai trên địa bàn nông<br />
thôn của ba tỉnh gồm Yên Bái, Tiền Giang và Thừa Thiên - Huế. Thời điểm khảo sát tại các tỉnh<br />
trên diễn ra không cùng lúc và theo thứ tự là 2004, 2005, và 2006.<br />
Địa bàn khảo sát là một điểm quan trọng cần lưu ý vì khái niệm “các vùng nông thôn Việt<br />
Nam” sử dụng trong bài viết này mặc dù đã bao gồm cả ba vùng bắc trung nam nhưng thực chất vẫn<br />
không thể đại diện cho cả nước. Khái niệm này cần được hiểu là trong vùng nông thôn của ba tỉnh<br />
được chọn này.<br />
Cả phương pháp tiếp cận định tính và định lượng đã được sử dụng trong nghiên cứu này<br />
nhằm tận dụng tối đa lợi thế của các nhà nghiên cứu từ nhiều lĩnh vực và với các thế mạnh khác<br />
nhau. Tuy nhiên, bài viết này mới chỉ đưa ra các kết quả nghiên cứu ban đầu và giới hạn trong việc<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org<br />
Nguyễn Thanh Liêm 67<br />
<br />
sử dụng các số liệu định lượng. Tại mỗi tỉnh, khoảng 300 hộ gia đình đã được phỏng vấn thành<br />
công và đây cũng chính là mẫu phân tích của nghiên cứu này.<br />
<br />
Loại hình, khái niệm con cái di cư, và một số khái niệm cơ bản khác<br />
Trong nghiên cứu này, dân di cư được hiểu là con cái di cư và là những người con của người<br />
trả lời mà vào thời điểm khảo sát không sống tại huyện khảo sát. Một điểm đáng lưu ý là con cái di<br />
cư không có nghĩa là trẻ con di cư. Trên thực tế, một số người trong nhóm con cái di cư có tuổi đời<br />
khá cao.<br />
Trên thực tế còn có rất nhiều người con khác cũng có thể coi là con cái di cư; chẳng hạn<br />
những người con không sống cùng bố mẹ tại hộ gia đình khảo sát nhưng vào thời điểm khảo sát sống<br />
tại hộ khác trong cùng xã hoặc sống tại xã khác trong cùng huyện. Các nhóm con cái di cư đó cũng có<br />
thể nhận dạng được qua bộ số liệu của khảo sát này. Các kết quả phân tích cho thấy con cái sống<br />
trong cùng xã nhưng khác hộ bố mẹ chiếm khoảng 34 phần trăm tổng số con cái không sống cùng hộ<br />
với bố mẹ. Con cái di cư sống tại xã khác trong cùng huyện chiếm 14 phần trăm, con cái sống ở<br />
huyện khác trong cùng tỉnh chiếm 12 phần trăm tổng số con cái không sống cùng hộ với bố mẹ, và số<br />
còn lại bao gồm con cái sống ở tỉnh khác hoặc nước ngoài. Đa số con cái trong nhóm cuối là sống ở<br />
tỉnh khác vì chỉ có vài trường hợp sống ở nước ngoài.<br />
<br />
Biểu đồ 1: Phân phối của con cái không sống cùng hộ với bố mẹ<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Cùng xã<br />
Tỉnh khác 34%<br />
nước khác<br />
<br />
40%<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Cùng huyện<br />
14%<br />
Cùng tỉnh<br />
12%<br />
<br />
<br />
Trong khi di cư trong xã và trong huyện thường gắn nhiều hơn với các lý do tách hộ hoặc hôn<br />
nhân thì di cư từ huyện này sang huyện khác thường gắn với nhiều loại lý do hơn và cũng thường gắn<br />
chặt hơn với lý do kinh tế. Các nghiên cứu di dân đã cho thấy những khác biệt tạo ra do khoảng cách,<br />
không chỉ về mặt vật lý này, có thể là rất lớn. Vì các lý do trên và để kết quả của nghiên cứu này có thể<br />
so sánh được với các nghiên cứu khác ở Việt Nam, thường lấy huyện làm phạm vi không gian phân tách<br />
di cư, nghiên cứu này giới hạn vào di cư liên huyện. Nói cách khác, những người di chuyển qua phạm vi<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org<br />
68 Thu nhập của hộ gia đình và các đặc trưng di cư của con cái từ nông thôn<br />
<br />
huyện, kể cả qua tỉnh khác hoặc nước khác, mới được tính là dân di cư và những người di chuyển trong<br />
nội bộ huyện vẫn được xếp vào nhóm không di cư.<br />
Hộ gia đình di cư là hộ gia đình có con cái của người được hỏi di cư và là những hộ có ít<br />
nhất một con là dân di cư. Hộ gia đình, theo định nghĩa chung của cuộc khảo sát, là một nhóm<br />
người sống chung trong một nhà, có thể ăn cùng hoặc không ăn cùng, với người trả lời trong<br />
khoảng thời gian ít nhất một tháng tính đến thời điểm điều tra.<br />
<br />
Con cái di cư từ khu vực nông thôn<br />
Phân bố con cái di cư từ nông thôn tại các tỉnh là rất đa dạng và gần một phần năm đến một<br />
nửa hộ gia đình ở các vùng nông thôn của các tỉnh khảo sát có con cái di cư. Kết quả ở Biểu đồ 2<br />
chỉ ra rằng 17%, 30% và 42% hộ gia đình ở nông thôn Tiền Giang, Yên Bái và Thừa Thiên - Huế<br />
(theo đúng thứ tự trên) có con cái di cư. Với một thực tế là cuộc khảo sát lần này không tập trung<br />
nghiên cứu di dân mà tìm hiểu các vấn đề kinh tế xã hội nói chung của nông thôn Việt Nam trong<br />
thời kỳ chuyển đổi, những con số này mang tính khách quan cao và điểm nổi bật ở đây là chúng có<br />
tỷ lệ rất cao, thể hiện tính phổ biến của di dân ở nông thôn. Hơn thế nữa, các kết quả này cũng chỉ<br />
ra rằng cần tiến hành những phân tích và nghiên cứu sâu hơn nhằm xem xét tính đa dạng và những<br />
khác biệt lớn giữa các vùng.<br />
<br />
Biểu đồ 2: Tỉ lệ hộ gia đình có con cái di cư theo tỉnh<br />
<br />
50%<br />
<br />
<br />
40%<br />
<br />
<br />
30%<br />
<br />
<br />
20%<br />
<br />
<br />
10%<br />
<br />
<br />
0%<br />
Yên Bái Tiền Giang TT Huế<br />
<br />
Một kết quả đáng chú ý khác của di cư con cái là số con di cư trung bình của những hộ có<br />
con cái di cư cũng tương đối cao. Trung bình, mỗi hộ gia đình có con cái di cư ở Yên Bái, Tiền<br />
Giang và Thừa Thiên - Huế theo đúng trình tự đó có 1.84, 1.58 và 2.17 con di cư.<br />
<br />
Bảng 1: Số con cái di cư theo tỉnh trong số những hộ gia đình có ít nhất một người con di cư<br />
<br />
Tỉnh Trung bình SD Min Max N<br />
<br />
Yên Bái 1.84 0.97 1 5 91<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org<br />
Nguyễn Thanh Liêm 69<br />
<br />
<br />
Tiền Giang 1.58 0.97 1 5 50<br />
<br />
TT - Huế 2.17 1.21 1 6 125<br />
<br />
<br />
<br />
Số con trai và con gái di cư ở Yên Bái và Thừa Thiên - Huế là tương đương nhưng ở Tiền<br />
Giang số con gái di cư nhiều hơn hẳn số con trai di cư. Các kết quả này là rất khách quan do thủ tục<br />
chọn mẫu tuân thủ quy trình chọn mẫu ngẫu nhiên từ danh sách các hộ gia đình nông thôn và nhóm<br />
dân di cư bị “lờ đi” vì không phải là trọng tâm của nghiên cứu này.. Những kết quả nghiên cứu gần<br />
đây cho thấy xu hướng nữ hóa của các dòng di cư là một lý do khác để tin vào kết quả trên về hiện<br />
tượng nữ giới cơ động không kém gì nam giới. Hiện tượng tăng nhanh trong những năm gần đây của<br />
di dân nữ từ miền Tây Nam Bộ đi kết hôn với người nước ngoài và đáp ứng nhu cầu lao động ngày<br />
càng cao của khu vực dịch vụ giải trí thường được coi là những nguyên nhân chính giải thích cho tỷ lệ<br />
cao hơn của con gái di cư ở tỉnh Tiền Giang.<br />
<br />
<br />
<br />
Biểu đồ 3: Giới tính của con cái di cư theo tỉnh<br />
<br />
100%<br />
<br />
90%<br />
<br />
80%<br />
<br />
70%<br />
<br />
60% Nam<br />
50%<br />
<br />
40%<br />
Nữ<br />
30%<br />
<br />
20%<br />
<br />
10%<br />
<br />
0%<br />
Yên Bái Tiền Giang TT-Huế<br />
<br />
<br />
Cũng giống như các kết quả từ những nghiên cứu di cư khác, kết quả tìm được trong nghiên<br />
cứu này cho thấy phần lớn dân di cư là những người trẻ tuổi. Sau một khoảng thời gian cư trú<br />
không xác định (vì số liệu này không được thu thập), một nửa số con cái di cư ở Yên Bái, Tiền<br />
Giang và Thừa Thiên - Huế hiện nay là dưới 28, 31 và 23 tuổi theo đúng trật tự trên. Kết quả về tuổi<br />
trung vị này có thể thấp hơn các kết quả từ một số nghiên cứu khác do tính chọn lọc của nhóm này<br />
chỉ bao gồm con cái di cư mà không bao gồm toàn bộ những người di cư. Tuy nhiên một điều cũng<br />
rõ ràng là tuổi của con cái di cư vào lần di chuyển gần đây nhất của họ sẽ thấp hơn và tuổi vào lần<br />
di chuyển đầu tiên còn nhỏ hơn nhiều nữa.<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org<br />
70 Thu nhập của hộ gia đình và các đặc trưng di cư của con cái từ nông thôn<br />
<br />
Bảng 2: Tuổi của con cái di cư theo tỉnh<br />
<br />
<br />
<br />
Tỉnh Trung SD Trung vị Min Max N<br />
bình<br />
<br />
Yên Bái 30.8 8.5 28 16 59 166<br />
<br />
Tiền Giang 31.8 7.3 31 17 51 79<br />
<br />
TT - Huế 24.6 6.8 23 6 50 268<br />
<br />
Đa số con cái di cư hiện có gia đình hoặc chưa từng kết hôn, chỉ có dưới 3% số trường hợp<br />
bị gián đoạn hôn nhân hay đang trong tình trạng ly hôn, ly thân hoặc góa. Rõ ràng là trong số con<br />
cái di cư, tỷ lệ những người chưa từng kết hôn tại thời điểm di cư là cao hơn vì một phần trong số<br />
họ đã lập gia đình trong khoảng thời gian từ thời điểm di chuyển tới thời điểm nghiên cứu. Sự khác<br />
biệt lớn giữa Tiền Giang và hai tỉnh còn lại lại một lần nữa xuất hiện: trong khi có 52% và 65% số<br />
con cái di cư ở Yên Bái và Thừa Thiên - Huế theo đúng trình tự trên là chưa từng kết hôn thì chỉ có<br />
15% số con cái di cư ở Tiền Giang chưa từng kết hôn. Kết quả này phù hợp với những bình luận và<br />
quan sát bên trên về sự xu hướng nữ hóa của di cư ở Tiền Giang. Tỷ lệ con cái di cư gặp phải tình<br />
trạng gián đoạn hôn nhân cao ở Tiền Giang không nhất thiết có nghĩa là vùng này có rủi ro hôn<br />
nhân lớn hơn; một số nguyên nhân chính cho hiện tượng này là tỉ lệ kết hôn cao hơn và tuổi của con<br />
cái di cư tại Tiền Giang cao hơn hai tỉnh còn lại.<br />
<br />
Bảng 3: Tình trạng hôn nhân của con cái di cư theo tỉnh<br />
<br />
Tình trạng hôn nhân Yên Bái Tiền Giang TT Huế<br />
<br />
Chưa từng kết hôn 52 % 15 % 65 %<br />
<br />
Hiện đang kết hôn 48 % 82 % 34 %<br />
<br />
Khác 0% 3% 1%<br />
<br />
Tổng 100 % 100 % 100 %<br />
<br />
N 167 79 269<br />
<br />
Tỷ lệ con cái di cư có trình độ học vấn tiểu học hoặc thấp hơn ở Yên Bái, Tiền Giang và<br />
Thừa Thiên - Huế theo đúng trình tự trên là 4%, 20% và 31%. Tỷ lệ con cái di cư có tình độ học<br />
vấn phổ thông cơ sở hoặc cao hơn ở Yên Bái, Tiền Giang và Thừa Thiên - Huế là 82%, 39% và<br />
20%. Tuy nhiên, ngoại trừ trường hợp Yên Bái nơi mà trình độ học vấn của con cái di cư có sự vượt<br />
trội rõ ràng, rất khó có thể nói từ những kết quả phân tích mô tả này là liệu như vậy thì trình độ học<br />
vấn của con cái di cư là cao hay thấp. Mặc dù trình độ học vấn của con cái di cư có thể so sánh<br />
được với trình độ học vấn của con cái không di cư vì số liệu đó cũng đã được thu thập,tính chọn lọc<br />
theo tuổi của con cái di cư - nghĩa là những người con lớn tuổi hơn thường di cư trước - lại là một<br />
yếu tố khác cần được xem xét. Tuy nhiên, chúng ta có thể kiểm soát theo tuổi để loại bỏ ảnh hưởng<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org<br />
Nguyễn Thanh Liêm 71<br />
<br />
của tính chọn lọc này. Cái không thể kiểm soát được là một thực tế là một số người con di cư có thể<br />
đi học và đạt được một mức học vấn cao hơn kể từ khi họ ra đi.<br />
<br />
Bảng 4: Học vấn của con cái di cư theo tỉnh<br />
<br />
Học vấn Yên Bái Tiền Giang Thừa Thiên -<br />
Huế<br />
<br />
Tiểu học – 4% 20 % 31 %<br />
<br />
Trung học cơ sở 14 % 41 % 49 %<br />
<br />
Phổ thông cơ sở + 82 % 39 % 20 %<br />
<br />
Tổng 100 % 100 % 100 %<br />
<br />
N 163 79 267<br />
<br />
Kết quả trong Bảng 5 cho biết tần số quay lại thăm nhà của con cái di cư. Kết quả cho thấy<br />
con cái di cư về thăm lại quê nhà rất thường xuyên. Bảng này cũng chỉ ra rằng con cái di cư từ Thừa<br />
Thiên - Huế ít về thăm nhà nhất và con cái di cư từ Yên Bái về thăm nhà thường xuyên hơn cả.<br />
Cùng với những phát hiện về những khác biệt trong trình độ học vấn giữa các tỉnh, có thể thấy rõ<br />
một điều con cái di cư từ Yên Bái là một trường hợp rất khác biệt và dường như có một tỷ lệ lớn<br />
con cái di cư từ Yên Bái là những người có học vấn cao hiện đang sống và làm việc ở các huyện<br />
hoặc các tỉnh lân cận.<br />
<br />
Bảng 5: Tần số thăm nhà của con cái di cư theo tỉnh<br />
<br />
<br />
<br />
Tần số thăm nhà Yên Bái Tiền Giang Thừa Thiên -<br />
Huế<br />
<br />
Hàng ngày 41.92 29.11 23.62<br />
<br />
Hàng tháng 21.56 46.84 16.61<br />
<br />
Một năm vài lần 30.54 21.52 42.80<br />
<br />
Vài năm một lần 4.19 2.53 15.13<br />
<br />
Chưa bao giờ 1.80 0 1.85<br />
<br />
Tổng 100 100 100<br />
<br />
N 167 79 271<br />
<br />
Khác biệt thu nhập giữa các hộ gia đình có con cái di cư và không di cư<br />
Kết quả trong Bảng 6 cho thấy thu nhập bình quân đầu người hàng năm của các hộ gia đình<br />
có con cái di cư là 5.419.762 đồng. Mức thu nhập này cao hơn hẳn mức 4.512.583 đồng hay thu<br />
nhập bình quân đầu người của các hộ gia đình không có con cái di cư. Kết quả này phần nào củng<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org<br />
72 Thu nhập của hộ gia đình và các đặc trưng di cư của con cái từ nông thôn<br />
<br />
cố quan điểm cho rằng thu nhập bình quân là một yếu tố quan trọng có tác động đến di cư. Một<br />
điểm đáng lưu ý là trong khi một số hộ gia đình cho con cái đi học xa nhà như một hình thức đầu tư<br />
dài hạn cho hộ gia đình và bản than người con thì một số hộ khác cho con đi xa nhà để kiếm việc,<br />
nhanh chóng kiếm tiền để đáp ứng những nhu cầu cấp bách của người di cư và hộ gia đình. Nhóm<br />
gửi con đi học thường bao gồm những hộ gia đình giàu có hơn và nhóm cho con đi làm kiếm tiền<br />
thường là những hộ nghèo. Đáng tiếc là trong nghiên cứu này họ đã bị gộp lại và không thể tách rời<br />
do không có thông tin về mục đích di dân.<br />
<br />
Bảng 6: Khác biệt thu nhập bình quân đầu người trung bình (đồng)<br />
giữa các nhóm hộ di cư<br />
<br />
<br />
<br />
Trung bình [95% độ tin cậy] Trung vị<br />
<br />
Hộ gia đình không có con cái<br />
4,512,583 4,274,889 4,750,278 3,650,000<br />
di cư<br />
<br />
Hộ gia đình có con cái di cư 5,419,762 4,961,358 5,878,167 4,500,000<br />
<br />
Ghi chú: Các kết quả kiểm định t-test cho thấy có sự khác biệt ở mức p=0.0001<br />
Có nhiều lý do để tin rằng mối quan hệ giữa thu nhập hộ gia đình và sự di cư con cái không<br />
chỉ đơn thuần là một mối quan hệ tuyến tính. Mặc dù sự thật là những người giàu có hơn có nhiều<br />
điều kiện hơn để có thể cho con cái của họ di cư, nhưng cũng có các bằng chứng cho thấy nghèo đói<br />
là một động lực lớn để di chuyển. Các quan sát và phỏng vấn sâu ở một số vùng nông thôn Việt<br />
Nam cho thấy nhiều hộ gia đình nghèo đã phải bán đất để lấy tiền chi cho sinh hoạt hàng ngày,<br />
nhiều hộ gia đình đã không còn đất họ phải làm thuê cho các hộ gia đình khác để kiếm sống, và<br />
trong khi không có đủ việc ở khu vực nông thôn và nhất là các công việc này lại mang tính mùa vụ,<br />
nhiều người đã chọn di cư làm giải pháp để thoát khỏi tình trạng thiếu việc thiếu tiền. Nói cách<br />
khác, trong khi những người giàu hơn có điều kiện tốt hơn để di cư thì nhiều hộ nghèo cũng chịu<br />
những áp lực buộc họ di chuyển.<br />
Tính phức tạp của mối quan hệ giữa sự di dân và thu nhập được kiểm chứng bằng việc sắp<br />
xếp các hộ theo thứ tự thu nhập bình quân đầu người từ thấp nhất đến cao nhất, phân chia các hộ gia<br />
đình thành 5 nhóm bằng nhau (còn gọi là ngũ vị phân thu nhập) và so sánh mức độ di cư con cái của<br />
các nhóm này. Biểu đồ 4 biểu diễn mối quan hệ này. Kết quả từ biểu đồ này cho thấy rõ ràng là mối<br />
quan hệ giữa di cư và thu nhập là phi tuyến tính, mối quan hệ này chạy theo một đường cong hình<br />
chữ U. Tỷ lệ hộ gia đình có con cái di cư trong nhóm có thu nhập thấp nhất cao hơn tỉ lệ đó trong<br />
hai nhóm tiếp theo. Tỷ lệ hộ gia đình có con cái di cư trong số 5% số hộ nghèo nhất cũng cao hơn tỉ<br />
lệ đó trong nhóm các hộ gia đình có thu nhập ở mức trung bình. Kết quả này vì vậy không giống<br />
với kết quả từ các nghiên cứu trước cho rằng những nhóm dân cư nghèo nhất có rất ít khả năng tạo<br />
điều kiện cho con cái họ di cư, ít nhất trong bối cảnh hiện tại ở nông thôn Việt Nam. Trên thực tế,<br />
sự phát triển kinh tế nhanh ở Việt Nam đã tạo ra những thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org<br />
Nguyễn Thanh Liêm 73<br />
<br />
xã hội của người dân. Việc đầu tư lớn cho cơ sở hạ tầng, sự phát triển nhanh chóng của các loại<br />
phương tiện giao thông vận tải, sự bùng nổ cả về lượng và chất của truyền thông đại chúng và sự<br />
phát triển với tốc độ cao của thị trường việc làm ở khu vực đô thị trong vài thập kỷ qua là một số<br />
các yếu tố cơ bản góp phần giảm thiểu các chi phí liên quan đến việc di cư. Những người nghèo đến<br />
mức không thể di chuyển được trong bối cảnh hiện nay có lẽ chỉ chiếm một tỷ lệ rất rất nhỏ trong<br />
dân số. Những người nghèo đến mức như vậy chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ kể cả khi chỉ tính riêng nhóm<br />
dân cư nghèo nhất và khi đứng trong nhóm họ bị lu mờ bởi những những người nghèo nhưng vẫn<br />
có khả năng di chuyển và chịu áp lực lớn do không có đất và thất nghiệp mùa vụ mà phải di chuyển.<br />
<br />
Biểu đồ 4: Tỉ lệ số hộ có con cái di cư theo nhóm (ngũ phân vị)<br />
thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình<br />
<br />
50%<br />
<br />
<br />
<br />
40%<br />
<br />
<br />
<br />
30%<br />
<br />
<br />
<br />
20%<br />
<br />
<br />
<br />
10%<br />
<br />
<br />
<br />
0%<br />
1 2 3 4 5<br />
Thu nhập bình quân đầu người hộ gia đình từ thấp nhất đến cao nhất<br />
<br />
Ghi chú: Pearson chi2(4) = 16.27 Pr = 0.003<br />
Một điều cũng rõ ràng là tỷ lệ hộ gia đình có con cái di cư trong số những hộ giàu nhất cũng<br />
lớn hơn tỷ lệ đó trong số những hộ nghèo nhất. Kết quả này chỉ ra tính biến động cơ học cao hơn<br />
của con cái trong những gia đình giàu có so với con cái trong các gia đình nghèo. Điều đáng tiếc là<br />
các số liệu về nguyên nhân di cư đã không được thu thập và do đó chúng ta không thể nói nhiều về<br />
những khác biệt trong động cơ thúc đẩy di chuyển giữa con cái trong các gia đình giàu có và các gia<br />
đình nghèo. Các cuộc phỏng vấn sâu tại thực địa ở nông thôn gần đây cho thấy một hiện tượng khá<br />
phổ biến là các gia đình giàu có thường và có khả năng cho con cái đi học ở các trường xa nhà do<br />
không có trường học, nhất là các cấp học cao và đặc biệt là từ cấp phổ thông trung học, ở địa<br />
phương hoặc cho con đi xa để cải thiện điều kiện sống của con cái trong khi các gia đình nghèo<br />
thường cho con ra ngoài đi làm kiếm tiền cho hộ gia đình, hoặc ít ra là để giảm gánh nặng cho hộ<br />
gia đình. Những kết quả phân tích trong bài cùng với những quan sát thực địa gợi ý xa hơn rằng<br />
mặc dù cả những người giàu nhất và nghèo nhất đều có thể hưởng lợi từ quá trình di cư nhưng<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org<br />
74 Thu nhập của hộ gia đình và các đặc trưng di cư của con cái từ nông thôn<br />
<br />
dường như những người giàu nhất được hưởng lợi nhiều hơn. Nói cách khác, trong khi di cư của<br />
những người nghèo nhất góp phần rút ngắn khoảng cách giữa họ với nhóm trung bình thì di cư của<br />
những người giàu nhất đang làm gia tăng khoảng cách giữa họ với phần dân số còn lại. Những kết<br />
quả này vẫn chỉ là những kết quả ban đầu về mối quan hệ giữa di cư và bất bình đẳng vì các bằng<br />
chứng thu được từ cuộc khảo sát lần này tuy có nhưng vẫn chưa mạnh và do đó cần có những<br />
nghiên cứu sâu hơn.<br />
<br />
Kết luận<br />
Các kết quả phân tích trong bài này cho thấy mức độ di cư từ khu vực nông thôn trên thực tế<br />
lớn hơn nhiều so với những con số thường thấy trong các báo cáo thống kê chính thức. Hơn nữa,<br />
các kết quả trong bài viết này cũng chỉ ra tính đa dạng hay sự khác biệt rất lớn giữa các vùng về tình<br />
trạng và mức độ di cư. Tỉ lệ con cái di cư liên huyện có thể chỉ ở mức 17% như đã thấy ở nông thôn<br />
Tiền Giang nhưng cũng có thể lên cao đến 42% như ở Thừa Thiên - Huế và thậm chí cao hơn nữa<br />
nếu khảo sát tương tự được tiến hành ở nông thôn các tỉnh khác.<br />
Về mô hình di cư, tỉ lệ con cái hiện không sống cùng hộ gia đình bố mẹ chia tương đối đều<br />
cho ba nhóm: cùng xã, khác xã cùng tỉnh, và khác tỉnh (gồm cả nước khác). Nhóm di cư đến tỉnh<br />
khác có tỉ lệ vượt trội hơn chút ít và nhóm di cư đến xã khác có thấp hơn nhưng thấp hơn không<br />
nhiều. Nếu dùng huyện làm ranh giới địa lý xác định di cư, có thể thấy tỉ lệ dân di cư nội huyện<br />
cũng không thua kém gì tỉ lệ dân di cư liên huyện (48% so với 52%). Vì vậy, tuỳ theo cách xác<br />
định ranh giới trong việc xác định một trường hợp có phải dân di cư hay không mà tỉ lệ dân di cư<br />
sẽ thay đổi đáng kể. Ví dụ như nếu di cư trong nội bộ huyện cũng được tính đến thì tỉ lệ di cư ở<br />
Tiền Giang và Thừa Thiên - Huế sẽ không còn là 17% và 42% nữa mà sẽ cao hơn rất nhiều.<br />
Về các đặc trưng của di cư con cái, có thể thấy một tỉ lệ rất lớn các hộ gia đình đã có con cái<br />
di cư lại có từ 2 con di cư trở lên. Kết quả này là hợp lý khi các bằng chứng thực nghiệm trong các<br />
nghiên cứu trước đã cho thấy các chi phí và rủi ro gắn với di cư của những người con tiếp theo giảm<br />
đi rất nhiều nếu đã có một người con trong gia đình di cư và vì thế làm tăng khả năng di cư của<br />
những người con tiếp theo. Kết quả phân tích trong bài cũng chỉ ra rằng con gái có tính cơ động cơ<br />
học không kém gì con trai và thậm chí còn cao hơn như trong trường hợp Tiền Giang. Các kết quả<br />
phân tích còn cho thấy con cái di cư là những người trẻ trong độ tuổi 20 và trừ Tiền Giang thì quá<br />
một nửa là những người chưa từng kết hôn. Con cái di cư cũng thường xuyên về thăm nhà.<br />
Những khác biệt trong động thái di cư giữa hộ khá giả và hộ có thu nhập thấp hơn, giữa con<br />
nhà giàu và con nhà nghèo cũng gợi mở nhiều vấn đề đáng quan tâm. Các kết quả phân tích cho<br />
thấy thu nhập bình quân đầu người của các hộ gia đình có con cái di cư cao hơn đáng kể so với thu<br />
nhập bình quân đầu người của các hộ gia đình không có con cái di cư. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa<br />
thu nhập và di cư không đơn thuần là mối quan hệ tuyến tính mà theo một đường cong chữ U lệch<br />
về bên phải. Các yếu tố và cách giải thích cho các đoạn quan hệ này lại có thể rất khác nhau. Thu<br />
nhập tốt là một yếu tố tạo điều kiện cho di cư vì di cư luôn gắn với những chi phí nhất định, nhất là<br />
cho giai đoạn ban đầu và vì vậy những người có tiền có điều kiện tốt hơn để di cư. Đó có thể là<br />
nguyên nhân chính giải thích cho mối quan hệ ở đoạn cuối của đường cong chữ U. Đoạn đầu của<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org<br />
Nguyễn Thanh Liêm 75<br />
<br />
đường cong chữ U cũng có thể được giải thích qua thu nhập nhưng ở đây thu nhập thấp là yếu tố<br />
thúc đẩy di cư do nhóm dân cư nghèo nhất chịu nhiều áp lực hơn buộc họ phải di cư. Tuy nhiên, lập<br />
luận cho rằng các nhóm dân cư nghèo nhất không có khả năng di chuyển không nhận được bằng<br />
chứng ủng hộ ở đây. Nguyên nhân chính có lẽ do bối cảnh phát triển kinh tế nhanh mạnh trong thời<br />
gian qua đã tạo ra nhu cầu việc làm lớn và chi phí thấp của di cư, tạo điều kiện cho cả những nhóm<br />
nghèo nhất cũng có thể tham gia vào các dòng di cư. Sự lệch phải của đường cong cho thấy tỉ lệ di<br />
cư của con cái trong số các hộ gia đình khá giả cao hơn tỉ lệ di cư con cái trong số các hộ gia đình<br />
nghèo hơn. Tuy không có đủ thông tin để khai thác sâu hơn nguyên nhân của sự khác biệt này, bản<br />
thân mô hình đã đặt ra nhiều vấn đề đáng quan tâm. Các kết quả trên gợi ý rằng trong điều kiện hiện<br />
nay, di cư có thể dẫn đến việc thu hẹp khoảng cách giữa nhóm nghèo và nhóm có thu nhập trung<br />
bình nhưng lại làm gia tăng khoảng cách giữa nhóm giàu và nhóm có thu nhập trung bình. Hơn nữa,<br />
sự lệch phải của đường cong biểu diễn mối quan hệ giữa di cư và thu nhập gợi ý rằng di cư đang<br />
góp phần nhiều hơn vào gia tăng khoảng cách thu nhập hơn là thu nhỏ nó. Cùng với quá trình phát<br />
triển kinh tế nhanh vẫn đang diễn ra và ngày càng được tăng cường và cùng với bất bình đẳng gia<br />
tăng, các kết quả này cần được quan tâm nhiều hơn để có thể giữ vững định hướng bảo đảm công<br />
bằng xã hội và bình đẳng. Điều đó không có nghĩa là cần hạn chế di cư của những người khá giả<br />
hơn mà làm thế nào để có thể thúc đẩy và làm cho di dân mang lại nhiều lợi ích hơn cho những<br />
người nghèo.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org<br />