intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thực trạng áp dụng IFRS và yêu cầu đặt ra cho các trường đại học, cao đẳng tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Chia sẻ: Lệ Minh Vũ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

1
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Thực trạng áp dụng IFRS và yêu cầu đặt ra cho các trường đại học, cao đẳng tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế" phân tích thực trạng áp dụng IFRS và yêu cầu đặt ra cho các trường ĐH, CĐ tại Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp, nhằm khắc phục những khó khăn, thách thức trong công tác đào tạo IFRS cho sinh viên ngành kế toán, kiểm toán ngày càng hoàn thiện hơn. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thực trạng áp dụng IFRS và yêu cầu đặt ra cho các trường đại học, cao đẳng tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

  1. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG IFRS VÀ YÊU CẦU ĐẶT RA CHO CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG TẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ThS. Nguyễn Chu Du1 ThS. Trần Đình Vân2 Tóm tắt Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) là bộ chuẩn mực do tổ chức tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASB) ban hành, quy định về việc lập và trình bày báo cáo tài chính (BCTC) của doanh nghiệp (DN), được thừa nhận và áp dụng bởi nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế với những thành tựu khoa học, công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) như: công nghệ số, internet kết nối vạn vật, điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo, Blockchain, Big Data… ngày càng sâu rộng và phát triển mạnh mẽ của thị trường vốn đa quốc gia, đòi hỏi Việt Nam cần thực hiện việc lập BCTC theo IFRS, để nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư. Chính vì vậy, việc đào tạo các kế toán, kiểm toán viên có trình độ chuyên môn và hiểu biết về IFRS là yêu cầu tất yếu của các trường Đại học, Cao đẳng (ĐH, CĐ) hiện nay. Bài viết phân tích thực trạng áp dụng IFRS và yêu cầu đặt ra cho các trường ĐH, CĐ tại Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp, nhằm khắc phục những khó khăn, thách thức trong công tác đào tạo IFRS cho sinh viên ngành kế toán, kiểm toán ngày càng hoàn thiện hơn. Từ khóa: Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS), trường Đại học, Cao đẳng (ĐH, CĐ). 1. Đặt vấn đề Khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã và đang tạo ra những nền tảng mới hỗ trợ tích cực giúp công việc kế toán, kiểm toán của DN trở nên thông minh, nhanh chóng và hiệu quả hơn, cũng như công tác đào tạo nhân lực kế toán, kiểm toán đã có nhiều thay đổi theo hướng tích cực, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của DN thay đổi phù hợp với IFRS. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế cũng gây ra không ít những thách thức trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán cho Việt Nam, bởi, số lượng các công ty dịch vụ kế toán, kiểm toán còn quá ít ỏi, chất lượng dịch vụ chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra của nền kinh tế. Do đó, chất lượng và nguồn lực kế toán, kiểm toán cần phải thay đổi sao cho phù hợp với nhu cầu thực tế; mà trước hết là “cần đi tắt đón đầu”, đào tạo bài bản, liên tục, thay đổi tư duy để hội nhập từ các trường ĐH, CĐ hiện nay. 1 Trường Đại học Công Đoàn, Email: dunc@dhcd.edu.vn, SĐT: 0942217299 2 Trường Đại học Công Đoàn, Email: vantd@dhcd.edu.vn, SĐT: 0978999405 402
  2. 2. Các quan điểm áp dụng IFRS tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 2.1. Quan điểm truyền thống Theo quan điểm truyền thống, Việt Nam nên tiếp tục nghiên cứu, ban hành chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) dựa trên IFRS với một số sửa đổi, bổ sung, không áp dụng toàn bộ IFRS (full adoption). Trên cơ sở đó, VAS sẽ áp dụng cho tất cả các DN có lợi ích công chúng, DN nhà nước (SOE) và các DN khác (ngoại trừ DN nhỏ và vừa – SME có chế độ kế toán riêng) và trong tương lai chưa định trước mới xem xét áp dụng IFRS từng phần và toàn bộ. Mặc dù, trong điều kiện chưa hoàn thiện và đồng bộ về nhân lực và vật lực, quan điểm này không gây áp lực nhiều cho Việt Nam trong quá trình vận dụng IFRS; nhưng xét về lợi ích toàn bộ thì sẽ ngăn cản cơ hội phát triển và hội nhập cho các DN Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế. 2.2. Quan điểm cải cách Theo quan điểm cải cách, Việt Nam nên áp dụng nguyên vẹn IFRS, chứ không nên áp dụng theo kiểu từng phần như một số quốc gia, nhằm tránh những “rắc rối” chuẩn mực IFRS bị “Việt Nam hóa”. Mặc dù, quan điểm này còn gặp phải nhiều khó khăn và đòi hỏi chi phí lớn, nhưng những giá trị tích cực khi xem xét áp dụng IFRS vào điều kiện cụ thể trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi Việt Nam cần có lộ trình phù hợp trước khi tiến tới áp dụng hoàn toàn IFRS. 2.3. Lộ trình áp dụng IFRS tại Việt Nam Thuộc “Đề án áp dụng Chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) tại Việt Nam” do Bộ Tài chính soạn thảo và trình Thủ tướng phê duyệt căn cứ theo Chiến lược kế toán – kiểm toán đến năm 2020, tầm nhìn 2030 tại Quyết định số 480/QĐ-TTg ngày 18/03/2013 của Thủ tướng Chính phủ, lộ trình áp dụng IFRS tại Việt Nam gồm 03 giai đoạn, cụ thể: Giai đoạn Lộ trình áp dụng Bộ Tài chính chuẩn bị các điều kiện cần thiết như: Giai đoạn - Công bố bản dịch IFRS ra tiếng Việt chuẩn bị - Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng IFRS (2019 – 2021) - Xây dựng cơ chế tài chính liên quan - Đào tạo nguồn nhân lực, quy trình triển khai cho các DN Giai đoạn - Các DN sau có nhu cầu và đủ nguồn lực, thông báo cho Bộ Tài chính trước khi tự nguyện áp dụng IFRS để lập báo cáo tài chính hợp nhất: tự nguyện + Công ty mẹ của tập đoàn kinh tế Nhà nước quy mô lớn hoặc có các (2022 – 2025) khoản vay được tài trợ bởi các định chế tài chính quốc tế; + Công ty mẹ là công ty niêm yết; + Công ty đại chúng quy mô lớn là công ty mẹ chưa niêm yết; 403
  3. Giai đoạn Lộ trình áp dụng + Các công ty mẹ khác. - Các DN có 100% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là công ty con của công ty mẹ ở nước ngoài có nhu cầu và đủ nguồn lực, thông báo cho Bộ Tài chính trước khi tự nguyện áp dụng IFRS để lập báo cáo tài chính riêng. Giai đoạn bắt - Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện áp dụng IFRS của giai đoạn 1, buộc (Sau 2025) Bộ Tài chính căn cứ nhu cầu, khả năng sẵn sàng của các DN và tình hình thực tế, quy định phương án, thời điểm bắt buộc áp dụng IFRS để lập báo cáo tài chính hợp nhất cho từng nhóm DN thuộc các đối tượng cụ thể sau: + Công ty mẹ của tập đoàn kinh tế Nhà nước; + Công ty mẹ là công ty niêm yết; + Công ty đại chúng quy mô lớn là công ty mẹ chưa niêm yết; + Công ty mẹ quy mô lớn khác. - Các công ty khác không thuộc đối tượng bắt buộc áp dụng nêu trên có nhu cầu và đủ nguồn lực, thông báo cho Bộ Tài chính trước khi tự nguyện áp dụng IFRS để lập báo cáo tài chính hợp nhất hay báo cáo riêng. (Nguồn: Quyết định số 345/QĐ-BTC) Theo đó, việc áp dụng IFRS sẽ giúp Việt Nam đi đúng hướng với tầm nhìn Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên thị trường phẳng toàn cầu. Trên cơ sở đó, đặt ra yêu cầu cho các cơ sở đào tạo, hội nghề nghiệp và đơn vị cung cấp dịch vụ (bao gồm: các đơn vị có các hoạt động phối hợp nghiên cứu, đào tạo, cung cấp dịch vụ và hỗ trợ triển khai áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế và chuẩn mực báo cáo tài chính Việt Nam), đặc biệt là các trường ĐH, CĐ cần có những định hướng phù hợp, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. 3. Thực trạng áp dụng IFRS trong các trường ĐH, CĐ tại Việt Nam Trong thời gian qua, Luật Kế toán năm 2015; Luật kiểm toán nhà nước năm 2015 (sửa đổi năm 2019); cùng các Thông tư số 200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014 (thay thế Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/3/2006) hướng đến việc ghi nhận kế toán chú trọng về bản chất hơn là giao dịch, Thông tư số 202/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014 hướng dẫn phương pháp lập và trình bày báo cáo tài chính hợp nhất… được ban hành đã góp phần nâng cao chất lượng của BCTC, cung cấp các thông tin tin cậy, phục vụ việc ra quyết định kinh tế và thu hẹp khoảng cách giữa chế độ kế toán DN tại Việt Nam với IFRS. Mặc dù, VAS được xây dựng dựa trên IFRS theo nguyên tắc vận dụng có chọn lọc 404
  4. các thông lệ quốc tế, phù hợp với đặc điểm nền kinh tế và trình độ quản lý của các DN Việt Nam, nhưng, trong quá trình thực hiện, VAS đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế mà chưa có hướng dẫn cụ thể. Trước bối cảnh đó cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc duy trì VAS cho việc lập BCTC tại DN được xem là một trong những rào cản để tăng cường minh bạch hóa BCTC theo chuẩn thế giới, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và nâng cao khả năng cạnh tranh của các DN Việt Nam trên trường quốc tế. Để khắc phục tình trạng đó, IFRS được xem là một trong những giải pháp hiệu quả. Hiện nay, việc đào tạo nhân lực kế toán, kiểm toán tại Việt Nam được thực hiện đa dạng về hình thức đào tạo và trình độ đào tạo ở nhiều trường ĐH, CĐ và các cơ sở đào tạo khác trên cả nước. Thậm chí, nhiều cơ sở đào tạo không có thế mạnh về đào tạo kế toán, kiểm toán, thậm chí thiên về đào tạo các ngành kỹ thuật cũng tham gia vào hoạt động đào tạo này. Theo thống kê, số lượng người có bằng đại học chuyên ngành kế toán, kiểm toán ngày càng tăng (số lượng sinh viên tốt nghiệp trung bình khoảng 2.000 người, đứng thứ 5 trong số 10 nước ASEAN) (Trần Thị Hồng Vân, 2022). Đào tạo kế toán, kiểm toán với quy mô lớn đã làm cho ngành kế toán, kiểm toán trở thành một trong những ngành nghề có nguồn lao động dồi dào. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo kế toán, kiểm toán tại các trường ĐH, CĐ hiện nay chưa cao, do các trường chậm đổi mới chương trình đào tạo, trình độ ngoại ngữ còn hạn chế và đặc biệt chưa cập nhật chương trình đào tạo áp dụng IFRS. Bên cạnh đó, số lượng kế toán, kiểm toán viên có chứng chỉ của các hiệp hội quốc tế còn ít (khoảng 5.000 người), chiếm gần 3% tổng số nhân lực kế toán, kiểm toán của 10 quốc gia ASEAN (gần 190.000 người). Tuy nhiên, nguồn nhân lực đội ngũ kế toán, kiểm toán viên hành nghề hiện vẫn thiếu so với nhu cầu, do có khoảng gần 1.500 người có chứng chỉ kiểm toán viên không đăng ký hành nghề kiểm toán (Trần Thị Hồng Vân, 2022). Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và CMCN 4.0, tại Việt Nam, thời gian qua, công tác đào tạo nhân lực kế toán, kiểm toán tại các trường ĐH, CĐ đã có nhiều thay đổi theo hướng tích cực, như: đội ngũ giảng viên và quản lý đã từng bước được nâng cao cả về chất lượng và số lượng, 100% giảng viên đạt chuẩn về trình độ đào tạo từ thạc sỹ trở lên đối với giảng dạy đại học; khung chương trình đào tạo kế toán, kiểm toán có sự khác biệt, nắm bắt xu hướng hội nhập, tham khảo các chương trình đào tạo ngành kế toán, kiểm toán của các trường ĐH, CĐ tiên tiến trên thế giới; ứng dụng các chương trình đào tạo chất lượng cao, chương trình liên kết quốc tế; đưa vào chương trình giảng dạy một số môn học của các tổ chức nghề nghiệp kế toán quốc tế…. để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của DN; đồng thời, thường xuyên cập nhật theo sự thay đổi của chuẩn mực, chế độ kế toán Việt Nam phù hợp với IFRS. Tuy nhiên, phương pháp đào tạo kế toán, kiểm toán tại Việt Nam chủ yếu vẫn sử dụng các phương pháp truyền thống, như: thuyết trình, 405
  5. diễn giảng, mà ít có sự tương tác với sinh viên. Trên thực tế, phương pháp này không còn phù hợp, hiệu quả giảng dạy đem lại là không cao. Bên cạnh đó, sinh viên tại các trường ĐH, CĐ hiện nay chỉ được tham gia ở góc độ kiến tập, việc đánh giá mức độ hiểu biết, tiếp cận thực tiễn công tác kế toán ở đơn vị thực tập và DN của sinh viên còn nhiều hạn chế (Lê Thị Thanh Hải, 2021). Chính vì vậy, nhu cầu đào tạo IFRS tại các trường ĐH, CĐ trong thời gian tới trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết và trở thành một trong những nhiệm vụ cần được quan tâm hàng đầu hiện nay. Trong tiến trình đó, các trường ĐH, CĐ của Việt Nam sẽ phải đối mặt với không ít những khó khăn và thách thức. Cụ thể: Thứ nhất, các trường ĐH, CĐ tại Việt Nam hiện nay chưa có chương trình đào tạo về ISRS một cách có hệ thống. Thực tế cho thấy, hầu hết các trường ĐH, CĐ hiện nay, đặc biệt là các trường “nhóm giữa” và “nhóm dưới” chưa đưa các nội dung của IFRS vào chương trình đào tạo cho sinh viên, hoặc có chăng, thì chỉ đưa vào giới thiệu trong chương trình môn Kế toán quốc tế, dẫn đến tình trạng sinh viên ra trường chưa biết về IFRS. Thứ hai, kinh nghiệm giảng dạy IFRS tại các trường ĐH, CĐ hiện nay còn hạn chế. Hiện nay, đào tạo IFRS mới chỉ có một số ít các tổ chức nghề nghiệp quốc tế như Hiệp hội Kế toán Anh Quốc (ACCA), Hiệp hội Kế toán công chứng Australia (CPA Australia), Viện Kế toán Công chứng Anh và xứ Wales (ICAEW) có chương trình đào tạo IFRS và một số ít các công ty kiểm toán trong nhóm Big 4 cho một số ít học viên, nhân viên trong công ty của họ. Do vậy, quá trình triển khai đào tạo cũng như chất lượng giảng dạy IFRS tại các trường ĐH, CĐ hiện nay thấp. Thứ ba, khả năng tiếp cận các giáo trình và tài liệu về IFRS cũng khá hạn chế. Hiện nay, các giáo trình và tài liệu về IFRS chỉ có những tài liệu liên quan bằng Tiếng Anh, còn các tài liệu bằng tiếng Việt hầu như không có hoặc không cập nhật với những thay đổi của IASB theo từng quý, từng năm. Hiện nay, IFRS là bộ chuẩn mực khá mới, vẫn còn đang trong quá trình hoàn thiện và tiếp tục phát triển chứ chưa có sự ổn định. Hằng năm, IASB đều tiến hành xem xét sửa đổi, bổ sung các IFRS để có những hoàn chỉnh cho phù hợp. Điều này chính là trở ngại không nhỏ cho các giảng viên, sinh viên tại các trường ĐH, CĐ ở Việt Nam khi muốn đi sâu tìm hiểu về IFRS cũng như các văn bản hướng dẫn khác có liên quan đến IFRS. Bên cạnh đó, có một tỷ lệ không nhỏ giảng viên dù đảm nhận giảng dạy IFRS nhưng chưa từng nghe hay biết gì về IFRS hoặc có sự hiểu biết rất hạn chế hoặc chưa quan tâm, chú ý tìm hiểu về IFRS. Thứ tư, việc định hướng giảng dạy IFRS tại các trường ĐH, CĐ cho sinh viên các ngành kế toán còn nhiều khó khăn. Hiện nay, trong các văn bản hướng dẫn chưa có định hướng lộ trình áp dụng IFRS tại Việt Nam một cách rõ ràng, việc áp dụng IFRS mới chỉ 406
  6. được thực hiện theo Quyết định số 345/QĐ-BTC. Theo đó, việc áp dụng IFRS tự nguyện sẽ bắt đầu từ năm 2022 đến năm 2025 và áp dụng bắt buộc đối với một số đối tượng kể từ sau năm 2025. Hiện tại, các DN Việt Nam vẫn phải thực hiện công tác kế toán và lập BCTC theo hướng dẫn của Thông tư 200/2014/TT-BTC, nên việc giảng dạy kế toán, kiểm toán cho sinh viên cũng đang thực hiện theo Thông tư này. Thứ năm, phương pháp giảng dạy của giảng viên còn nhiều hạn chế. IFRS như đã trình bày là bộ chuẩn mực được thiết kế dựa trên các nguyên tắc. Nhưng, hiện nay, việc giảng dạy kế toán, kiểm toán tại Việt Nam chủ yếu vẫn dựa trên các quy tắc được hướng dẫn từ các Quyết định, Thông tư về chế độ Kế toán do Bộ tài chính ban hành mà chưa nhấn mạnh vào việc giảng dạy các khái niệm cơ bản, kết hợp với phương pháp giảng dạy sáng tạo như mô phỏng, đóng vai, học dựa trên giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, cơ hội tiếp cận đến các nguồn tài liệu để tăng cường giảng dạy còn nhiều hạn chế. Do đó, thách thức cơ bản của giảng viên giảng dạy kế toán, kiểm toán hiện nay là cần phải có kiến thức tốt, sử dụng các phương pháp dựa trên những nguyên tắc, thay vì các quy tắc hạch toán như hiện nay. Thứ sáu, chưa có chế độ chính sách phù hợp để khuyến khích giảng viên và sinh viên thực hiện các đề tài, dự án về IFRS cũng như tham gia biên soạn, biên dịch các giáo trình, tài liệu về IFRS. IFRS là một bộ chuẩn mực, quy định về việc lập và trình bày BCTC, được thiết kế dựa trên các nguyên tắc nên khá trừu tượng và khó hiểu. Mặt khác, rào cản ngôn ngữ cũng là một trở ngại không nhỏ cho việc đọc, hiểu, dịch và xây dựng tài liệu về IFRS bằng tiếng Việt. Bên cạnh đó, chế độ chính sách khuyến khích giảng viên và sinh viên thực hiện các đề tài, dự án về IFRS cũng như tham gia biên soạn, biên dịch các giáo trình, tài liệu về IFRS tại Việt Nam cũng chưa được triển khai, nên càng khó khăn cho việc tiếp cận IFRS tại các trường ĐH, CĐ hiện nay. 4. Một số giải pháp nhằm khắc phục khó khăn, thách thức trong việc đào tạo IFRS tại các trường đại học, cao đẳng tại Việt Nam Để công tác đào tạo IFRS tại các trường ĐH, CĐ ngày càng hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, theo nhóm tác giả, các trường ĐH, CĐ cần triển khai thực hiện một số giải pháp sau: 4.1. Về phía các trường ĐH, CĐ Thứ nhất, các trường ĐH, CĐ cần xây dựng chương trình đào tạo theo hướng bổ sung kiến thức, bài tập liên quan đến IFRS; đưa chương trình giảng dạy một số môn học của các tổ chức nghề nghiệp kế toán quốc tế. Bên cạnh đó, phương pháp giảng dạy hiện nay cần hoàn thiện, đổi mới theo hướng ứng dụng các phương pháp hiện đại; tập trung nhiều vào kỹ thuật nghiệp vụ, ít được cập nhật, chuẩn hóa theo các tài liệu, chuẩn mực kế toán quốc tế; giảm thời lượng học lý thuyết; tăng cường số tín chỉ đào tạo các học phần 407
  7. có tính ứng dụng công nghệ, như: hệ thống thông tin kế toán, kế toán máy… để sinh viên có thể làm việc ngay trên ghế nhà trường ở mức cơ bản và nâng cao. Thứ hai, các trường ĐH, CĐ cần xây dựng đề án thành lập và phát triển phòng thực hành kế toán, kiểm toán, nhằm tạo điều kiện cho sinh viên có thể thực hành thực tế trên chứng từ, tăng cường khả năng thực hiện các công việc của một kế toán, kiểm toán viên. Thứ ba, các trường ĐH, CĐ cần tổ chức các lớp tập huấn để hướng dẫn giảng viên chuyển đổi từ phương pháp giảng dạy kế toán dựa trên quy tắc sang phương pháp giảng dạy kế toán dựa trên nguyên tắc để phù hợp với giảng dạy IFRS. Đồng thời, mời các chuyên gia có kinh nghiệm về IFRS giảng dạy, tập huấn cho giảng viên về đào tạo IFRS, hướng đến mô hình đào tạo kế toán, kiểm toán trong các trường ĐH, CĐ gắn liền với IFRS trong thời gian sắp tới. Thứ tư, các trường ĐH, CĐ cần hỗ trợ giảng viên một cách tối đa trong việc tiếp cận với các nguồn tài liệu cần thiết cho quá trình đào tạo IFRS; phát triển đào tạo trực tuyến, xây dựng hệ thống học liệu mở, thư viện điện tử, các chương trình đào tạo e- learning, đào tạo từ xa cho người hành nghề, giảng dạy cũng như sinh viên, học viên ngành kế toán, kiểm toán. Thứ năm, các trường ĐH, CĐ đào tạo kế toán, kiểm toán cần có cơ chế chính sách để giảng viên nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học về IFRS, gắn nghiên cứu với các hoạt động chuyển giao ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác kế toán, kiểm toán theo IFRS. 4.2. Về phía giảng viên giảng dạy Thứ nhất, đội ngũ giảng viên cần bồi dưỡng, nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn về kế toán, kiểm toán, đặc biệt là về IFRS, như: tham gia các lớp tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và nâng cao trình độ ngoại ngữ. Từ đó, tham gia vào việc biên soạn, biên dịch các tài liệu liên quan đến IFRS sang tiếng Việt để đáp ứng yêu cầu đào tạo. Thứ hai, xây dựng đề cương chi tiết các học phần, trên cơ sở tiếp thu IFRS hằng quý, hằng năm, phù hợp với mục tiêu chung và những thay đổi về IFRS của IASB, trên cơ sở áp dụng các phương pháp giảng dạy linh hoạt. Đồng thời, rèn luyện các năng lực truyền đạt; truyền cảm hứng, không ngừng học hỏi, tiếp thu những thay đổi về IFRS của IASB trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ ba, giảng viên giảng dạy kế toán, kiểm toán cần đầu tư thêm các chứng chỉ nghề nghiệp kế toán, kiểm toán uy tín trên thế giới như CPA, ACCA… 4.3. Về phía người học Thứ nhất, sinh viên cần chuẩn hóa đào tạo tiếng Anh để tiếp cận các tài liệu về IFRS một cách nhanh chóng. 408
  8. Thứ hai, sinh viên cần nỗ lực, chủ động, tích cực trong quá trình học tập; tăng cường khả năng tự học với vai trò là trung tâm trong quá trình giảng dạy, nhanh chóng làm quen với mô hình đào tạo kế toán, kiểm toán hiện đại phù hợp với IFRS. 5. Kết luận Các trường ĐH, CĐ là nơi cung cấp nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán cho xã hội. Để đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, các trường ĐH, CĐ cần phải có bước chuyển mình để nâng cao chất lượng đào tạo kế toán, kiểm toán phù hợp với IFRS. Để làm được điều này, các trường ĐH, CĐ cần phải đồng bộ nhiều giải pháp, nâng cao chất lượng đào tạo không những là điều kiện sống còn, mà còn thể hiện trách nhiệm của các trường ĐH, CĐ trong việc cung cấp nguồn lực kế toán, kiểm toán có chất lượng, phù hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế của đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Thị Thanh Hải (2021). Đào tạo nhân lực kế toán, kiểm toán trong bối cảnh hội nhập và Cách mạng công nghiệp 4.0, Tạp chí Tài chính, kỳ 2, tháng 7/2021; 2. Trần Thị Hằng (2018), Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực kế toán Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, Tạp chí khoa học và công nghệ, trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, số 46.2018 3. Trần Thị Hồng Huệ, Nguyễn Thị Hồng Duyên (2022), Công tác đào tạo kế toán, kiểm toán trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, Tạp chí Kinh tế và dự báo, đăng ngày 18/02/2022, truy cập lần cuối ngày 04/5/2022, https://kinhtevadubao.vn/cong- tac-dao-tao-ke-toan-kiem-toan-trong-boi-canh-cach-mang-cong-nghiep-40- 21398.html 4. Luật Kế toán năm 2015; 5. Luật kiểm toán nhà nước năm 2015 (sửa đổi năm 2019); 6. Quyết định số 345/QĐ-BTC ngày 16 tháng 3 năm 2020 phê duyệt Đề án áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính tại Việt Nam của Bộ trưởng Bộ Tài chính; 7. Thông tư số 200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014 hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp của Bộ trưởng Bộ Tài chính; 8. Thông tư số 202/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014 hướng dẫn phương pháp lập và trình bày báo cáo tài chính hợp nhất của Bộ trưởng Bộ Tài chính; 9. Trần Thị Hồng Vân (2022), Hoạt động đào tạo ngành Kế toán - Kiểm toán tại các trường đại học, Tạp chí Công thương, đăng ngày 01/02/2022, truy cập lần cuối ngày 04/5/2022, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/hoat-dong-dao-tao-nganh-ke-toan- kiem-toan-tai-cac-truong-dai-hoc-86780.htm. 409
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2