Thực hành giao tiếp - Phương pháp dạy học ngoại ngữ theo đường hướng: Phần 2
lượt xem 55
download
Phần 2 của Tài liệu Phương pháp dạy học ngoại ngữ theo đường hướng thực hành giao tiếp trình bày tới người học một số phương pháp dạy học các kĩ năng lời nói như: Phương pháp dạy học kĩ năng nghe hiểu, phương pháp dạy học kĩ năng nói, phương pháp dạy học kĩ năng nói, phương pháp dạy học kĩ năng viết,... Mời các bạn cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thực hành giao tiếp - Phương pháp dạy học ngoại ngữ theo đường hướng: Phần 2
- Chương VI: Phương pháp dạy học ngữ pháp 235 PHẦN THỨ BA PH¦¥NG PH¸P D¹Y HäC C¸C KÜ N¡NG LêI NãI
- 236 PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGOẠI NGỮ THEO ĐƯỜNG HƯỚNG THỰC HÀNH GIAO TIẾP…
- Chng VII PH¦¥NG PH¸P D¹Y HäC KÜ N¡NG NGHE HIÓU 1. Mục đích, vai trò của dạy học nghe hiểu Theo Từ điển tiếng Việt, từ nghe có nghĩa là quá trình nhận biết âm thanh nhờ cơ quan thính giác: “Nghe có tiếng gõ cửa”. Nghe dịch sang tiếng Anh là Listen. Thuật ngữ nghe hiểu xuất hiện trong các tài liệu về giáo học pháp ngoại ngữ cách đây không lâu. Người đầu tiên dùng thuật ngữ nghe hiểu trong các công trình nghiên cứu về quá trình nghe và tiếp nhận lời nói là nhà tâm lí học người Anh J. Braun. Nghe hiểu là quá trình nghe và hiểu ý nghĩa của các âm thanh trong dòng lời nói, qua đó hiểu nội dung câu nói của người khác. Nghe hiểu là một dạng hoạt động lời nói, có liên hệ chặt chẽ với các dạng hoạt động lời nói khác, trước hết là với hoạt động nói năng. Quá trình nghe hiểu bao hàm yếu tố phân tích, tổng hợp những đơn vị ngôn ngữ khác nhau có trong dòng lời nói: âm vị, hình vị, từ, câu v.v. Kết quả là, học sinh nắm được ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ và hiểu nội dung câu nói. Thuật ngữ nghe hiểu dịch sang tiếng Anh là “Listen and Understand”. Trong dạy học ngoại ngữ, nghe hiểu thực hiện nhiều chức năng sư phạm khác nhau và được các nhà giáo học pháp đánh giá là một phương tiện dạy học quan trọng. Chính bản thân quá trình nghe và hiểu lời nói của người khác, đặc biệt là của người nước ngoài, đã có tác dụng kích thích học sinh tham gia vào hoạt động giao tiếp ở trên lớp, cũng như ở ngoài đời. Hoạt động nghe hiểu có tác động tích cực đến quá trình hình thành kĩ năng nói, đọc hiểu và viết. Kĩ năng nghe hiểu gắn liền với kĩ năng nói như hai thành tố không thể tách rời của hoạt động khẩu ngữ. Học sinh có kĩ năng nghe hiểu
- 238 PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGOẠI NGỮ THEO ĐƯỜNG HƯỚNG THỰC HÀNH GIAO TIẾP… tốt sẽ phát âm chính xác hơn và kĩ năng nói cũng hoàn hảo hơn. Thực tế cho thấy, học sinh không thể phát triển kĩ năng nói (Speaking Skills), nếu không có kĩ năng nghe hiểu (Listening Skills). Kĩ năng nghe hiểu đảm bảo cho học sinh trong quá trình giao tiếp khẩu ngữ có phản hồi nhanh, chuẩn xác, đảm bảo cho cuộc giao tiếp được kéo dài theo ý muốn. Đơn giản vì có hiểu lời nói của người cùng đối thoại, học sinh mới đáp lại nhanh và trúng ý của người nói. Điều đó làm cho những người tham gia đối thoại hoặc đàm thoại cảm thấy thoải mái, hiểu nhau và thích thú tiếp tục cuộc giao tiếp. Từ đó, giáo viên có thể thông qua kĩ năng nói trong quá trình giao tiếp để luyện và đánh giá kĩ năng nghe hiểu của học sinh. Kĩ năng nghe hiểu là bước chuẩn bị cho việc hình thành kĩ năng nói, ngược lại, kĩ năng nói thúc đẩy quá trình hình thành kĩ năng nghe hiểu. Ngoài ra, kĩ năng nghe hiểu còn giúp học sinh tự kiểm tra và hoàn thiện lời nói của mình ngày càng chuẩn xác hơn. Kĩ năng nghe hiểu có liên hệ chặt chẽ với kĩ năng đọc hiểu. Nghe hiểu và đọc hiểu đều thuộc dạng ngôn ngữ thu nhận, nên có nhiều đặc điểm tâm lí chung. Theo tâm lí học, đọc là quá trình chuyển dịch từ ngôn ngữ viết sang ngôn ngữ âm thanh: khi đọc, dù đọc thành tiếng hay đọc thầm, người đọc cũng có cảm giác dường như nghe thấy trong đầu vang lên một giọng nói kể lại nội dung văn bản đang đọc. Học sinh đọc nhiều bằng ngoại ngữ sẽ có khả năng nghe hiểu tốt hơn những học sinh ít đọc. Với tư cách là một bộ phận không thể thiếu của hoạt động lời nói, kĩ năng nghe hiểu giữ vai trò quan trọng trong quá trình dạy học ngoại ngữ theo đường hướng thực hành giao tiếp. Chúng ta không thể tưởng tượng học sinh sẽ giao tiếp thế nào, nếu không có kĩ năng nghe hiểu. Theo các nhà nghiên cứu, ước tính trong giao tiếp hàng ngày, con người nghe gấp 2 lần nói, gấp 4 lần đọc và gấp 5 lần viết (Weaver, 1972). Do đó, việc dạy học nghe hiểu phải được chú trọng ngay từ giai đoạn đầu học tập. Chương trình dạy học ngoại ngữ cho các trường đại học sư phạm và trường phổ thông ở Việt Nam chú ý nhiều đến dạy học ngữ pháp và đọc hiểu, nên trình độ thực hành nghe - nói của giáo viên ngoại ngữ và học sinh Việt Nam quá thấp so với
- Chương VII: Phương pháp dạy học kĩ năng nghe hiểu 239 chuẩn quốc tế. Năm 2012 nhiều địa phương đã tổ chức khảo sát năng lực tiếng Anh của giáo viên phổ thông. Kết quả cho thấy số giáo viên đạt chuẩn thấp đến mức khó hình dung: 97% giáo viên trung học phổ thông, 93% giáo viên tiểu học, trung học cơ sở không đạt mức chuẩn đã đề ra. Giám đốc sở Giáo dục - Đào tạo một tỉnh phía Nam nhận định: “Kĩ năng mà hầu hết giáo viên không đạt đó là nghe” (Báo Tuổi Trẻ, 11-6-2012). Mục đích dạy học nghe hiểu phụ thuộc vào mục đích chung của toàn khóa học và từng giai đoạn dạy học cụ thể. Ở giai đoạn đầu, mục đích dạy học nghe hiểu là luyện cho học sinh kĩ năng nghe hiểu những câu nói của người cùng đối thoại, những lời nói bằng ngoại ngữ của giáo viên ở trên lớp, những bài nói liền ý có độ dài không lớn, được tạo lập trên cơ sở những từ, những hiện tượng ngữ pháp quen thuộc và tốc độ nói ở mức trung bình. Đến giai đoạn nâng cao, mục đích dạy học nghe hiểu là hình thành và phát triển ở học sinh kĩ năng nghe hiểu nhanh, đúng nội dung chính, nắm được ý tưởng sâu xa hàm ẩn trong các câu nói của người cùng giao tiếp. Sinh viên, học sinh các trường chuyên ngoại ngữ phải hướng tới mục đích cao nhất là nghe hiểu những bài nói, những thông báo bằng ngoại ngữ thường được nghe trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày: các thông báo ở nơi công cộng (sân bay, ga xe lửa, bến ô tô buýt v.v.), các bài giảng của giáo viên nước ngoài, diễn thuyết của báo cáo viên, lời nói của nhân vật trong phim, các bản tin trên vô tuyến truyền hình, đài phát thanh v.v. (Schwartz, 1998). 2. Nội dung dạy học nghe hiểu 2.1. Cơ chế của hoạt động nghe hiểu Trong giao tiếp lời nói hằng ngày, các bộ phận cấu thành kĩ năng nghe hiểu hoạt động dường như đồng thời cùng một lúc, nên giáo viên và học sinh khó phát hiện ra cơ chế hoạt động của nó. Nhờ vào những thiết bị đặc biệt, các nhà khoa học đã xác định được chức năng, nhiệm vụ của từng công đoạn trong cơ chế của hoạt động nghe hiểu. Ai cũng biết, hoạt động nghe hiểu được bắt đầu từ việc nghe và cảm thụ âm thanh lời nói, trong quá trình đó, dựa vào cơ chế bắt
- 240 PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGOẠI NGỮ THEO ĐƯỜNG HƯỚNG THỰC HÀNH GIAO TIẾP… chước thầm, người nghe chuyển các biểu tượng âm thanh thành hành động phát âm không thành tiếng ở trong đầu, hay còn gọi là phát âm thầm. Hoạt động phát âm thầm, bắt chước theo những âm thanh nghe được trong dòng lời nói càng chuẩn xác bao nhiêu, thì người nghe hiểu nội dung câu nói càng chính xác bấy nhiêu. Thực tế cho thấy, học sinh chỉ có thể phát âm thầm một âm nào đó thật chuẩn xác, khi các em đã có kĩ xảo phát âm đúng âm đó trong lời nói thành tiếng. Cho nên, ở giai đoạn đầu giáo viên cần cho học sinh luyện tập để hình thành và phát triển kĩ năng nghe hiểu thông qua khẩu ngữ và đọc thành tiếng. Điều đó, một mặt, đảm bảo hình thành ở học sinh kĩ xảo phát âm đúng, mặt khác, giúp các em hình thành đường dây liên hệ vững chắc giữa âm thanh được nghe và hoạt động cấu âm phát ra âm thanh đó, vì trên thực tế, người nói cùng một lúc vừa phát ra câu nói, vừa nghe câu nói của chính mình. Trong thực tế dạy học ngoại ngữ, giáo viên được chứng kiến nhiều trường hợp, học sinh tự thấy âm hoặc từ chính mình phát ra không chuẩn xác, đã tự sửa chữa bằng cách phát âm lại để có được những âm thanh phát ra chuẩn xác hơn. Khi chưa có kinh nghiệm nghe hiểu, học sinh cứ tưởng câu nói bằng ngoại ngữ là một chuỗi âm thanh dày đặc, không thể phân chia được. Muốn hiểu nội dung câu nói, trước hết, học sinh phải biết phát hiện trong dòng lời nói những mắt xích riêng lẻ, với những đặc điểm riêng về từ vựng và ngữ pháp như ngữ đoạn, từ, nhóm từ, cụm từ. Có nắm được ý nghĩa của từng mắt xích và mối liên kết giữa các mắt xích ấy, học sinh mới nghe hiểu nội dung toàn câu nói. Chính cơ chế phân đoạn dòng lời nói sẽ giúp học sinh phát hiện ra các mắt xích trên. Một trong những yếu tố quan trọng của kĩ năng nghe hiểu là trí nhớ thính giác. Những học sinh có trí nhớ thính giác tốt, nói một cách khác là có tai âm nhạc, chỉ nghe giáo viên hoặc băng ghi âm phát ra câu nói 1 - 2 lần là có thể nhắc lại một cách chính xác. Khi nghe một câu nói, học sinh nào nhớ và lưu lại trong đầu những đơn vị có nghĩa càng lớn, thì việc nghe hiểu càng có hiệu quả. Ví dụ, hiệu quả nghe của một học sinh, khi nghe chỉ nhớ nghĩa của từng từ riêng lẻ sẽ không cao bằng những học sinh có trí nhớ thính giác tốt hơn, nghĩa là
- Chương VII: Phương pháp dạy học kĩ năng nghe hiểu 241 khi nghe một câu nói các em không chỉ nhớ nghĩa từng từ riêng lẻ, mà nhớ nghĩa của cả cụm từ, câu và một số câu liền ý. Cũng có học sinh có trí nhớ thị giác tốt, nhưng trí nhớ thính giác không tốt. Những học sinh này chỉ có thể bắt chước nhắc lại và hiểu câu nói, khi vừa nghe, vừa đọc câu nói dưới dạng chữ viết. Từ của ngoại ngữ thường có nhiều nghĩa, nên khi nghe, học sinh phải thực hiện một nhiệm vụ không hề đơn giản là vừa nghe, vừa xác định thật nhanh nghĩa nào của từ phù hợp với văn cảnh của câu. Trong quá trình nghe hiểu, khả năng dự đoán nội dung tiếp theo của câu hoặc của cả đoạn văn có ý nghĩa quan trọng. Thực tế cho thấy, một học sinh có kĩ năng nghe hiểu tốt, khi mới nghe phần đầu của một từ, một câu hoặc một đoạn văn, đã có thể dự đoán phần tiếp theo là gì. Ngoài dự đoán về nội dung, muốn nghe hiểu nhanh, học sinh còn phải có khả năng dự đoán về hình thái ngôn ngữ. Ví dụ, dù mới nghe phần đầu của câu nói: “Ngày mai, trong cuộc họp, chúng ta...”, học sinh đã có thể đoán ngay, tiếp theo phải là động từ vị ngữ ở ngôi thứ nhất số nhiều thì tương lai. Khả năng dự đoán không chỉ dựa vào hình thái cấu trúc của câu hoặc hình thái bên ngoài của từ, mà còn dựa vào nội dung khái quát của câu nói và đoạn văn. Để kết quả dự đoán có xác suất cao, học sinh phải dựa vào tình huống giao tiếp, văn cảnh cụ thể của câu nói, tính cách và thói quen ngôn ngữ của người nói, kinh nghiệm giao tiếp bằng ngoại ngữ của bản thân. Nói cách khác, học sinh phải biết vận dụng tất cả những yếu tố ngôn ngữ và ngoài ngôn ngữ trong quá trình nghe hiểu. Cuối cùng, yếu tố quan trọng nhất của kĩ năng nghe hiểu là các thao tác tư duy nhằm giải mã thông tin bằng ngôn ngữ thành nội dung ý nghĩa, tức là phải biết phân tích, bỏ qua những chi tiết riêng lẻ không quan trọng, giữ lại trong bộ nhớ những điều chính yếu, từ đó tìm ra nội dung mới mà người nói muốn truyền đạt. 2.2. Đơn vị dạy học nghe hiểu 2.2.1. Bài nghe là đơn vị dạy học nghe hiểu Trên thực tế, có thể luyện tập để hình thành kĩ năng nghe hiểu dựa trên những câu nói, thậm chí là những từ hoặc cụm từ đơn lẻ.
- 242 PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGOẠI NGỮ THEO ĐƯỜNG HƯỚNG THỰC HÀNH GIAO TIẾP… Nhưng muốn hình thành và phát triển kĩ năng nghe hiểu thực thụ theo đường hướng thực hành giao tiếp, đơn vị dạy học nghe hiểu phải là đơn vị lời nói gồm nhiều câu nói có nội dung liền ý, đó là văn bản nghe hay còn gọi là bài nghe (Aural Text). Những bài được sử dụng để dạy học nghe hiểu phải đáp ứng một số yêu cầu nhất định về ngôn ngữ và giáo học pháp. 2.2.2. Các yêu cầu đối với bài nghe Trước hết, bài nghe phải có nội dung hấp dẫn, phù hợp với trình độ ngoại ngữ, trình độ hiểu biết và tâm lí lứa tuổi của học sinh. Ví dụ, đối với những học sinh nhỏ tuổi mà cho các em nghe những bài có nội dung lí luận khô khan, phức tạp, chắc chắn các em sẽ chán không muốn nghe. Ngược lại, đối với học sinh lớn tuổi, ở giai đoạn nâng cao, mà cho nghe những bài quá dễ về ngôn ngữ và nội dung đơn giản như dạy cho học sinh tiểu học, thì các em cũng không hứng thú. Lời nói độc thoại và đối thoại có nhiều điểm khác nhau về ngôn ngữ học, tâm lí học cũng như nội dung thông báo. Cho nên, các bài được sử dụng để luyện kĩ năng nghe hiểu phải bao quát cả những bài độc thoại và đối thoại. Về chức năng ngữ nghĩa, các nhà giáo học pháp cho rằng, ban đầu nên cho học sinh nghe những bài được soạn theo phong cách kể chuyện, trình bày về các sự kiện cụ thể. Sau đó, giáo viên dần dần đưa vào chương trình dạy học những bài nghe thuộc các thể loại văn phong khác như: miêu tả, nghị luận, chứng minh. Ở giai đoạn nâng cao, giáo viên đưa vào chương trình dạy học các bài nghe có những đặc điểm về nội dung và cấu trúc ngôn ngữ giống như thực, đó là những bản thông báo trên sân bay, trên ga xe lửa, những bài nói trên đài phát thanh, vô tuyến truyền hình hoặc lời nói của các nhân vật trong phim v.v. Một yêu cầu quan trọng đối với nội dung tất cả các bài nghe, dù ở giai đoạn đầu hay giai đoạn nâng cao, là phải có thông tin mới. Bất cứ ai, khi nghe hoặc đọc một văn bản, đều có mong muốn được mở rộng tầm hiểu biết, được nhận thêm một điều gì đó mới mẻ. Nhưng, kết quả thực nghiệm lại chứng minh rằng, nếu nội dung bài nghe có
- Chương VII: Phương pháp dạy học kĩ năng nghe hiểu 243 quá nhiều thông tin mới, học sinh chưa được nghe bao giờ, thì tác dụng hoàn toàn ngược lại: không những không nâng cao hiệu quả nghe hiểu, mà còn làm học sinh mất tự tin, vì không kịp hiểu và nắm bắt những thông tin mới nối tiếp nhau trong từng câu của bài nghe. Thực tế đó cũng làm các em giảm hứng thú, không muốn nghe tiếp. Do đó, giáo viên nên sắp xếp những đoạn có nhiều thông tin mới, xen kẽ với những đoạn ít thông tin mới, nhiều thông tin quen thuộc. Những đoạn chứa nhiều thông tin quen thuộc tạo điều kiện cho học sinh có thời gian ngẫm nghĩ để hiểu thêm về những thông tin mới vừa được nghe ở đoạn trước. Nhiều trường hợp, do có thời gian ngẫm nghĩ trước khi nghe một thông tin mới, học sinh có thể phục hồi lại những điều vừa nghe và từ đó hiểu thêm về một vài chi tiết mà trước đó chưa hiểu hết. Tóm lại, một văn bản có quá nhiều thông tin mới, không những không nâng cao mà còn hạ thấp hiệu quả dạy học nghe hiểu, làm giảm hứng thú nghe của học sinh. Theo các nhà giáo học pháp, lượng thông tin mới và độ khó/ dễ của các hiện tượng ngôn ngữ trong một bài nghe chỉ nên ở mức vừa phải, phù hợp với trình độ ngoại ngữ và tư duy của học sinh. 2.2.3. Sắp xếp bài nghe và tốc độ đọc Ở giai đoạn đầu, giáo viên cho học sinh nghe những bài có độ dài không lớn, với nội dung cụ thể, dễ hiểu, các hiện tượng từ vựng, ngữ pháp trong bài nghe quen thuộc với các em. Dần dần, sau này, giáo viên cho các em nghe những bài có một số từ mới, nhưng không nên quá nhiều (chỉ vào khoảng trên dưới 3% tổng số từ của toàn bài). Từ mới có trong bài nghe sẽ góp phần làm tăng vốn từ vựng của học sinh, đồng thời giúp các em phát triển kĩ năng đoán nghĩa từ trong quá trình nghe hiểu. Theo các nhà tâm lí học, từ mới không nên để ở đầu câu hoặc đầu đoạn văn, vì điều đó gây khó khăn cho học sinh trong việc ghi nhớ và đoán nghĩa từ. Trước khi cho nghe, giáo viên giúp các em tháo gỡ những hiện tượng ngữ pháp, từ vựng khó sẽ gặp trong bài nghe. Tâm lí học đã chứng minh, việc sắp xếp ngữ liệu cũng như nội dung bài nghe hợp lí có thể nâng cao hiệu quả nghe hiểu lên tới 25%. Được luyện nhiều, học sinh sẽ dần dần có kinh nghiệm nghe, biết nắm bắt nội dung chính của bài và chắt lọc lấy những ý phù hợp
- 244 PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGOẠI NGỮ THEO ĐƯỜNG HƯỚNG THỰC HÀNH GIAO TIẾP… với mục đích nghe. Lúc đó, giáo viên có thể lựa chọn bài dạy nghe thoải mái hơn, nâng cao dần độ khó của các hiện tượng ngôn ngữ và tính đa dạng trong nội dung bài nghe. Tốc độ đọc bài nghe phù hợp với trình độ học sinh. Kết quả thực nghiệm cho thấy, tốc độ phát ra bài nghe trùng với tốc độ nói của học sinh là hợp lí. Tất nhiên, mục đích cuối cùng của dạy học là luyện cho học sinh nghe hiểu những bài được phát ra với tốc độ tương tự như phát thanh viên đọc trên đài. Ở giai đoạn đầu, tốc độ phát ra bài nghe có thể chậm hơn tốc độ bình thường, nhưng cũng không nên quá chậm, vì tốc độ quá chậm sẽ làm hỏng tính tự nhiên của lời nói, mặt khác còn cản trở các hoạt động của cơ chế lời nói. Trong trường hợp cần thiết, để tạo thuận lợi cho học sinh trong quá trình nghe hiểu, giáo viên có thể làm chậm tốc độ đọc bằng cách kéo dài thời lượng ngắt giọng giữa các ngữ đoạn hoặc giữa các câu. Một giáo viên ngoại ngữ có kinh nghiệm không đọc bài nghe với tốc độ và giọng điệu đều đều từ đầu đến cuối bài, mà trong quá trình đọc có thay đổi, lúc nhanh, lúc chậm, lúc nhấn mạnh, lúc bình thường. Giáo viên dùng tốc độ chậm để nhấn mạnh những nội dung quan trọng, ngược lại, đối với những thông tin ít quan trọng, có tính phụ trợ, minh họa cho nội dung chính, giáo viên đọc nhanh hơn. Trong cuộc sống thực ngoài đời, học sinh thường được nghe nhiều giọng nói phát ra từ nhiều nguồn khác nhau. Ở giai đoạn đầu, chính lời nói sinh động của giáo viên là nguồn chủ yếu phát ra những câu, những bài nói bằng ngoại ngữ để học sinh nghe. Sau đó, theo nguyên tắc tăng dần độ khó, giáo viên cho các em nghe những lời thuyết minh trong phim đèn chiếu. Nếu có hình ảnh minh họa kèm theo lời thuyết minh, thì càng tốt, vì điều đó cho phép giáo viên định lượng và quản lí độ khó/ dễ của ngữ liệu trong bài nghe. Tiếp theo, giáo viên cho nghe băng ghi âm, nghe lời nói của phát thanh viên trên đài phát thanh, đài truyền hình và lời thoại của các nhân vật trong phim truyện. Trước hết, các bài nghe trong băng ghi âm nên do chính giáo viên với giọng nói quen thuộc đọc cho các em nghe. Sau đó, dần dần cho nghe giọng nói của những người khác. Nên nhớ, giọng nam trầm bao giờ cũng giúp học sinh khi nghe ít mệt hơn giọng nữ và giọng nói của trẻ con.
- Chương VII: Phương pháp dạy học kĩ năng nghe hiểu 245 Cho đến nay, trong giáo học pháp vẫn chưa có ý kiến thống nhất về số lần cho học sinh nghe để hiểu văn bản. Một số nhà giáo học pháp cho rằng, nên cho học sinh nghe hai lần. Sau khi cho nghe lần đầu, giáo viên kiểm tra sơ bộ mức độ hiểu của học sinh. Trước khi cho nghe lần thứ hai, giáo viên đặt thêm nhiệm vụ nhằm hướng chú ý của các em vào việc hiểu sâu hơn và nắm bắt nhiều hơn các thông tin có trong bài nghe. Một số nhà giáo học pháp khác lại cho rằng, trong giao tiếp thực ngoài đời, người nghe bắt buộc phải hiểu lời nói của người khác hoặc của phát thanh viên ngay sau lần nghe đầu tiên. Do đó, không nên cho học sinh nghe nhiều lần, tạo cho các em một thói quen không tốt là phải được nghe đến lần thứ hai mới hiểu. Hơn nữa, trong giao tiếp thực ngoài đời (Real-life Communication), học sinh hầu như không có khả năng được nghe một câu nói hay một đoạn văn tới hai lần, trong cùng một thời điểm. Do đó, các em bắt buộc phải hiểu lời nói ngay sau khi nghe lần đầu. Là giáo viên ngoại ngữ, chúng ta mong muốn học sinh của chúng ta hiểu ngay sau lần nghe đầu tiên. Nhưng thực tế dạy học cho thấy, mục đích đó chỉ có thể đạt được với điều kiện các hoạt động trước khi nghe được thực hiện nghiêm túc, nhằm nâng cao khả năng nghe hiểu và giải quyết các hiện tượng ngôn ngữ khó trước khi cho nghe. Chính vì thế, có nhà giáo học pháp cho rằng, không nên quy định một cách cứng nhắc về số lần cho học sinh nghe. Nên để giáo viên, người trực tiếp giảng dạy, được quyền quyết định cuối cùng. Tùy từng trường hợp cụ thể, tùy theo điều kiện dạy học, đối tượng học sinh và giai đoạn dạy học, giáo viên sẽ giải quyết vấn đề này theo những cách khác nhau, nhưng cuối cùng phải đạt được mục đích dạy cho học sinh có kĩ năng nghe hiểu lời nói ngay sau lần nghe đầu tiên. 2.3. Các loại nghe hiểu Trong cuộc sống, chúng ta thường gặp hai loại nghe: nghe không có chủ ý và nghe có chủ ý. 2.3.1. Nghe không có chủ ý Nhiều khi, trong cuộc sống, chúng ta nghe, nhưng không tập trung chú ý vào nghe, nghe cho vui, nghe được đến đâu hay đến đó,
- 246 PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGOẠI NGỮ THEO ĐƯỜNG HƯỚNG THỰC HÀNH GIAO TIẾP… không có mục đích cụ thể. Các nhà giáo học pháp gọi loại nghe này là nghe không có chủ ý (Casual Listening) (Doff, 1989). Ví dụ, chúng ta nghe đài, trong khi đang làm một việc gì đó, đang "chat" với bạn trên máy tính chẳng hạn. Trong trường hợp này, chúng ta chỉ nghe loáng thoáng và nghe xong có thể không nhớ hết nội dung vừa nghe, trừ khi trong bản tin trên đài phát thanh hoặc truyền hình có một nội dung nào đó làm chúng ta quan tâm. 2.3.2. Nghe có chủ ý Bình thường bao giờ chúng ta cũng nghe với một mục đích cụ thể, nhằm tìm hiểu những thông tin chúng ta đang quan tâm. Các nhà giáo học pháp gọi loại nghe này là nghe có chủ ý (Focussed Listening). Ví dụ, chúng ta nghe một bản tin quan trọng trên đài phát thanh, nghe giải thích các thao tác sử dụng một loại máy gia dụng mà chúng ta cần biết, sinh viên, học sinh nghe giáo viên giảng bài, v.v. Trong trường hợp này, chúng ta nghe chăm chú, cố đạt được mục đích đã đề ra. Tuy vậy, khi nghe, chúng ta thường tập trung chú ý chủ yếu vào những nội dung quan trọng, những thông tin cốt lõi, không phân đều chú ý vào tất cả các chi tiết trong bài nghe. Thường thường, trước khi nghe, chúng ta đã xác định nghe để làm gì, nghe để nắm được điều chúng ta đang muốn biết, chính mục đích đó thúc đẩy chúng ta tập trung chú ý nghe. Trong thực tế dạy học ngoại ngữ, loại nghe thứ hai có vai trò quan trọng, vì trong lớp học, khi cho học sinh nghe bao giờ giáo viên cũng giao nhiệm vụ và yêu cầu chú ý nghe, nhớ nội dung bài nghe để sau đó thực hiện các bài tập được giao. Nếu giáo viên yêu cầu học sinh nghe, nhưng chưa giao nhiệm vụ cụ thể, thì hiệu quả nghe hiểu sẽ không cao. Do đó, trước khi cho nghe, giáo viên giao nhiệm vụ, nêu câu hỏi các em phải trả lời sau khi nghe. Biết mục đích và nhiệm vụ phải thực hiện, các em sẽ tập trung chú ý nghe và cố gắng nắm được những nội dung theo đúng yêu cầu của giáo viên. Về phương pháp đặt câu hỏi hướng dẫn và giao nhiệm vụ trước khi nghe tác giả sẽ trình bày ở mục “Phương pháp dạy học nghe hiểu”.
- Chương VII: Phương pháp dạy học kĩ năng nghe hiểu 247 3. Phương pháp dạy học nghe hiểu 3.1. Nhiệm vụ dạy học nghe hiểu Nghe hiểu là một dạng của hoạt động lời nói, tạo nền cho giao tiếp khẩu ngữ. Quá trình nắm vững giao tiếp khẩu ngữ được bắt đầu từ nghe hiểu. Nghe hiểu được hình thành trên cơ sở kĩ năng khu biệt những âm đã được tiếp nhận, kết nối các âm thành những tổ hợp có nghĩa, ghi nhớ các tổ hợp có nghĩa trong suốt thời gian nghe, đoán trước những điều sắp nghe và cuối cùng hiểu nội dung, ý nghĩa toàn bộ chuỗi âm thanh nghe được. Như vậy, nghe hiểu với tư cách là một dạng hoạt động lời nói, được hình thành nhờ các kĩ năng và mỗi kĩ năng lại được hình thành trên cơ sở các kĩ xảo hay còn gọi là cận kĩ năng (Sub-skills) cụ thể. Nghe hiểu không đơn thuần là nghe thấy âm thanh, mà điều quan trọng là giải mã âm thanh (“Decoding” Sounds) và hiểu ý nghĩa ẩn sau những âm thanh đó (Vaysburg, 1965; Ur, 1984). Khi dạy học nghe hiểu bằng ngoại ngữ, chúng ta phải luyện kĩ năng nghe hiểu nội dung lời nói hoặc bài nói. Để đạt được mục đích cao nhất đó, học sinh phải thực hiện hàng loạt những nhiệm vụ cụ thể, nhằm hình thành nhiều kĩ xảo khác nhau. Giáo học pháp phân loại các nhiệm vụ nghe hiểu thành ba nhóm chính. Nhóm một gồm những nhiệm vụ có chức năng hình thành ở học sinh kĩ năng, kĩ xảo ngữ âm, tức là khả năng nhận biết, phân biệt các âm, nhận biết sắc thái biểu cảm và ý nghĩa ẩn chứa trong giọng nói, phong cách nói, ngữ điệu của người nói. Ví dụ, dựa vào phong cách nói học sinh biết câu nói mang tính trang trọng hay thân mật, qua giọng nói các em biết người nói đang tức giận, phấn khích hay bình tĩnh, qua cách phát âm học sinh phân biệt được đó là tiếng Anh kiểu chính thống của người Anh hoặc tiếng Anh kiểu Mĩ. Có khả năng nhận biết và phân biệt các âm trong dòng lời nói. Ví dụ, khi nghe cặp từ tiếng Anh “pig” và “pik”, học sinh phải phân biệt được sự khác nhau giữa các âm [g] và [k]. Giữa hai từ này chỉ có một âm khác nhau, nên được gọi là cặp tối thiểu (Minimal Pairs). Một số ví dụ khác về cặp từ tối thiểu: click (tiếng lách cách) và clock (đồng hồ), mud (bùn lầy) và mad (điên dại), sun (mặt trời) và run (chạy). Khi
- 248 PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGOẠI NGỮ THEO ĐƯỜNG HƯỚNG THỰC HÀNH GIAO TIẾP… nghe người nói phát âm những từ như ask, half, last, dance, France với âm [ᴂ] không kéo dài thay cho âm [α:] kéo dài, hoặc phát âm các từ ∧], học sinh phải biết đó là cách phát shop, hot, stop, modern với âm [∧ âm của tiếng Anh - Mĩ. Trong tiếng Anh, ngoài trật tự từ, ngữ điệu của câu nói cũng có chức năng giúp người nghe phân biệt câu hỏi với câu tường thuật. Ví dụ, trong câu: “I'm in time [ ]” với ngữ điệu xuống giọng người nghe biết, đây là câu tường thuật có nghĩa: "Tôi đến đúng giờ”, nhưng nếu nghe thấy ngữ điệu lên giọng “I'm in time [ ]?”, học sinh sẽ hiểu, đây là câu hỏi: “Tôi đến đúng giờ phải không?”. Khi nghe câu: “Your father[ ]gave you the money.” với ngữ điệu xuống giọng ở phần cuối, học sinh hiểu, đây là câu kể với nghĩa: “Bố cậu đã cho cậu tiền”, nhưng nếu ngữ điệu lên giọng đột ngột ở cụm từ Your father [ ] gave you the money?”, học sinh phải hiểu đây là câu hỏi với nghĩa “Bố cậu đã cho cậu tiền, đúng không?”. Nhóm hai gồm những nhiệm vụ có chức năng hình thành ở học sinh kĩ năng, kĩ xảo từ vựng, tức là khả năng khi nghe một câu nói bằng ngoại ngữ, dựa vào các yếu tố ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, các em có thể nhận biết, phân biệt, hiểu nghĩa và chức năng của các từ trong câu. Ví dụ, nghe câu: Would you please pick the phone up?, học sinh phải biết: pick là động từ thực hiện chức năng vị ngữ, còn phone là danh từ làm bổ ngữ trực tiếp trong câu. Câu này có nghĩa: “Xin ông cầm ống nghe lên?”. Kĩ năng từ vựng đòi hỏi học sinh phải biết dựa vào ngữ cảnh và cấu trúc ngữ pháp của câu để đoán nghĩa những từ chưa biết, xác định đúng những từ “chìa khoá” biểu đạt nội dung chính của câu và những từ chỉ có ý nghĩa phụ trợ, có thể nghe lướt qua. Ví dụ, trong câu “The policeman hit the man with a billy club”, “billy” là một từ mới, từ “a club” (cái gậy) học sinh đã biết. Trong trường hợp này, dựa vào ngôn cảnh toàn câu, dù không biết nghĩa của từ “billy”, học sinh cũng có thể đoán “a billy club” nghĩa là “dùi cui”, cái gậy cảnh sát thường dùng. Do đó, các em có thể nghe lướt qua, không cần tìm nghĩa của từ “billy”, vì nó không ảnh hưởng lớn đến nghĩa chung của toàn câu. Ở lĩnh vực từ vựng, nhiều từ cùng biểu đạt một sự vật, nhưng từ Anh-Mĩ viết và đọc khác hẳn so với từ Anh-Anh. Ví dụ: toa hành
- Chương VII: Phương pháp dạy học kĩ năng nghe hiểu 249 khách trên xe lửa: railway carriages (tiếng Anh-Anh), cars (tiếng Anh- Mĩ); nhà ga xe lửa: railway station (tiếng Anh-Anh), depot (tiếng Anh- Mĩ); cửa hàng: shop (tiếng Anh-Anh), stores - (tiếng Anh-Mĩ); mùa thu: autumn (tiếng Anh-Anh), fall (tiếng Anh-Mĩ); xe điện ngầm: underground (tiếng Anh-Anh), subway (tiếng Anh-Mĩ). Ngay trong giáo dục, tên gọi các trường, lớp theo tiếng Anh-Anh và Anh-Mĩ cũng có nhiều khác biệt. Ví dụ, trường trung học theo tiếng Anh-Anh là secondary school, nhưng theo tiếng Anh-Mĩ lại là high school (Xinko, 1992). Khi nghe một bài bằng tiếng Anh học sinh phải nhận biết và hiểu được những điểm khác biệt đó. Ngôn ngữ được sử dụng trong giao tiếp không phải là những từ hoặc cụm từ riêng lẻ. Mỗi bài nói, mỗi phát ngôn đều được nói ra trong một ngữ cảnh cụ thể bao gồm nhiều từ, câu, thậm chí nhiều đoạn văn được nối với nhau thành một khối ngữ nghĩa thống nhất nhờ những từ gắn kết (Cohesive Words). Từ gắn kết có thể là một đại từ nhân xưng, có chức năng thay thế cho một danh từ đã dùng ở câu trước. Ví dụ, trong câu: Last week my sister sent me a letter. She had good news to share with me about her new job, đại từ nhân xưng She ở câu sau thay thế cho danh từ sister ở câu trước có chức năng gắn kết hai câu nói làm thành một chuỗi câu liền ý. Trong tiếng Anh từ nối (Connectors) có thể là số từ, trạng từ, liên từ như: first (thứ nhất), second (thứ hai), finally (cuối cùng), therefore (cho nên), but (nhưng), if … then (nếu.. thì) v.v. Khi nghe, nếu không nắm được chức năng của những từ liên kết, học sinh sẽ không hiểu đúng và nhanh nội dung khái quát của toàn đoạn văn. Nhóm ba gồm các nhiệm vụ có chức năng hình thành ở học sinh kĩ năng, kĩ xảo ngữ pháp, tức là khả năng nhận biết, phân biệt các cấu trúc câu, hiểu chức năng, ý nghĩa của chúng trong lời nói. Ví dụ, khi nghe câu nói: Would you please pick the phone up?, học sinh phải hiểu cách nói Would you kèm theo từ please (Would you please…) trong tiếng Anh dùng để biểu đạt lời yêu cầu đề nghị một cách lịch sự. Trong lĩnh vực ngữ pháp, giữa tiếng Anh-Anh và Anh-Mĩ cũng có những khác biệt nhất định. Ví dụ, người Mĩ dùng will kết hợp với tất cả các ngôi của chủ thể, kể cả ngôi thứ nhất để biểu đạt hành động
- 250 PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGOẠI NGỮ THEO ĐƯỜNG HƯỚNG THỰC HÀNH GIAO TIẾP… ở thì tương lai: I will be disappointed hoặc dùng do như một trợ động từ ngay cả khi đi với động từ to have: Do you have time now?; I do not have any brothers or sisters. Học sinh phải nhận biết những khác biệt đó để không bị lúng túng khi nghe những câu nói bằng tiếng Anh theo kiểu Mĩ. Tóm lại, các nhiệm vụ trong nhóm ba yêu cầu học sinh phải nghe và hiểu chức năng ý nghĩa của các cấu trúc cú pháp, những kiểu câu khác nhau: câu tường thuật, câu mệnh lệnh. Tất cả các nhiệm vụ trong ba nhóm trên đều hướng tới mục đích cao nhất của dạy học nghe là hiểu nhanh và đúng câu nói hoặc bài nói của người khác trong giao tiếp. Dựa vào mục đích của hoạt động nghe, các nhà giáo học pháp phân biệt nhiều loại nghe hiểu khác nhau: 1) Nghe lướt để hiểu ý chính (Skimming) Trong cuộc sống, nhiều khi người ta nghe nhưng không đặt mục đích phải hiểu từng từ, từng chi tiết cụ thể trong bài nghe, mà chỉ muốn nắm được ý chính. Kĩ năng này được gọi là nghe lướt (Skimming). Khi nghe lướt qua một bản tin, chương trình phát thanh người ta chỉ nắm được những tin chính, không đi vào chi tiết. Khi kiểm tra trình độ học sinh nghe lướt để hiểu ý chính giáo viên đặt câu hỏi: • What is the main idea of what you are hearing? (Ý chính của bài các em vừa nghe là gì?) 2) Nghe để lấy thông tin (Scanning) Trong nhiều trường hợp chúng ta nghe chỉ để lấy thông tin cần biết. Loại nghe này gọi là nghe để lấy thông tin (Scanning). Ở đây, người nghe không nhất thiết phải hiểu tất cả các từ, các câu trong bài nghe, thậm chí không quan tâm đến nội dung khái quát toàn bài nghe, mà chú ý nghe để lấy thông tin mà người nghe đang muốn biết. Trong cuộc sống, có trường hợp nhiều người cùng nghe một bài, nhưng mỗi người quan tâm đến một nội dung khác nhau. Ví dụ, cùng nghe bản tin thời tiết, phát thanh viên thông báo nhiệt độ ở nhiều tỉnh thành trong cả nước, nhưng người Hà Nội chú ý nghe chỉ để biết nhiệt độ ngày mai ở Hà Nội, còn người Thành phố Hồ Chí Minh thì nghe để nắm được nhiệt độ ở Thành phố Hồ Chí Minh. Khi giáo viên đọc danh sách các học sinh được phân công chịu trách
- Chương VII: Phương pháp dạy học kĩ năng nghe hiểu 251 nhiệm về từng việc cụ thể chuẩn bị cho Dạ hội tiếng tiếng Anh vào ngày chủ nhật. Cả lớp cùng nghe, nhưng mỗi em chỉ chú ý nghe tên mình và những công việc mình được phân công. 3) Nghe hiểu đầy đủ (Listen and Understand) Kĩ năng nghe hiểu đầy đủ đòi hỏi học sinh không những nắm được ý chính của bài nghe, mà phải nắm được đầy đủ, chi tiết toàn bộ nội dung và hình thái ngôn ngữ của bài. Trong thực tế dạy học ngoại ngữ, muốn học sinh đạt được mục đích nghe hiểu đầy đủ, giáo viên phải vận dụng kết hợp dạy nghe lướt, nghe lấy thông tin với nhiều thủ thuật dạy nghe khác như: nghe và đoán trước nội dung bài nghe (Predicting Listening); nghe và tóm tắt nội dung bài nghe (Summarising Listening) bằng một lượng từ nhất định (khoảng 25, 50 hoặc 100 từ); nghe có phê phán (Critical Listening) đòi hỏi học sinh phải hiểu và phát biểu ý kiến đồng ý/ không đồng ý với nội dung bài nghe, đồng tình/ không đồng tình với hành động của các nhân vật trong bài nghe v.v. Phương pháp luyện kĩ năng nghe hiểu đầy đủ thường được vận dụng kết hợp để luyện các kĩ năng giao tiếp khác. Ví dụ, sau khi cho nghe, giáo viên yêu cầu từng cặp học sinh hỏi đáp theo nội dung bài nghe, kể hoặc viết bài tường thuật lại nội dung bài nghe. Phương pháp kết hợp không những tạo điều kiện cho giáo viên kiểm tra trình độ nghe hiểu, mức độ nắm các kiến thức ngôn ngữ (từ vựng, ngữ pháp) của học sinh, mà còn góp phần luyện cho các em kĩ năng nói, viết bằng ngoại ngữ. Tóm lại, mục đích của mỗi loại nghe hiểu có thể khác nhau, nhưng tất cả đều hướng tới mục đích cao nhất là luyện kĩ năng nghe hiểu lời nói tự nhiên trong các tình huống giao tiếp thực, thường gặp trong cuộc sống. Đó là nghe hiểu những thông báo bằng ngoại ngữ ở nơi công cộng như: sân bay, ga tàu hỏa, bến ô tô đường dài, lời chỉ đường của người dân gặp trên phố, lời giải thích, nhắc nhở của bác sĩ đối với bệnh nhân, cao hơn nữa là nghe hiểu bản tin trên đài phát thanh, truyền hình v.v. Để đạt được mục đích này, các tình huống dạy nghe hiểu ở trên lớp phải giống hoặc gần giống tình huống nghe hiểu có thực trong cuộc sống. Nhiều giáo viên ngoại ngữ đã ghi âm những câu nói trên đường phố, những thông báo thực bằng ngoại ngữ trong cuộc sống hằng ngày, những bài nói trên vô tuyến truyền
- 252 PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGOẠI NGỮ THEO ĐƯỜNG HƯỚNG THỰC HÀNH GIAO TIẾP… hình, sau đó, phát lại và luyện cho học sinh nghe trong giờ học. Thực tế cho thấy, nếu trên lớp được luyện nghe băng ghi âm những lời nói tự nhiên như vậy, thì sau này, nếu gặp những tình huống nghe hiểu tương tự trong cuộc sống, các em sẽ không bị lúng túng và kĩ năng nghe hiểu được hình thành trên lớp sẽ dễ dàng chuyển thành kĩ năng nghe hiểu thực thụ trong giao tiếp ngoài đời. Nghe hiểu là một dạng hoạt động lời nói khó, muốn có kĩ năng, học sinh phải kiên trì luyện tập theo đúng các nguyên tắc của giáo học pháp hiện đại. 3.2. Các nguyên tắc dạy học nghe hiểu (Principles for Teaching Listening) Để thực hiện những nhiệm vụ và mục đích vừa nêu trên, việc dạy học nghe hiểu ở trường phổ thông cũng như đại học phải nghiêm túc tuân thủ một số nguyên tắc dạy học cơ bản sau. (Forseth, 1994; Nguyễn Hạnh Dung, 2002): 3.2.1. Hoạt động nghe phải hướng tới hiểu nội dung (Maining-based Tasks) Hoạt động nghe trong giờ ngoại ngữ được định hướng rõ ràng thông qua các kiểu bài tập và nhiệm vụ giáo viên giao cho học sinh thực hiện trước, trong và sau khi nghe. “Các nhiệm vụ nghe trong giờ học phải gắn với yêu cầu hiểu nội dung câu nói hoặc đoạn văn” (Ur,1984). Giáo viên không đưa ra những nhiệm vụ nghe hoàn toàn mang tính hình thức, không gắn với hiểu nội dung như: “What word do you hear? a) dog - b) log” (Hãy nghe và xác định đã nghe thấy từ nào dog hay log?). Nhiệm vụ giao cho học sinh trong bài tập này hoàn toàn mang tính hình thức. Học sinh không cần hiểu nội dung câu nói, chỉ nghe, nhận biết và phân biệt các âm "d" và "l", qua đó phân biệt được hai từ "dog" (con chó) và "log" (khúc gỗ mới đốn) là đạt yêu cầu. Cũng với những ngữ liệu và nhiệm vụ nghe như trên, giáo viên thay đổi yêu cầu, thì khi nghe, học sinh đã phải chú ý đến nội dung, nếu chỉ quan tâm đến hình thái âm thanh, không hiểu nội dung các em sẽ không hoàn thành nhiệm vụ. Ví dụ: “Circle the definition for the word you hear” (Hãy khoanh tròn lời giải thích nào phù hợp với nghĩa của từ các em vừa nghe được trong câu):
- Chương VII: Phương pháp dạy học kĩ năng nghe hiểu 253 a) a small animal that lives with people (con vật nhỏ thường sống cùng với người). b) the trunk of a tree cut down (phần còn lại của cây sau khi bị đốn). Trong thực tế dạy học, ở giai đoạn đầu, khi trình độ ngoại ngữ của học sinh còn thấp, giáo viên có thể sử dụng kiểu bài tập phân biệt (Discrimination Exercises) những từ vừa nghe, nhưng, nói chung, đường hướng giao tiếp đòi hỏi nhiệm vụ nghe phải gắn với hiểu nội dung ở những mức độ khác nhau. Nhiệm vụ hiểu nội dung bao giờ cũng chiếm tỉ trọng cao và được nhấn mạnh nhiều hơn nhiệm vụ ghi nhớ và nhắc lại những âm thanh vừa nghe. 3.2.2. Hướng dẫn trước khi cho nghe (Listening Tasks before Presenting) Hoạt động nghe hiểu trong giờ ngoại ngữ thường là nghe có chủ ý nhằm đạt được mục đích học tập đã đề ra, ít khi là nghe để giải trí thuần tuý, không có chủ ý, nên trước khi cho nghe, giáo viên cần dẫn dắt (Lead-in), hướng chú ý của học sinh vào nghe hiểu những nội dung quan trọng của bài. Giáo viên có thể vận dụng nhiều thủ thuật hướng dẫn khác nhau: giới thiệu cảnh huống diễn ra các sự kiện trong bài nghe, nêu câu hỏi tạo trí tò mò, gây hứng thú nghe, cùng học sinh thảo luận ngắn gọn về chủ điểm của bài nghe, đặt câu hỏi hướng chú ý của các em vào những nội dung cần thiết để có thể thực hiện bài tập sau khi nghe v.v. Trước khi cho nghe, giáo viên giải thích nghĩa của một số từ mới sẽ gặp trong bài nhằm giúp các em giảm bớt khó khăn về ngôn ngữ, tập trung chú ý vào nghe hiểu nội dung. Tuy vậy, không nên biến việc giải thích nghĩa từ trước khi nghe thành “mục” dạy từ mới. 3.2.3. Bài nghe phải đa dạng và chuẩn xác về ngôn ngữ (Variety of Types of Texts) Bài nghe được sử dụng để dạy học phải đa dạng, thuộc nhiều thể loại khác nhau: độc thoại, đối thoại, bản tin trên đài phát thanh hoặc truyền hình, bài hát, những mẩu chuyện vui (Humors/ Jokes), những chuyện kể hoặc bài tường thuật (Narratives) v.v. Nguồn phát
- 254 PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGOẠI NGỮ THEO ĐƯỜNG HƯỚNG THỰC HÀNH GIAO TIẾP… ra bài nghe cũng cần đa dạng với nhiều giọng nói khác nhau: giọng nam, giọng nữ, giọng cao/ thấp, giọng người lớn/ trẻ em v.v. Trong thực tế dạy học, nguồn phát có thể là thầy, cô giáo trực tiếp nói hoặc băng ghi âm. Dù trong trường hợp nào bài nghe cũng phải đảm bảo chất lượng âm thanh rõ ràng, âm lượng đủ nghe, tốc độ đọc ổn định, phù hợp với trình độ học sinh, không quá nhanh hoặc quá chậm. Bài nghe đảm bảo chuẩn xác về ngôn ngữ: nội dung phù hợp với lứa tuổi học sinh, có tính giáo dục, có thông tin mới góp phần mở rộng tầm hiểu biết của học sinh. Ở giai đoạn nâng cao, nhất là ở các trường, lớp chuyên ngoại ngữ, nên tăng cường cho học sinh nghe những bài có thực, gần gũi với tình huống nghe ở ngoài đời (Authentic (Real) Texts). Ví dụ, nghe băng ghi âm các bản tin, những cuộc phỏng vấn trên đài truyền hình của Mĩ (The Voice of America), của Anh (BBC - British Broadcasting Corporation). Dạy nghe thông qua những bài ghi âm trực tiếp từ cuộc sống thực tạo điều kiện cho học sinh được làm quen với đủ các giọng nói, các phong cách và kiểu ngữ điệu khác nhau, với các loại tiếng ồn làm nền (Background Noise), những chỗ ngừng nghỉ, ngắt đoạn rất tự nhiên do những câu hỏi hoặc lời nói của người khác xen vào. 3.2.4. Đảm bảo nguyên tắc sư phạm đi từ dễ đến khó Luyện kĩ năng nghe hiểu không được nóng vội, phải kiên trì thực hiện đầy đủ các bước dạy nghe, đảm bảo đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Vi phạm nguyên tắc sư phạm này, giáo viên không những không đạt kết quả mong muốn, mà còn gây cho học sinh cảm giác sợ nghe và giảm hứng thú với các hoạt động nghe trên lớp. Ví dụ, nếu giáo viên chưa thực hiện các hoạt động trước khi nghe giúp học sinh giải quyết các khó khăn về ngôn ngữ, đã vội cho các em nghe và đặt câu hỏi kiểm tra trình độ nghe hiểu, các em sẽ lúng túng, nhiều trường hợp không trả lời được. Ở giai đoạn đầu, trình độ ngoại ngữ của học sinh còn thấp, giáo viên cho nghe những bài có nội dung cụ thể, đơn giản, ít từ mới, ít hiện tượng ngữ pháp phức tạp, tốc độ đọc vừa phải, đến giai đoạn nâng cao mới cho nghe những bài khó hơn, phức tạp hơn và tốc độ đọc nhanh hơn. Về số lần cho học sinh
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giao tiếp khoa học
175 p | 894 | 397
-
Giáo trình Giao tiếp với trẻ em: Phần 1- Nguyễn Văn Lũy, Trần Thị Tuyết Hoa
31 p | 541 | 105
-
Bài giảng Giao tiếp sư phạm - ThS. Đặng Thị Vân
27 p | 294 | 69
-
Giáo trình Giao tiếp sư phạm: Phần 2
105 p | 255 | 58
-
Thực trạng giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
8 p | 456 | 31
-
Thực hành kỹ năng giao tiếp ứng dụng tâm lý học (Tập 1): Phần 1
127 p | 32 | 18
-
Bài giảng tiếng Việt thực hành - ĐH Phạm Văn Đồng
66 p | 110 | 17
-
Thực hành kỹ năng giao tiếp ứng dụng tâm lý học (Tập 1): Phần 2
109 p | 33 | 15
-
Ý nghĩa hàm ẩn trong giao tiếp mua bán - Cấu trúc lựa chọn: Phần 1
159 p | 37 | 10
-
Ngôn ngữ giao tiếp trong hôn lễ của người Nam Bộ qua một số nghi lễ, nghi thức
10 p | 141 | 9
-
Giao tiếp mua bán - cấu trúc lựa chọn với ý nghĩa hàm ẩn: Phần 1
174 p | 14 | 7
-
Bình diện ngữ dụng học trong giao tiếp mua bán: Phần 1
87 p | 21 | 7
-
Lấy ý kiến phản hồi về việc xây dựng mạng lưới liên kết các trường mầm non thực hành tại các cơ sở đào tạo giáo viên mầm non
11 p | 32 | 5
-
Thực trạng nhận thức về hành vi giao tiếp có văn hóa trong học đường của sinh viên trường Cao đẳng sư phạm Nam Định
5 p | 77 | 5
-
Thực trạng kiến thức và thực hành của giáo viên khu vực miền Trung về giáo dục STEAM cho trẻ mẫu giáo
10 p | 12 | 4
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc giáo dục: Kết hợp giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong thực hành giáo dục và yêu cầu đặt ra hiện nay
3 p | 86 | 2
-
Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động thực hành sư phạm của sinh viên ngành giáo dục mầm non theo tiếp cận năng lực
9 p | 6 | 2
-
Thực trạng hành vi giao tiếp có văn hóa của sinh viên trường Đại học Tài chính – Marketing
9 p | 9 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn