intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thực thi quyền phụ nữ ở Việt Nam - Tiếp cận từ mục tiêu phát triển bền vững

Chia sẻ: Phó Cửu Vân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

6
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Thực thi quyền phụ nữ ở Việt Nam - Tiếp cận từ mục tiêu phát triển bền vững" đưa ra quan niệm, thực chất và nội dung thực hiện quyền phụ nữ ở Việt Nam, chỉ ra sự tác động của SDGs đến việc thực thi quyền phụ nữ trong quá trình toàn cầu hóa. Bằng phương pháp nghiên cứu tiếp cận từ Mục tiêu phát triển bền vững, tác giả phân tích tính tất yếu khách quan cần phải thực hiện triệt để quyền phụ nữ như đã cam kết, đồng thời, kiến nghị, đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu này ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập và phát triển bền vững. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thực thi quyền phụ nữ ở Việt Nam - Tiếp cận từ mục tiêu phát triển bền vững

  1. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững THỰC THI QUYỀN PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM - TIẾP CẬN TỪ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Trần Quốc Cường Tóm tắt: Thực thi quyền phụ nữ là nội dung thứ 3 trong Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG), là mục tiêu thứ 5 trong Chương trình nghị sự 2030 vì Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs) đối với tất cả các quốc gia trong cộng đồng Liên Hợp quốc. Tại Việt Nam, bảo đảm quyền phụ nữ là cam kết để thực hiện có hiệu quả mục tiêu này. Mục tiêu nghiên cứu của bài báo là đưa ra quan niệm, thực chất và nội dung thực hiện quyền phụ nữ ở Việt Nam, chỉ ra sư tác động của SDGs đến việc thực thi quyền phụ nữ trong quá trình toàn cầu hóa. Bằng phương pháp nghiên cứu tiếp cận từ Mục tiêu phát triển bền vững, tác giả phân tích tính tất yếu khách quan cần phải thực hiện triệt để quyền phụ nữ như đã cam kết, đồng thời, kiến nghị, đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu này ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập và phát triển bền vững. Từ khóa: Phụ nữ, phát triển bền vững, thiên niên kỷ, Liên Hợp quốc, SDGs. 1. MỞ ĐẦU Nghiên cứu về thực hiện quyền phụ nữ ở Việt Nam cho đến nay đã có nhiều công trình công bố ở nhiều cách tiếp cận khác nhau như: Tiếp cận từ góc độ Hồ Chí Minh học, tiếp cận từ chính trị học, khoa học gia đình và giới,… tuy nhiên, tiếp cận từ Mục tiêu phát triển bền vững như trong Chương trình nghị sự 2030 đã nêu thì chưa có công trình nào nghiên cứu với tính chất độc lập cả về lý luận và thực tiễn. Bài viết này, một mặt tiếp tục bổ sung về mặt lý luận và thực tiễn đối với công tác bảo đảm quyền phụ nữ ở Việt Nam trong tiến trình thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững, mặt khác, còn là “vũ khí” sắc bén để đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước về vấn đề dân tộc, nhân quyền và dân chủ của con người nói chung và phụ nữ nói riêng. Thực hiện quyền phụ nữ ở Việt Nam chịu sự tác động rất lớn từ việc thực thi các cam kết trong Mục tiêu phát triển bền vững, SDGs chi phối đến việc xác định quan điểm, yêu cầu, phương hướng và hệ thống của các nhóm giải pháp mà Đảng, Nhà nước đề ra 2. NỘI DUNG 2.1. Thực chất vấn đề quyền phụ nữ trong Mục tiêu phát triển bền vững * Quyền phụ nữ Quyền phụ nữ, xét trên phương diện lý luận, đó là những tư tưởng, điều luật, hoặc những ràng buộc, cam kết về pháp lý nhằm đấu tranh cho quyền bình đẳng của nữ giới so với nam giới. Trên phương diện hoạt động thực tiễn, quyền phụ nữ là những hành động, phong trào nữ quyền đấu tranh giành bình quyền cho nữ giới về các phương diện chính trị, kinh tế, giáo dục, sức khỏe, văn hóa xã  Trung tá, TS. Khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị Quân sự. 275
  2. Trường Đại học Mỏ - Địa chất hội và nhiều lĩnh vực khác. Do đó, quyền phụ nữ là sự ý thức về bình đẳng trên cơ sở giới, chỉ quyền lợi về chính trị - xã hội của người phụ nữ thông qua những hoạt động đấu tranh trong lĩnh vực chính trị và xã hội, qua đó phụ nữ đòi lại những lợi ích chính đáng của mình để đạt đến sự bình đẳng với nam giới1. Thứ nhất, quyền phụ nữ luôn là những quyền vốn đã có, tự nhiên của con người và những quyền đó chỉ có ở con người mới có, đó là những bảo đảm pháp lý mang tính toàn cầu và có tác dụng bảo vệ những cá nhân và những nhóm chống lại hành động hoặc là sự bỏ mặc, gây tổn hại đến nhân phẩm, đạo đức của phụ nữ. Thứ hai, quyền phụ nữ là những đặc quyền được pháp luật thừa nhận, điều chỉnh, đó là các quyền lợi về bình đẳng giới, quyền không bị phân biệt đối xử trong mọi lĩnh vực. Hay nói cách khác, người phụ nữ luôn có quyền quyết định bất cứ việc gì thuộc về họ mà pháp luật bảo vệ như: Quyền được sống, quyền tôn trọng danh dự, quyền bất khả xâm phạm danh dự, về thân thể, về tự do ngôn luận, về tự do chính kiến và tự do tín ngưỡng; quyền được làm việc và nhận mức lương bình đẳng, công bằng với nam giới; quyền nắm giữ tài sản riêng, quyền được tiếp nhận giáo dục và phục vụ trong quân đội. * Mục tiêu phát triển bền vững Mục tiêu phát triển bền vững viết tắt là SDG (Sustainable Development Goals) hay thường gọi là mục tiêu toàn cầu đó là những mục tiêu phổ quát được xây dựng và hình thành nhằm chấm dứt tình trạng đói nghèo, bảo vệ hành tinh sống, cam kết rằng tất cả mọi người trên trái đất đều được hưởng nền hòa bình, thịnh vượng vào năm 2030 trong mỗi quốc gia là thành viên của Liên Hiệp quốc (LHQ). Trên thực tế, các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) đóng vai trò là tập hợp từ những chỉ tiêu và mục tiêu mới, hầu hết góp mặt trong chương trình nghị sự và chiến lược, sách lược về chính trị của mỗi quốc gia trong vòng 15 đến 20 năm tới2. Hiện nay, Việt Nam đang cam kết thực hiện 17 Mục tiêu phát triển bền vững, và tất cả SDGs này đều có tác động qua lại, ảnh hưởng ở các cấp độ không đồng đều đến thực hiện quyền phụ nữ. Tuy nhiên, SDGs trực tiếp tác động nhất là: Mục tiêu 5. Đạt được bình đẳng giới; tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em gái; mục tiêu 10. Giảm bất bình đẳng trong xã hội; mục tiêu 16. Thúc đẩy xã hội hòa bình, dân chủ, công bằng, bình đẳng, văn minh vì sự phát triển bền vững, tạo khả năng tiếp cận công lý cho tất cả mọi người; xây dựng các thể chế hiệu quả, có trách nhiệm giải trình và có sự tham gia ở các cấp3. 2.2. Tính tất yếu cần phải thực hiện quyền phụ nữ ở Việt Nam tiếp cận từ SDGs Một là, xuất phát từ việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện quyền phụ nữ trong quá trình tiếp cận và thực hiện SDGs. Vận dụng linh hoạt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam đã trực tiếp hình thành nội dung, phương thức, điều kiện để thực hiện 1 Nguyễn Thị Báo - chủ biên (2016), Bảo đảm quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.16. 2 Chính phủ, Báo cáo số 23/BC-CP, 09/3 về Thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới, Hà Nội, 2010. 3 Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo mục tiêu phát triển thiên niên kỷ 2010 (Báo cáo tóm tắt), Hà Nội, 2010. 276
  3. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững quyền phụ nữ ở Việt Nam. Hồ Chí Minh chú trọng tới việc xác lập và đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ, Người cho rằng: Làm cách mạng để giành lấy quyền tự do, độc lập, dân chủ và trai gái đều có quyền ngang nhau. Ngày 8 tháng 3 năm 1960, Hồ Chí Minh đã viết thư Gửi phụ nữ toàn quốc, kỷ niệm 30 năm Quốc tế phụ nữ, trong thư có đoạn viết: “Đảng và Chính phủ luôn luôn chú ý nâng cao địa vị của phụ nữ. Hiến pháp đã định rõ nam nữ bình đẳng và luật lấy vợ lấy chồng đều nhằm mục đích ấy”1. Đảng đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm định hướng việc thực hiện quyền của phụ nữ. Trong đó, một số quan điểm thể hiện sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đó là: Tôn trọng tính phổ biến, tính đặc thù của quyền con người và quyền của phụ nữ; tôn trọng quyền bình đẳng nam nữ; bình đẳng giới là yếu tố tiền đề để xây dựng nguồn nhân lực vững mạnh, cũng như đẩy mạnh chất lượng cuộc sống cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình và toàn xã hội. Hai là, từ mối quan hệ giữa thực hiện quyền phụ nữ với SDGs của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước đảm bảo tính tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội, trong đó pháp luật phải phản ánh ý chí, lợi ích chung của nhân dân, thực hiện và bảo vệ quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Khoản 1, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”; Điều 16 ghi rõ “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”; Điều 26 nêu “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới, nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội, nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”2. Thực hiện quyền của phụ nữ phải gắn với các Mục tiêu phát triển bền vững của Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, bởi vì chỉ có Nhà nước mới có đủ khả năng kiến tạo và tổ chức quản lý xã hội trong một quốc gia. Bằng chính sách và pháp luật, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa duy trì sự tồn tại xã hội và phát triển xã hội theo hướng bền vững. Chỉ trong điều kiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như vậy, quyền của phụ nữ mới thực sự được đảm bảo. Ba là, từ những yêu cầu chống lại tư tưởng trọng nam khinh nữ, phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong SDGs. Trọng nam khinh nữ là một tư tưởng lạc hậu, cổ hủ, phong kiến, tư tưởng đó coi nam giới quan trọng hơn phụ nữ, thể hiện bằng các hành vi phân biệt đối xử chống lại phụ nữ. Mặc dù, hiện nay quyền của phụ nữ đã được ghi nhận và đảm bảo thực hiện trong các văn bản quan trọng của Đảng và Nhà nước, cũng như các cam kết quốc tế nhưng trên thực tế tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện quyền của phụ nữ; cản trở phụ nữ thực hiện quyền bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; gây ra cho phụ nữ những áp lực về tinh thần như: Phải sinh bằng được con trai cho chồng, phải trông nom, chăm sóc gia đình nhà chồng và con chu đáo, phải coi gia đình là trên hết, “trong có ấm thì ngoài mới êm” và cứ như vậy, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” cuốn người phụ nữ theo vòng xoáy “con cái, gia đình, sự nghiệp” làm sao để “trọn vẹn trăm bề”. Gánh nặng “vai trò kép” của phụ nữ chỉ ra một thực tế là đa số phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ ở nông thôn dành rất nhiều thời gian làm việc và có quá ít thời gian nghỉ ngơi, giải trí so với nam giới, ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe thể chất của phụ nữ. 1 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 507. 2 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội. 277
  4. Trường Đại học Mỏ - Địa chất Bốn là, từ yêu cầu phát huy vị thế và vài trò của phụ nữ trong xã hội. Công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay được triển khai toàn diện trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế xã hội, đem lại những biến đổi sâu sắc trong mọi lĩnh vực; khơi dậy và phát huy trí tuệ, tài năng, sức lực của phụ nữ để làm giàu cho bản thân, gia đình và đóng góp cho xã hội. Trong quá trình hội nhập và phát triển đất nước, phụ nữ có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng trong sản xuất và xây dựng đất nước, là người đảm nhiệm hầu như toàn bộ công việc nội trợ gia đình, nuôi con cái và chăm sóc người già, người ốm ở các gia đình; là người quản lý thực tế các nguồn lực gia đình. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, nhiều cơ hội mới đang mở ra cho phụ nữ về việc làm, giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ phát triển kinh tế. Để khẳng định và phát huy vị thế của mình, bản thân người phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ ở nông thôn, miền núi, cần nỗ lực nhiều hơn trong việc trau dồi, tích lũy tri thức cũng như vốn sống, văn hóa. Khi có tri thức, phụ nữ sẽ có bản lĩnh hơn và có nhiều cơ hội lựa chọn hơn trong cuộc sống. Lòng yêu nước, yêu quê hương, đồng bào, lý tưởng cuộc sống cao đẹp cũng như tình cảm gắn bó với gia đình, dòng họ là động lực, là sức mạnh tự thân giúp người phụ nữ vươn lên, khắc phục mọi khó khăn, trở ngại. 2.3. Một số giải pháp thực thi quyền phụ nữ ở Việt Nam - tiếp cận từ Mục tiêu phát triển bền vững * Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội trong bảo đảm quyền phụ nữ. Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và của các cơ quan, ban ngành, các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương trong hệ thống chính trị đóng vai trò rất quan trọng, là nhân tố quyết định đến hiệu quả thực hiện quyền phụ nữ ở Việt Nam có đạt được theo các Mục tiêu phát triển bền vững hay không?. Đặc biệt, trong điều kiện nước ta hiện nay, khi Đảng, Nhà nước đang rất quan tâm đến vấn đề thúc đẩy và phát huy quyền con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội thì vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân trong đó có phụ nữ càng trở nên trọng yếu. Bởi vì, Đảng Cộng sản Việt Nam đóng vai trò tiên phong trong việc lãnh đạo thực hiện và thúc đẩy quyền con người, trong đó có quyền của phụ nữ. Lãnh đạo của Đảng thông qua việc đề ra các chủ trương, đường lối, chính sách phát triển đất nước, đẩy mạnh thực hiện công tác phụ nữ, chủ trương vì sự tiến bộ của phụ nữ. Vì vậy, định hướng phương thức thực hiện quyền phụ nữ ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay là cần phải tăng cường hơn nữa vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Đồng thời, đẩy mạnh công tác bồi dưỡng nhằm nâng cao nhận thức về giới cho cán bộ đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ hoạch định chính sách các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở, đẩy mạnh sự chỉ đạo công tác tuyên truyền đặc biệt về vị trí vai trò của phụ nữ và công tác cán bộ nữ. * Thực hiện nhất quán các chính sách thực thi quyền phụ nữ theo SDGs đặt ra Trong xu thế toàn cầu hóa, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phải đảm bảo cho pháp luật quốc gia tương đồng với pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, đây là vấn đề khó và hết sức phức tạp, bởi không chỉ đơn thuần là việc sửa chữa, chỉnh lý văn bản trên cơ sở pháp luật quốc tế, càng không phải sự sao chép toàn văn pháp luật quốc tế mà thực chất là dựa trên những nội dung và nguyên tắc của pháp luật quốc tế để từ đó có sự so sánh, lựa chọn những quy định nào phù hợp với điều kiện 278
  5. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, những quy định nào khắc phục được sự khác biệt về phong tục tập quán, khác biệt về chế độ chính trị giữa các nước. Tuy nhiên, trước yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, để tương thích với pháp luật quốc tế trong bối cảnh hội nhập, rất cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo tinh thần của Công ước CEDAW nhằm đảm bảo thực thi quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay. Theo đó, cần nội luật hóa kịp thời và đầy đủ các cam kết quốc tế về quyền phụ nữ. * Mở rộng hội nhập và chủ động thực hiện đối ngoại với phụ nữ các nước Hội hập, giao lưu và thực hiện đối ngoại ở tầm quốc gia, khu vực và quốc tế là điều kiện quan trọng để tiến hành thực hiện triệt để quyền phụ nữ ở Việt Nam. Làm tốt điều này thực chất là tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm và nhận được sự hỗ trợ từ những phương thức thực hiện quyền phụ nữ hiện đại từ nước ngoài, đồng thời còn gia tăng cơ hội, trao quyền cho phụ nữ để họ nhận thức đầy đủ và tự thực hiện triệt để, có hiệu quả quyền của giới mình. Trong điều kiện hiện nay, hội nhập là xu thế tất yếu của thời đại, đó là môi trường quốc tế rộng lớn để các quốc gia trong khu vực và trên toàn thế giới tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác lẫn nhau để phát triển đất nước. Thông qua các mối quan hệ song phương, đa phương giữa các quốc gia để tiếp nhận các thành tựu về trình độ khoa học kỹ thuật, hợp tác về kinh tế - xã hội, giao lưu văn hóa, từ đó không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người, tích cực thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Ở Việt Nam, vấn đề giao lưu, đối ngoại và hội nhập là yêu cầu đặt ra mang tính tất yếu khách quan nhằm thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước, đòi hỏi phải thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng đa phương hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển. * Phát huy vai trò và sự nỗ lực của phụ nữ Trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, phụ nữ Việt Nam có nhiều cơ hội và cũng gặp không ít thách thức để có thể khẳng định và phát huy vai trò của mình. Bản thân phụ nữ trước hết phải ý thức được đầy đủ vị trí, vai trò của giới của mình, từ đó mới có thể nắm bắt được những cơ hội, cùng với xã hội, hướng tới cách ứng xử bình đẳng giới. Muốn vậy, phụ nữ cần nỗ lực nhiều mặt để vượt qua rào cản tâm lý tự ti, tự kỳ thị của bản thân để tiếp cận và hưởng thụ quyền chính đáng của giới mình. Phụ nữ cần rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, tư tưởng kiên định, khắc phục khó khăn để vượt qua định kiến giới và hướng đến mục tiêu tự khẳng định mình. Phụ nữ phải thể hiện mình thật sự có vai trò trong cuộc sống gia đình và ngoài xã hội. Đối với phụ nữ là cán bộ, công chức phải tự tin, tự khẳng định về phẩm chất và năng lực của bản thân là hoàn toàn xứng đáng được lựa chọn đưa vào quy hoạch và sắp xếp vào vị trí lãnh đạo, quản lý, đồng thời tự học, chủ động tham gia vào các lớp đào tạo, bồi dưỡng những nội dung mà mình yếu, mình thiếu, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệu vụ được giao. Bên cạnh đó, phụ nữ cần tích cực học tập, công tác, học hỏi, phấn đấu liên tục không ngừng nghỉ để tự tin vượt qua rào cản, nhất là trong tiếp cận và sử dụng công nghệ thông tin. Vì hiện nay, công nghệ thông tin phát triển, nhiều công việc yêu cầu sử dụng máy tính và các thiết bị thông minh tăng lên, đây sẽ là cơ hội tốt cho những phụ nữ biết sử dụng nhưng lại sẽ trở thành rào cản cho những người biết ít hoặc không biết sử dụng. Phải chú trọng rèn luyện kỹ năng sống: Tự tin, sáng tạo, quyết đoán, biết hoạch định kế hoạch, biết đối mặt với áp lực, biết chăm sóc bản thân và gia đình. Bên cạnh đó, thực hiện thiên chức của người phụ nữ trong gia đình, xã hội phát triển đa chiều như hiện nay, người phụ nữ cần làm tròn vai trò của người mẹ, người vợ trong mỗi gia đình. Muốn làm tròn vai trò kép như vậy, phụ nữ cần phải phát huy trí tuệ để chinh phục trái tim, giành và giữ trọn 279
  6. Trường Đại học Mỏ - Địa chất tình yêu của chồng; bản thân mỗi phụ nữ phải nghiêm khắc với chính mình để giữ trọn niềm tin, lòng chung thuỷ, luôn vun đắp cho tình yêu và cuộc sống gia đình, tức là phải luôn có ý thức trau dồi tứ đức: Công - dung - ngôn - hạnh. Thực tế đã minh chứng, nếu phụ nữ nỗ lực đạt được nhiều thành công trong cuộc sống, sự nghiệp thì chính họ đã trở thành nguồn cổ vũ, động viên to lớn cho các chị em gái, con gái họ trong gia đình và cho các đồng nghiệp nữ trong cơ quan, đoàn thể để họ vững tâm, tự tin phấn đấu vươn lên. Ngược lại, những phụ nữ an phận thủ thường, đặc biệt là những phụ nữ tự coi mình là “phụ nữ hiện đại” sống ích kỷ, buông thả, không chung thủy, vô trách nhiệm với gia đình, bạn bè, người thân, đồng nghiệp sẽ làm mất đi niềm tin tưởng, thậm chí bị khinh rẻ, giảm thiểu sự tôn trọng của người thân, bạn bè, đồng nghiệp. Đồng thời, chính họ sẽ là tác nhân làm cho phụ nữ vốn dễ bị phân biệt đối xử càng trở nên bị phân biệt đối xử nhiều hơn trong xã hội, kéo lùi sự nghiệp bình đẳng giới mà cả nhân loại trong đó có Việt Nam đang nỗ lực phấn đấu qua nhiều thế kỷ. 3. KẾT LUẬN Thực hiện quyền phụ nữ là một nội dung quan trọng trong thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững, hoạt động này được hiến pháp, pháp luật cũng như truyền thống văn hóa của mỗi nước chi phối mạnh mẽ. Tuy nhiên, các cam kết quốc tế, điều luật, công ước quốc tế nhằm hướng đến sự vảo vệ và phát huy năng lực của phụ nữ trên phạm vi toàn cầu đã và đang trở nên cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Xã hội càng phát triển, khoa học công nghệ càng tân tiến thì đòi hỏi mỗi quốc gia, khu vực, vùng lãnh thổ càng phải quan tâm đến hoạt động bảo vệ, đấu tranh cho quyền phụ nữ, bảo đảm cho phụ nữ có vị trí, quyền lợi ngang hàng với nam giới, đó là thước đo để đánh giá chỉ Chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành chính công cấp tỉnh (PAPI) trong điều hành, quản lý nhà nước, thực thi chính sách và cung ứng dịch vụ công của chính quyền các cấp dựa trên trải nghiệm, đánh giá của người dân khi tương tác với các cấp chính quyền địa phương. Do đó, thường xuyên đổi mới phương thức quản lý, xác định các nhóm giải pháp để góp phần nâng cao hiệu quả thực thi quyền phụ nữ tại Việt Nam, bám sát theo các SDGs là yêu cầu tất yếu khách quan. 3.1. Kết quả nghiên cứu Bài viết đã phân tích làm rõ nội hàm quyền phụ nữ, một số vấn đề chung về tiến trình thực hiện SDGs trong tiến trình toàn cầu hóa có liên quan đến thực thi quyền phụ nữ, đồng thời, đã chỉ ra thực chất thực hiện quyền phụ nữ trong SDGs tại Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở xác định khẳng định tính tất yếu khách quan cần thực thực hiện quyền phụ nữ tiếp cận từ SDGs, tác giả kiến nghị, đề xuất một số biện pháp nhằm thực hiện có hiệu quả quyền phụ nữ ở Việt Nam hiện nay trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và các cam kết quốc tế về SDGs. Các biện pháp được đề xuất trong bài viết chỉ là những giải pháp cơ bản, mang tính chất định hướng, trong quá trình thực hiện cần bám sát hiến pháp và pháp luật, căn cứ vào điều kiện thực tế của đất nước, truyền thống văn hóa, đạo đức, tập tục, hương ước của từng vùng để cơ quan quản lý, điều hành, thực hiện có biện pháp khoa học và hợp lý nhất. 3.2. Hướng nghiên cứu tiếp theo Quá trình thực hiện SDGs trong mỗi quốc gia, khu vực, vùng lãnh thổ, trong đó có Việt Nam đã và đang đặt ra nhiều vấn đề mới trong thực hiện quyền phụ nữ, cần được nghiên cứu để làm sáng tỏ nhiều vấn đề, nhất là cơ chế bảo đảm cho thực thi quyền phụ nữ. Nghiên cứu về vấn đề quyền phụ nữ luôn là chủ đề được nhiều tổ chức, cá nhân ở hầu hết các quốc gia, khu vực, vùng lãnh thổ trên phạm vi toàn cầu quan tâm. Quyền phụ nữ không chỉ là SDGs mà luôn đi liền với các vấn đề kinh tế, văn 280
  7. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững hóa, xã hội của quốc gia. Biểu hiện là, xã hội càng phát triển thì vấn đề thực hiện quyền phụ nữ càng được giới chức trách và người dân quan tâm giành giữ. Ngược lại, đất nước bị khủng hoảng, xung đột vũ trang tàn phá, đối đầu, mâu thuẫn chủ quyền, lợi ích dân tộc bị đe dọa thì quyền phụ nữ cũng bị ảnh hưởng và chi phối rõ rệt, nhất là vấn đề việc làm, sức khỏe, hưởng thụ cuộc sống và sống trong hòa bình. Do vậy, nghiên cứu vai trò, vị trí của nữ giới nói chung và quyền phụ nữ nói riêng trong SDGs luôn là những vấn đề lớn trong tiến trình toàn cầu hóa. Phụ nữ hiện tại đang đứng ở vị trí nào trong gia đình và xã hội, quyền phụ nữ bị chi phối với tiến trình toàn cầu hóa như nào? Phụ nữ liệu có lãnh đạo được thế giới như những gì nam giới làm được qua hàng triệu năm qua hay không?, Hoặc phụ nữ được sinh ra, tồn tại và sống kéo dài cùng nam giới trên quả đất này thực chất là để làm gì, có sứ mệnh gì? Phụ nữ có mặt trên trái đất có làm cho thế giới bị đảo lộn hay là một nửa tất yếu, không thể thiếu đối với sự sống của trái đất và loài người, cụ thể hơn chính là thế giới đàn ông!. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Báo - chủ biên (2016), Bảo đảm quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội. 2. Báo cáo quốc gia lần thứ 5 và thứ 6 về Tình hình thực hiện công ước Liên hợp quốc về xóa bỏ hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW) (2004). 3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo mục tiêu phát triển thiên niên kỷ 2010 (Báo cáo tóm tắt), Hà Nội. 4. Chính phủ, Báo cáo số 23/BC-CP ngày 09/3/2010 về việc thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới, Hà Nội. 5. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội. 281
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2