QUẢN LÝ - KINH TẾ<br />
<br />
<br />
THỰC TRẠNG NỢ CÔNG VÀ ĐÁNH GIA<br />
VAI TRÒ CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC<br />
TRONG QUẢN LÝ NỢ CÔNG TẠI VIỆT NAM<br />
STATUS OF PUBLIC DEBT AND EVALUATION OF THE STATE AUDIT’S<br />
ROLE IN PULIC DEBT MANAGEMENT IN VIETNAM<br />
<br />
(2)<br />
Bùi Thị Thu Thuỷ (1) Phạm Thu Hương<br />
<br />
Tóm tắt: Vai trò của cơ quan kiểm toán nhà nước trong quản lý nợ công là rất cần<br />
thiết, nhất là trong bối cảnh thế giới đã diễn ra những trường hợp khủng hoảng kinh<br />
tế do đổ vỡ nợ công. Trên thực tế ở Việt Nam, mặc dù hàng năm, kiểm toán nhà nước<br />
vẫn thực hiện kiểm toán tổng quyết toán ngân sách nhà nước và các chương trình, dự<br />
án sử dụng nợ công và đóng góp các ý kiến chuyên môn trong giai đoạn lập dự toán<br />
ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, vai trò của kiểm toán nhà nước trong quản lý nợ công<br />
vẫn chưa được xác lập, theo đó, việc công khai thông tin về quản lý nợ công cũng chưa<br />
chất lượng và được đánh giá cao. Bài báo này phản ánh thực trạng nợ công cũng như<br />
đánh giá được một cách khái quát vai trò của kiểm toán nhà nước trong quản lý nợ<br />
công hiện nay.<br />
Từ khoá: Nợ công, GDP, khủng hoảng, ngân sách, thâm hụt, quản lý, rủi ro, kiểm<br />
toán nhà nước.<br />
<br />
Abstract: The state audit plays a quite necessary role in public debt management,<br />
especially in the context of on-going economic crisis due to sovereign default. Actually<br />
in Vietnam, despite the fact that the State Audit performs annual auditing for total<br />
state budget settlement and programs and projects using state budget and makes<br />
professional comments to the stage of cost estimate preparation using stage budget;<br />
the role of the state audit in public debt management has not been defined yet;<br />
accordingly the disclosure of public debt management has not been highly appreciated<br />
and in insufficient quality. This paper represents the status of public debt as well as<br />
general evaluation of the state audit’s role in public debt management.<br />
Key words: Public debt, GDB, crisis, state budge, deficit, management, risk, state<br />
audit<br />
<br />
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 30/01/2018<br />
Ngày phản biện đánh giá: 25/02/2018<br />
Ngày bài báo được duyệt đăng: 20/03/2018<br />
<br />
<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC 37<br />
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ<br />
1. Mở đầu<br />
Các khoản nợ công có xu hướng ngày càng tăng ở nhiều quốc gia đang phát triển và<br />
được xem như là nguồn tài chính quan trọng để bù đắp các khoản thâm hụt ngân sách và<br />
hỗ trợ phát triển cơ sở, hạ tầng, kinh tế xã hội. Tuy nhiên, việc lạm dụng các khoản nợ công<br />
cũng như những yếu kém trong quản lý, giám sát nợ công đã tạo ra những rủi ro tài chính vĩ<br />
mô theo diện rộng tại nhiều quốc gia trên thế giới. Cũng trong xu thế ấy, vay nợ của chính<br />
phủ Việt Nam trong những năm gần đây tăng lên đáng kể do nhu cầu đầu tư phát triển và<br />
bù đắp bội chi ngân sách. Nhu cầu đầu tư của chính phú tăng mạnh trong khi nguồn thu từ<br />
thuế, từ khai thác tài nguyên và các nguồn thu khác tăng không đáng kể. Kiểm toán nhà<br />
nước với tư cách là cơ quan chuyên môn độc lập về lĩnh vực kiểm tra tài chính cao nhất của<br />
Nhà nước do Quốc hội thành lập, hàng năm thực hiện kiểm tra việc quản lý, sử dụng ngân<br />
sách, tiền và tài sản của nhà nước đối với mọi cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách.<br />
2. Thực trạng nợ công<br />
Tại Việt Nam, nợ công đang là một trong những vấn đề thu hút nhiều sự quan tâm nhất<br />
trên các diễn đàn kinh tế trong thời gian gần đây. Với một nước đang phát triển như Việt<br />
Nam, vay nợ có thể xem là một công cụ cần thiết để tài trợ vốn, đáp ứng nhu cầu đầu tư và<br />
khuyến khích phát triển sản xuất trong giai đoạn nền kinh tế còn có mức tích lũy thấp. Tuy<br />
nhiên, nếu chúng ta lạm dụng việc vay nợ và sử dụng thiếu thận trọng nguồn tài chính này<br />
thì các khoản nợ sẽ thành một gánh nặng cho tương lai, khiến sự bền vững của nền kinh tế<br />
bị đe một<br />
dọa.công cụ cần thiết để tài trợ vốn, đáp ứng nhu cầu đầu tư và khuyến khích phát triển sản xuất trong<br />
giai đoạn nền kinh tế còn có mức tích lũy thấp. Tuy nhiên, nếu chúng ta lạm dụng việc vay nợ và sử dụng<br />
Hình 1:<br />
thiếu thận<br />
Tỷtrọng<br />
trọngnguồn tài chính<br />
nợ công, này thìphủ<br />
nợ chính các và<br />
khoản nợ sẽ thành<br />
nợ nước ngoàimột<br />
củagánh<br />
Việtnặng<br />
Namcho tương lai, khiến<br />
2011-2016 (%GDP)sự<br />
bền vững của nền kinh tế bị đe dọa.<br />
Hình 1: Tỷ trọng nợ công, nợ chính phủ và nợ nước ngoài của Việt Nam 2011-2016 (%GDP)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nguồn:<br />
Nguồn: Viện Chiến<br />
Viện Chiến lược vàvà<br />
lược Chính<br />
Chính sách tàitài<br />
sách chính (2017)<br />
chính (2017)<br />
Số liệu thống kê trong Hình 1 cho thấy, tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam những năm gần<br />
Số<br />
đâyliệu thống<br />
đang có xukêhướng<br />
trong tăng<br />
Hìnhnhanh,<br />
1 cho đặc<br />
thấy, tỷ kể<br />
biệt lệ từ<br />
nợnăm<br />
công/GDP<br />
2011. Cụcủa thể,Việt Nam vòng<br />
chỉ trong những 05năm<br />
năm gần<br />
từ<br />
đây đang có xuđến<br />
năm 2011 hướng tăng tỉ<br />
năm 2015, nhanh, đặc biệt kể<br />
lệ nợ công/GDP củatừViệt<br />
năm 2011.<br />
Nam Cụ khoảng<br />
đã tăng thể, chỉ12,2<br />
trong<br />
điểm vòng<br />
phần05 năm<br />
trăm,<br />
từ năm 2011 đến năm 2015, tỉ lệ nợ công/GDP của Việt Nam đã tăng<br />
từ 50% lên đến 62,2%. Tới cuối năm 2016, nợ công ước tính đã lên tới 63,7% GDP. Với tốc độ khoảng 12,2 điểm<br />
phần tăng<br />
trăm, từtục<br />
liên 50% lên đến<br />
khoảng 62,2%.<br />
5% mỗi Tới trong<br />
năm như cuối giai<br />
nămđoạn2016, nợ côngmức<br />
2011-2016, ướctrần<br />
tínhnợđã<br />
cônglên65%<br />
tới 63,7%<br />
GDP<br />
GDP.doVới tốc hội<br />
Quốc độ đặt<br />
tăng raliên tụcsẽkhoảng<br />
có thể bị phá vỡ5% mỗithời<br />
trong năm như<br />
gian tới.trong giai đoạn 2011-2016, mức trần<br />
nợ công 65% GDP do Quốc hội đặt ra có thể sẽ bị<br />
Hình 2: Tỷ lệ nợ công, Việt Nam và một số nước trong phá vỡ khu<br />
trongvựcthời gian tới.<br />
2000-2016 (% GDP)<br />
38 TẠP CHÍ KHOA HỌC<br />
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ<br />
Số liệu thống kê trong Hình 1 cho thấy, tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam những năm gần<br />
đây đang có xu hướng tăng nhanh, đặc biệt kể từ năm 2011. Cụ thể, chỉ trong vòng 05 năm từ<br />
năm 2011 đến năm 2015, tỉ lệ nợ công/GDP của Việt Nam đã tăng khoảng 12,2 điểm phần trăm,<br />
từ 50% lên lệ<br />
đến Nguồn:côngViện Chiếntínhlược và Chính sáchGDP.<br />
tài chính (2017)<br />
Hình 2: Tỷ nợ62,2%.<br />
công,Tới<br />
Việtcuối<br />
Namnămvà2016,<br />
một nợsố nướcước trong đã lên<br />
khu vựctới2000-2016<br />
63,7% (%Với tốc độ<br />
GDP)<br />
Sốtục<br />
tăng liên liệukhoảng<br />
thống kê<br />
5%trong Hìnhnhư<br />
mỗi năm 1 cho thấy,<br />
trong tỷ đoạn<br />
giai lệ nợ công/GDP<br />
2011-2016,của mứcViệt<br />
trầnNam những65%<br />
nợ công nămGDPgần<br />
đây đang có xu hướng tăng nhanh, đặc biệt kể từ năm<br />
do Quốc hội đặt ra có thể sẽ bị phá vỡ trong thời gian tới. 2011. Cụ thể, chỉ trong vòng 05 năm từ<br />
năm 2011<br />
Hình đến2: năm<br />
Tỷ lệ2015, tỉ lệViệt<br />
nợ công, nợ công/GDP<br />
Nam và một của<br />
số Việt<br />
nướcNamtrongđãkhu<br />
tăngvực<br />
khoảng 12,2 điểm<br />
2000-2016 phần trăm,<br />
(% GDP)<br />
từ 50% lên đến 62,2%. Tới cuối năm 2016, nợ công ước tính đã lên tới 63,7% GDP. Với tốc độ<br />
tăng liên tục khoảng 5% mỗi năm như trong giai đoạn 2011-2016, mức trần nợ công 65% GDP<br />
do Quốc hội đặt ra có thể sẽ bị phá vỡ trong thời gian tới.<br />
Hình 2: Tỷ lệ nợ công, Việt Nam và một số nước trong khu vực 2000-2016 (% GDP)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nguồn: IMF (2017a)<br />
Hình 3: Tỷ lệ nợ công, Việt Nam và một số nước mới nổi/đang phát triển trên thế giới, 2000-<br />
Hình 3: Tỷ lệ nợ công, Việt Nam và 2016một số(% nước<br />
GDP) mới nổi/đang phát triển trên thế giới,<br />
2000-2016 (% GDP)<br />
Nguồn: IMF (2017a)<br />
Hình 3: Tỷ lệ nợ công, Việt Nam và một số nước mới nổi/đang phát triển trên thế giới, 2000-<br />
2016 (% GDP)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nguồn: IMF (2017)<br />
<br />
<br />
<br />
Nguồn: IMF (2017)<br />
<br />
<br />
<br />
Tương tự như vậy, từ năm 2011 đến năm 2016, tỉ lệ nợ chính phủ/GDP đã tăng từ 39,3%<br />
đến 52,7%, tiến rất sát tới mức ngưỡng kiểm soát 54% của Quốc hội (xem Hình 1).<br />
Bên cạnh đó, theo số liệu thống kê của IMF (2017), so với các quốc gia còn lại trong khu<br />
vực ASEAN cũng như so với các nhóm quốc gia mới nổi và đang phát triển trên thế giới, tỷ lệ<br />
nợ công/GDP của Việt Nam đã gia tăng mạnh mẽ, từ vị trí thấp nhất giai đoạn từ 2000-2005<br />
vươn lên đứng đầu trong năm 2016 với nợ công ước tính lên tới 60,7% GDP (xem Hình 2 và<br />
Hình 3).<br />
<br />
(1) Trường Đại học Mỏ - Địa chất TẠP CHÍ KHOA HỌC 39<br />
(2) Trường Đại học Mỏ - Địa chất QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ<br />
Email: huongpt.mdc@ gmail.com<br />
Bên cạnh đó, theo số liệu thống kê của IMF (2017), so với các quốc gia còn lại trong khu vực<br />
ASEAN cũng như so với các nhóm quốc gia mới nổi và đang phát triển trên thế giới, tỷ lệ nợ<br />
công/GDP của Việt Nam đã gia tăng mạnh mẽ, từ vị trí thấp nhất giai đoạn từ 2000-2005 vươn<br />
Hình 4: Tăng trưởng kinh tế và tỷ trọng thâm hụt ngân sách, 2000-2016 (% GDP)<br />
lên đứng đầu trong năm 2016 với nợ công ước tính lên tới 60,7% GDP (xem Hình 2 và Hình 3).<br />
Hình 4: Tăng trưởng kinh tế và tỷ trọng thâm hụt ngân sách, 2000-2016 (% GDP)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nguồn: Cơ sở dữ liệu của CEIC<br />
Thâm hụt ngân sách cao triền miên (xem Hình 4), một phần bắt nguồn từ sự kém hiệu quả<br />
trong<br />
Thâm hụt việcngân<br />
sử dụng nguồn<br />
sách caovốntriềnvay,miên<br />
đặc biệt(xemở khu<br />
Hình vực4),kinhmột tế nhà<br />
phần nước,<br />
bắtgây ra những<br />
nguồn từ sựthách<br />
kémthức hiệu<br />
quả trong<br />
rất lớnviệc sử dụng<br />
đối với việc kiểmnguồnsoát vốn vay,trong<br />
nợ công đặc giới<br />
biệthạnở khucho vực<br />
phép.kinhBên tế nhà<br />
cạnh đó,nước, gâyngân<br />
thâm hụt ra những<br />
sách<br />
tháchtạo<br />
thức ra rất<br />
sứclớnép đối với<br />
với nguồn<br />
việc kiểm trả nợsoát<br />
trongnợ ngân<br />
côngsáchtrong nhàgiới hạndẫn<br />
nước, chođếnphép.<br />
tìnhBên<br />
trạngcạnh<br />
đảo đó, thâm<br />
nợ ngày<br />
hụt ngân<br />
càng sáchgia tăng.tạo Theo<br />
ra sức ép đốitrình<br />
Chương với quản<br />
nguồn lý trả nợ trong<br />
nợ trung ngân<br />
hạn giai sách<br />
đoạn nhà nước,<br />
2016-2018 đượcdẫnThủđếntướngtình<br />
trạng Chính<br />
đảo nợ ngày càng gia tăng. Theo Chương trình quản lý nợ<br />
phủ phê duyệt vào cuối tháng Tư năm 2017, lượng vay để trả nợ gốc trong năm 2016 là trung hạn giai đoạn 2016-<br />
2018 132,4<br />
được nghìnThủ tướng<br />
tỷ đồng,Chính<br />
năm 2017 phủkhoảng<br />
phê duyệt vào cuối<br />
144 nghìn tỷ đồngtháng<br />
. Tư năm 2017, lượng vay để trả<br />
nợ gốc trong<br />
Với chiều hướng gia tăng quy mô và tính rủi ro của nợ công như 144<br />
năm 2016 là 132,4 nghìn tỷ đồng, năm 2017 khoảng hiện nghìn tỷ đồng<br />
nay, quản lý nợ .công<br />
Với<br />
đangchiềulà mộthướng<br />
tronggia tăngvấn<br />
những quy đềmôđượcvàquan<br />
tính tâm<br />
rủi ro<br />
nhấtcủa đốinợvớicông nhưhoạch<br />
các nhà hiện nay,<br />
định quản<br />
chính lý nợ giới<br />
sách, công<br />
đang học<br />
là một thuật trong<br />
cũngnhững<br />
như dưvấn luậnđề tại được quan tâm nhất đối với các nhà hoạch định chính sách,<br />
Việt Nam.<br />
giới học thuật cũng như dư luận<br />
3. Đánh giá thực trạng vai trò của KTNN tại Việt Nam. trong quản lý nợ công<br />
3. Đánh giá thực trạng vai trò của KTNN trong quản lý nợ công<br />
3.1. Những thành tựu đạt được<br />
3.1. Những thành tựu đạt được<br />
Trong những năm qua, KTNN đã chú ý thực hiện vai trò của mình trong quản lý nợ công, làm<br />
Trong những năm qua, KTNN đã chú ý thực hiện vai trò của mình trong quản lý nợ công,<br />
tiền đề để xác lập vai trò của KTNN trong quản lý nợ công thông qua các văn bản pháp luật.Ta<br />
làm tiền đề để xác lập vai trò của KTNN trong quản lý nợ công thông qua các văn bản pháp<br />
cócó<br />
luật.Ta thểthể thấythấy<br />
những kết quả<br />
những kếtđạtquảđượcđạtở được<br />
một sốởkhía mộtcạnh sau: cạnh sau:<br />
số khía<br />
Một là, KTNN đã quan tâm, chú ý đến công tác kiểm toán nợ công. Mặc dù hàng năm, KTNN<br />
Một là,thực<br />
chưa KTNN hiệnđãkiểm toántâm,<br />
quan nợ côngchúmột cáchcông<br />
ý đến độc lậptácnhưng<br />
kiểmđã toáncó những<br />
nợ công.định Mặc<br />
hướngdùnhấthàngđịnhnăm,<br />
về<br />
KTNNvaichưa trò kiểm<br />
thựctoánhiệnvàkiểm<br />
giám toán<br />
sát nợnợ công.<br />
công Chúng<br />
một tacáchthấyđộcrằng, lậpngaynhưngtừ khiđãmới<br />
cóthành<br />
những lậpđịnh<br />
theo hướng<br />
Nghị<br />
định số<br />
nhất định về70/CP<br />
vai trò ngày<br />
kiểm 11 toán<br />
thángvà 7 năm<br />
giám1994, sát trong<br />
nợ công. cơ cấu tổ chức<br />
Chúng ta của<br />
thấyKTNN<br />
rằng,đãngaycó đơntừ vị<br />
khiđảmmới<br />
thànhnhận nhiệmNghị<br />
lập theo vụ kiểmđịnhtoánsốnợ công. ngày<br />
70/CP Cơ cấu11tổthángchức của 7 nămKTNN theo Nghị<br />
1994, trongđịnhcơ 70/CP<br />
cấu tổgồm:chứcVăn của<br />
KTNNphòng;<br />
đã cóKiểm đơn toán<br />
vị đảmngân nhận<br />
sáchnhiệm<br />
nhà nước;vụ kiểmKiểm toán<br />
toán nợ công.<br />
chương Cơdự<br />
trình cấuán,tổcác<br />
chức<br />
khoảncủaviện<br />
KTNN theo<br />
trợ, vay<br />
Nghị nợ<br />
định công70/CP (gọi gồm:<br />
tắt là Văn<br />
Kiểmphòng;<br />
toán đầu Kiểm<br />
tư dự toán<br />
án);ngân<br />
Kiểmsách toán nhàdoanh nước;<br />
nghiệpKiểmnhàtoán<br />
nước;chương<br />
Kiểm toán trình<br />
dự án,chương<br />
các khoản việnbiệt.<br />
trình đặc trợ,Như<br />
vayvậy nợ cócôngthể (gọi tắt là ngay<br />
thấy rằng, Kiểmtừtoán đầu tư<br />
khi thành dựvấn<br />
lập, án);<br />
đềKiểm toánvay<br />
kiểm toán doanh<br />
nợ<br />
nghiệpcôngnhà đãnước;<br />
được đặtKiểmra và toán<br />
coi chương<br />
đây là một trình<br />
trọngđặc biệt.<br />
điểm Nhưhoạt<br />
trong vậyđộngcó thểcủa thấy<br />
KTNN.rằng, ngayKTNN<br />
Khi Luật từ khi<br />
thànhcólập,hiệu lực, một trong những nội dung kiểm toán của KTNN là các khoản vay nợ công. Khi trong<br />
vấn đề kiểm toán vay nợ công đã được đặt ra và coi đây là một trọng điểm ban<br />
hoạt động của KTNN. Khi Luật KTNN có hiệu lực, một trong<br />
hành chức năng, nhiệm vụ cho các đơn vị trực thuộc KTNN, Tổng KTNN đã giao trách nhiệm những nội dung kiểm toán của<br />
KTNNkiểm là các khoản vay nợ công. Khi ban hành chức năng,<br />
toán các khoản vay nợ công cho KTNN chuyên ngành II và sau này đã điều chỉnh lại và nhiệm vụ cho các đơn vị trực<br />
giao cho Vụ Tổng hợp. Mặc dù kiểm toán các khoản nợ công trên thực tế chưa được thực hiện<br />
40 TẠP CHÍ KHOA HỌC<br />
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ<br />
thuộc KTNN, Tổng KTNN đã giao trách nhiệm kiểm toán các khoản vay nợ công cho KTNN<br />
chuyên ngành II và sau này đã điều chỉnh lại và giao cho Vụ Tổng hợp. Mặc dù kiểm toán<br />
các khoản nợ công trên thực tế chưa được thực hiện nhưng với các quy định của pháp luật<br />
đã chứng tỏ sự quan tâm của các cấp, các nhà quản lý về tầm quan trọng đối với vai trò của<br />
KTNN trong quản lý nợ công.<br />
<br />
Hai là, KTNN đã chú ý đánh giá công tác quản lý nợ công thông qua kiểm toán quyết<br />
toán NSNN. Hàng năm, kể từ khi thành lập đến nay và nhất là kể từ khi Luật NSNN sửa đổi<br />
có hiệu lực từ năm ngân sách 2004 và quyết toán NSNN năm 2002, trong quá trình kiểm<br />
toán quyết toán, KTNN luôn chú trọng đánh giá vấn đề quản lý nợ công. Các đoàn kiểm toán<br />
đã chú ý đến số liệu nợ công, làm việc với các cơ quan quản lý nợ của Bộ Tài chính để có thể<br />
nắm bắt được tình hình quản lý nợ công hàng năm và có thể đưa ra kiến nghị phù hợp. Đặc<br />
biệt đối với kiểm toán quyết toán NSNN năm 2013 đã đề cập riêng nội dung quản lý nợ công.<br />
Mặc dù chưa phải là cuộc kiểm toán riêng, độc lập về quản lý nợ nhưng cũng đã có những<br />
nhận định, đánh giá nhất định về nợ công. Có thể coi đây là tiền đề để đi những bước tiếp<br />
theo trong công tác kiểm toán nợ công. Trong đề cương kiểm toán quyết toán ngân sách nhà<br />
nước hàng năm, luôn đề cập đến công tác quản lý nợ công. Tuy nhiên, trên thực tế thực hiện<br />
có những khó khăn nhất định do một phần từ các cơ quan quản lý, một phần từ phía KTNN.<br />
<br />
Ba là, thông qua kiểm toán nội dung về nợ công, KTNN đã đưa ra một số ý kiến mang<br />
tính cảnh báo đối với tình hình vay nợ của ngân sách địa phương từ đó thu hút sự quan tâm<br />
của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan chức năng và công chúng.<br />
Những số liệu tăng thu, giảm chi cho NSNN thông qua hoạt động kiểm toán cũng như<br />
kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý tài chính ngân sách cũng như việc kiến<br />
nghị, sửa đổi hay hủy bỏ hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật sai quy định hoặc không<br />
còn phù hợp với thực tế đã góp phần tạo ra được sự quan tâm của Quốc hội, các cơ quan<br />
chức năng và dự luận, công chúng đến tình hình vay nợ của ngân sách địa phương trong<br />
tổng thể nợ công. Thông qua đó góp phần tạo ra thông tin để cảnh báo tình hình quản lý<br />
nợ công, góp phần thúc đẩy các cơ quan quản lý nợ có biện pháp quản lý tốt hơn. Những<br />
kiến nghị của KTNN ngày càng đa dạng, sâu sắc và có chất lượng hơn, đã được Quốc hội,<br />
Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương sử dụng ngày càng nhiều trong xem xét, phê chuẩn<br />
dự toán, quyết toán ngân sách, giám sát ngân sách và thực hiện chính sách pháp luật; các<br />
đơn vị được kiểm toán khắc phục những yếu kém, bất cập, hoàn thiện hệ thống kiểm soát<br />
nội bộ. Bên cạnh đó, việc công khai kết quả kiểm toán, kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị<br />
kiểm toán của KTNN được thực hiện định kỳ, có định hướng đã tạo được dư luận tốt cả trong<br />
và ngoài nước. Qua đó, KTNN đã khẳng định được vị thế, vai trò của mình trong quản lý nợ<br />
công thông qua chất lượng và hiệu quả kiểm toán ngày càng được nâng cao.<br />
<br />
Bốn là, trong thời gian qua, vị thế của KTNN đã càng ngày càng được nâng cao. Cùng<br />
với công tác xây dựng, ban hành pháp luật nhằm hoàn thiện căn cứ pháp lý điều chỉnh hoạt<br />
động KTNN, KTNN còn hết sức chú trọng phổ biến, tuyên truyền pháp luật về tổ chức hoạt<br />
động KTNN bằng nhiều hình thức, biện pháp đa dạng, thiết thực đối với các cấp chính quyền<br />
từ cơ sở, xã, phường cũng như đối với các Bộ, ngành, công chúng và xã hội nói chung nhằm<br />
mục đích hoàn thành tốt và phát huy cao hơn nữa vai trò của KTNN trong quản lý nợ công.<br />
3.2. Những hạn chế, yếu kém<br />
<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC 41<br />
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ<br />
Mặc dù đã có những kết quả đạt được trong việc thực hiện vai trò của KTNN trong quản<br />
lý nợ công. Tuy nhiên còn nhiều hạn chế mà KTNN cần phải quan tâm để có thể xác lập và<br />
nâng cao vai trò của mình trong quản lý nợ công nợ công một cách đầy đủ theo các thông lệ<br />
hiện hành. Có thể thấy một số yếu kém, hạn chế trong việc thực hiện vai trò của KTNN trong<br />
quản lý nợ công mà KTNN cần nhận diện và tìm ra giải pháp khắc phục, đó là:<br />
<br />
Một là, cho đến nay, sau 20 năm hoạt động, vai trò của KTNN vẫn chưa được phân định<br />
rõ ràng trong các văn bản, chính sách quản lý nợ công mà chỉ hiểu một cách gián tiếp. Trong<br />
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, với yêu cầu minh bạch thông tin tài chính ngân sách quốc<br />
gia bao gồm cả việc quản lý các khoản nợ công thì yêu cầu KTNN đóng một vai trò nhất<br />
định trong quản lý nợ công là yêu cầu được các định chế tài chính quốc tế đề ra. Tuy nhiên,<br />
khung pháp lý của Việt Nam vẫn chưa thực hiện được việc này. KTNN Việt Nam vẫn chưa<br />
có một vị trí pháp lý, chức năng và nhiệm vụ rõ ràng trong hệ thống quản lý nợ công và theo<br />
đó, KTNN Việt Nam vẫn chưa có một vai trò cụ thể trong quản lý nợ công.<br />
<br />
Hai là, KTNN chưa tổ chức được cuộc kiểm toán nào độc lập và toàn diện về quản lý nợ<br />
công và cũng chưa xây dựng được quy trình, chuẩn mực và các hướng dẫn kiểm toán quản<br />
lý nợ công. Thậm chí cho đến nay, KTNN cũng chưa xây dựng được đội ngũ cán bộ, chuyên<br />
gia am hiểu về quản lý nợ công để giúp Tổng KTNN trong việc hoạch định chiến lược, xây<br />
dựng vai trò vị trí của KTNN trong quản lý nợ công cũng như chiến lược kiểm toán nợ công.<br />
Chính vì vậy, thời gian qua, mặc dù có sự lồng ghép đánh giá về nợ công nhưng chưa thể coi<br />
đó là việc thực hiện vai trò của KTNN trong quản lý nợ công.<br />
<br />
Ba là, các đánh giá, kiến nghị của KTNN chưa sâu sắc và giúp ích nhiều cho cơ quan<br />
quản lý nợ công. Qua kiểm toán, cơ quan KTNN có đề cập đến vay nợ Chính phủ, đánh giá<br />
tuân thủ của việc vay nợ. Tuy nhiên, KTNN cũng chỉ đi sâu việc tuân thủ là vay nợ thế nào,<br />
có đúng hạn mức do luật định hay không, có cân đối vào ngân sách địa phương hay không...<br />
Trong khi các đánh giá rủi ro quản lý nợ công về tăng cường quản trị rủi ro trong quản lý nợ<br />
công (như cơ cấu vay nợ ra sao, tính bền vững của việc vay nợ như thế nào, có đảm bảo khả<br />
năng thanh toán không, số liệu nợ có hạch toán đầy đủ theo thông lệ chung của quốc tế để<br />
đảm bảo tính so sánh hay không...) là rất cần thiết lại chưa được KTNN thực hiện. Mặt khác,<br />
mặc dù công tác quản lý nợ công còn nhiều bất cập nhưng KTNN cũng chưa đưa ra được<br />
những kiến nghị tầm vĩ mô để giúp các cơ quan của Chính phủ hoàn thiện công tác công tác<br />
này. Nhiều vấn đề về quản lý nợ công đang có sự khác biệt xa so với chuẩn mực quản lý nợ<br />
công mà các tổ chức quốc tế ban hành nhưng chưa được KTNN phát hiện và kiến nghị để<br />
có cơ chế quản lý thích hợp và có biện pháp sửa đổi cần thiết với các điều khoản luật định.<br />
Đây là những vấn đề hết sức cần thiết trong quản lý nợ công KTNN chưa đề cập nhằm đưa<br />
ra ý kiến độc lập của mình để đánh giá và kiến nghị hoàn thiện công tác quản lý nợ công ở<br />
Việt Nam, là khoảng trống trong trong việc thực hiện kiểm toán nợ công cũng như vai trò của<br />
KTNN trong quản lý nợ công những năm qua cần có biện pháp tháo gỡ khắc phục.<br />
<br />
Bốn là, việc công khai kết quả kiểm toán về quản lý và sử dụng nợ công của KTNN còn<br />
hạn chế. Các đánh giá kiểm toán đôi khi còn né tránh, chung chung, chưa đi sâu đánh giá<br />
tình hình, cơ cấu, chi phí và hạch toán nợ công nhằm hạn chế rủi ro tài chính trong vay nợ<br />
đồng thời không xác định rõ trách nhiệm và đưa ra giải pháp cụ thể để giúp cơ quan chức<br />
<br />
42 TẠP CHÍ KHOA HỌC<br />
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ<br />
năng xử lý những sai phạm phát hiện thông qua hoạt động kiểm toán. Có thể nói đây là yếu<br />
kém cần sớm khắc phục để đưa công tác kiểm toán nợ công của KTNN dần đi vào hoạt động<br />
và phát huy vai trò của cơ quan KTNN trong quản lý nợ công.<br />
Và cuối cùng là KTNN chưa thực sự phát huy được vai trò là công cụ mạnh của Nhà nước<br />
trong kiểm tra, giám sát các nguồn lực tài chính nhà nước, nhất là trong quản lý nợ công.<br />
KTNN chưa có một đơn vị riêng có chức năng, nhiệm vụ và chịu trách nhiệm kiểm toán quản<br />
lý nợ công và đánh giá nợ công hàng năm. Trình độ kiểm toán viên trong kiểm toán quản lý<br />
nợ công vẫn còn nhiều hạn chế.<br />
<br />
4. Kết luận<br />
Quản lý nợ công là một trong những vấn đề quan trọng nhất xét ở khía cạnh tác động<br />
qua lại đến bội chi NSNN và tăng trưởng kinh tế ở nước ta hiện nay. Nếu không khắc phục<br />
kịp thời những tồn tại, yếu kém về nợ công nói trên thì nó sẽ trở thành lực cản, kìm hãm sự<br />
phát triển của nền kinh tế.<br />
Ngược lại, nếu Nhà nước mạnh dạn đổi mới cách thức quản lý nợ công với những giải<br />
pháp hữu hiệu thì nợ công sẽ trở thành lực đẩy cần thiết mang tính nền tảng để hình thành<br />
hệ thống cơ sở hạ tầng nước ta hoàn chỉnh đồng thời sẽ có tác động tích cực đến việc lành<br />
mạnh hóa NSNN và đảm bảo cấu trúc an ninh tài chính quốc gia, qua đó, tạo bệ phóng cho<br />
nền kinh tế nước ta cất cánh vững chắc trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Luật Quản lý nợ công số 29/2009/QH12;<br />
2. Bản tin Nợ công số 4 (2016) - Bộ Tài chính;<br />
3 .ThS. Lê Thị Khương (2016) “Bàn về nợ công Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Ngân hàng,<br />
(21);<br />
4. PGS.,TS. Đặng Văn Thanh (2016), “Đổi mới và nâng cao chất lượng Quản lý sử dụng<br />
nợ công ở Việt Nam”, Tạp chí Kế toán và Kiểm toán, (12);<br />
5. Kiểm toán nhà nước (2017), Quy trình kiểm toán ngân sách nhà nước, ban hành ngày<br />
29/3/2017<br />
6. Kiểm toán nhà nước, Báo cáo kiểm toán có liên quan đến tình hình quản lý và sử dụng<br />
nợ công.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC 43<br />
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ<br />