intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thực trạng và một số giải pháp cho hoạt động đánh bắt thủy sản tự nhiên tại đầm phá Tam Giang

Chia sẻ: Kinh Kha | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:8

62
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hàng năm, trung bình tại đầm phá Thừa Thiên Huế khai thác xấp xỉ được khoảng 2.500 đến 3.000 tấn thủy sản cá, tôm, cua các loại. Từ số liệu về tiềm năng cũng như sản lượng thực tế của nghề đánh bắt thủy sản tại vùng đầm phá có thể cho thấy giá trị kinh tế to lớn từ hoạt động này. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thực trạng và một số giải pháp cho hoạt động đánh bắt thủy sản tự nhiên tại đầm phá Tam Giang

TAP CHI KHOA HOC, Đai hoc Huê, Sô 43, 2007<br /> ̣ ́ ̣ ̣ ̣ ́ ́<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG ĐÁNH BẮT <br /> THỦY SẢN TỰ NHIÊN TẠI ĐẦM PHÁ TAM GIANG<br /> Nguyễn Ngọc Châu<br /> Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế<br /> <br /> I. Giới thiệu về hệ đầm phá Tam Giang và hoạt động đánh bắt thủy sản <br /> tự nhiên (ĐBTN)<br /> Với chiều dài gần 70 km và diện tích xấp xỉ 22 ngàn hecta ­ chiếm 4,3% tổng  <br /> diện tích tỉnh Thừa Thiên Huế hay 17,2% diện tích đồng bằng ven biển, hệ đầm phá <br /> Tam Giang ­ Cầu Hai là một lagoon ven bờ có diện tích lớn nhất vùng Đông Nam Á <br /> và là một trong những lagoon có bề mặt vực nước lớn nhất thế giới. Xét riêng về giá  <br /> trị thủy sản, hệ đầm phá là nơi gặp gỡ, giao thoa của hai môi trường sống khác biệt  <br /> nhau tạo nên sự đa dạng về sinh học. Hệ đầm phá Tam Giang ­ Cầu Hai lưu giữ một  <br /> nguồn gen khá phong phú gồm hơn 600 loài, trong đó có 43 loài rong có thể dùng cho  <br /> công nghiệp sản xất agar hoặc làm phân bón, 12 loài tôm, 18 loài cua và nhiều loài <br /> thân mềm có giá trị  khác. Nhiều loài tôm có giá trị  thực phẩm cao như  tôm sú, tôm <br /> lớt, tôm rằn, tôm rảo, trìa, vẹm xanh, ngao.... Hơn 200 loài cá trong đó có đến 23 loài  <br /> có giá trị thương phẩm cao như cá dầy, cá đối mục, cá dìa, cá mòi cờ  chấm, cá sạo <br /> chấm, cá đù bạc,... [5].<br /> Hàng năm, trung bình tại đầm phá Thừa Thiên Huế  khai thác xấp xỉ  được <br /> khoảng 2.500 đến 3.000 tấn thủy sản cá, tôm, cua các loại [6]. Từ  số  liệu về  tiềm  <br /> năng cũng như sản lượng thực tế của nghề đánh bắt thủy sản tại vùng đầm phá có  <br /> thể cho thấy giá trị kinh tế to lớn từ hoạt động này. Cũng theo số liệu của Sở Thủy <br /> sản, hiện nay đang có khoảng 9.726 người đang tham gia vào hoạt động khai thác  <br /> này, chiếm tỷ lệ khoảng 26,6% trong tổng số lao động thủy sản và khoảng 7,05% lao  <br /> động toàn vùng đầm phá. Tuy nhiên, hiện nay đang có hàng loạt vấn đề  đặt ra cho  <br /> các cấp quản lý trong chính quyền, trong đó nghiêm trọng nhất là tình trạng nguồn  <br /> lợi thủy sản đang bị  suy giảm nghiêm trọng. Thực trạng này đòi hỏi phải có các  <br /> nghiên cứu để tìm ra giải pháp cần thiết cho hoạt động đánh bắt tự nhiên.   <br /> II. Phương pháp nghiên cứu<br /> Về  phương pháp nghiên cứu, hợp phần này là một sự  kết hợp giữa nghiên  <br /> cứu thăm dò (exploratory) và nghiên cứu giải thích (explainatory). <br /> Nguồn số liệu của hợp phần bao gồm cả hai nguồn tài liệu sơ cấp và tài liệu  <br /> thứ  cấp là những bài báo khoa học, các tham luận trong hội thảo quốc gia về  đầm  <br /> phá, các số  liệu thống kê của các Sở, Ban, Ngành có liên quan tại tỉnh Thừa Thiên <br /> <br /> 13<br /> Huế như Cục Thống kê, Sở Khoa học – Công nghệ, Sở Tài nguyên – Môi trường, Sở <br /> Thủy sản.<br /> Về nguồn số liệu sơ cấp được thu thập thông qua hai công cụ chủ yếu, đó là: <br /> điều tra bằng bảng hỏi với quy mô mẫu là 335 hộ  chuyên nghề  đánh bắt thủy sản  <br /> phân bố  trên 8 xã, tiến hành các cuộc điều tra đánh giá nông thôn có sự  tham gia  <br /> (PRA) tại 4 xã trong phạm vi đầm phá Tam Giang, phỏng vấn chuyên sâu đối với các  <br /> nông dân quan trọng tại cộng đồng.<br /> Về  phương pháp phân tích, chúng tôi sử  dụng kết hợp phương pháp thống kê <br /> kinh tế  (định lượng) và các phương pháp phân tích định tính  trong phát triển nông <br /> thôn. <br /> III. Kết quả nghiên cứu<br /> 3.1. Thực trạng và giá trị từ hoạt động ĐBTN<br /> Hoạt động đánh bắt tự nhiên trên đầm phá Tam Giang có rất nhiều sản phẩm, <br /> tuy nhiên trong đó có hai loại sản phẩm chính đó là: tôm và cá. Đây là hai loại sản  <br /> phẩm có số người tham gia khai thác nhiều nhất đồng thời đem lại thu nhập cao và <br /> ổn định nhất. Do đó, để mô tả thực trạng hoạt động đánh bắt chúng tôi tập trung vào  <br /> hai hoạt động này.<br />             3.1.1.Giá trị thủy sản được đánh bắt bình quân hộ/năm<br /> Trong phần này, chúng tôi xác định giá trị  đánh bắt thủy sản bình quân hộ.  <br /> Tổng giá trị đánh bắt thủy sản trong năm của hộ, được tính bằng giá trị đánh bắt bình  <br /> quân ngày nhân với tổng số ngày tham gia đánh bắt trong năm, tính cho từng loại sản  <br /> phẩm.<br /> Bảng 1: Giá trị đánh bắt thủy sản bình quân hộ/năm (1000đ)<br /> <br /> Giá trị đánh bắt  Tổng số  Tổng giá trị <br /> Chỉ tiêu trung bình/ ngày  ngày đánh  đánh bắt <br /> (1000đ) bắt (ngày) (1000đ)<br /> <br /> Giá trị đánh bắt/ngày trong vụ chính<br /> ­         Cá (T12 – T8) 25,19 221,4 5.577,06<br /> ­         Tôm (T2­6) 55,24 116 6.407,84<br /> Giá trị đánh bắt/ngày trong vụ khác<br /> ­         Cá 12,59 46,5 585,43<br /> ­         Tôm 20,56 107,1 2.201,97<br /> Giá trị đánh bắt trong cả năm    <br /> ­         Cá 6.162,50<br /> ­        Tôm 8.609,81<br /> Tổng giá trị đánh bắt cả năm/hộ   14.772,32<br /> <br /> Nguồn: Điều tra thực tế, 2005<br /> <br /> 13<br /> Từ  số  liệu điều tra cho thấy, vào thời điểm chính vụ  sản phẩm tôm có thể <br /> cho một giá trị  sản lượng (khoảng 55.000 đồng) cao hơn nhiều so với cá (khoảng <br /> 25.190 đồng). Điều này có thể được giải thích bởi giá bán của tôm khá cao, trong khi <br /> đó sản phẩm cá đánh bắt được bao gồm rất nhiều loại trong đó có những loại giá trị <br /> kinh tế không cao. Từ số liệu về giá trị  đánh bắt này của các loại sản phẩm, giá trị <br /> sản lượng cả  năm bình quân một hộ  khai thác tự  nhiên được ước tính là: 6.162.500 <br /> đồng   cho   cá,   8.609.810   đồng   cho   tôm   và   tổng   giá   trị   sản   lượng   là:   14.772.320 <br /> đồng/năm.<br /> Bảng 2: Chi phí hoạt động đánh bắt thủy sản bình quân hộ/năm (1000đ)<br /> <br /> Chỉ tiêu Số trung bình Độ lệch chuẩn<br /> Tổng chi phí đánh bắt <br /> 4725,0 4096,0<br /> Trong đó:<br />  ­ Lao động thuê ngoài  122,3 703,0<br />  ­ Xăng dầu                            2124,1 2322,3<br />  ­ Sửa chữa, mua sắm ngư cụ  2388,2 2704,8<br />  ­ Lệ phí  47,6 99,5<br />  ­ Chi phí khác  42,8 194,2<br /> Nguồn: Điều tra thực tế, 2005<br /> Để  phục vụ  cho việc đánh bắt thủy sản có một số  chi phí thường phát sinh  <br /> như  trên (trong báo cáo này, chúng tôi chỉ  đề  cập đến các loại chi phí bằng tiền). <br /> Trong các khoản chi phí dành cho khai thác có hai khoản chi phí chiếm tỷ  trọng cao  <br /> trong tổng chi phí bằng tiền phát sinh, đó là chi phí cho xăng dầu (chiếm 44,95%) và <br /> chi phí cho việc sửa chữa, mua sắm ngư lưới cụ (chiếm 50,44%). Hằng năm vào dịp <br /> không chính vụ  người dân có một đợt tu sửa nò sáo, vá lưới, thay cọc,… và sau đó,  <br /> cứ  khoảng hai năm các hộ  lại có một đợt sửa chữa và thay thế  mới phần lớn trộ <br /> nghề  của mình. Ngoài ra, hầu như  các hộ  đánh bắt đều có thuyền máy và phải sử <br /> dụng hàng ngày nên chi phí cho xăng, dầu, mỡ  là khoản chi phí lớn thứ  hai. Nhìn <br /> chung, tổng chi phí bằng tiền cho việc khai thác thủy sản bình quân một hộ gia đình <br /> trong cả năm là 4.725.000 đồng. <br /> Bảng 3:Thu nhập từ hoạt động ĐBTN bình quân hộ/năm (1000đ)<br /> <br /> Chỉ tiêu Số trung bình Độ lệch chuẩn<br /> Giá trị sản lượng  đánh bắt/năm 14.772,3 12.340,54<br /> Chi phí hoạt động đánh bắt/năm 4.725,0 4.096,05<br /> Thu nhập từ hoạt động ĐBTN/năm 10.047.3<br /> Nguồn: Điều tra thực tế, 2005<br /> 13<br /> Như vậy, kết hợp số liệu về tổng giá trị sản lượng và tổng chi phí bằng tiền <br /> phát sinh, thu nhập bình quân từ hoạt động ĐBTN của một hộ chuyên khai thác thủy <br /> sản tại vùng đầm phá Tam Giang là 10.047.300 đồng/năm. Nếu loại trừ  các nguồn <br /> thu nhập khác và thu nhập từ các sản phẩm thủy sản phụ như cua, hến, rong… từ số <br /> liệu về  thu nhập trên, thu nhập bình quân một khẩu/tháng của các hộ  chuyên khai <br /> thác thủy sản tự  nhiên đạt khoảng 141.000 đồng/người/tháng (số  nhân khẩu bình <br /> quân hộ trong nhóm đối tượng nghiên cứu là 5,9 người). Rõ ràng đây là một mức thu <br /> nhập rất thấp, thậm chí thấp hơn chuẩn nghèo hiện hành của Việt Nam (TCTK,  <br /> 2005) một khoảng không nhỏ. Như vậy có thể  thấy đây là nhóm đang gặp phải rất  <br /> nhiều khó khăn trong đời sống kinh tế.<br /> 3.1.2.Những khó khăn đối với hoạt động ĐBTN hiện nay<br /> Bảng 4: Những khó khăn đối với hoạt động khai thác thủy sản<br /> <br /> Lý do Số ý kiến Tỷ lệ (%)<br /> Do các ao NTTS gây ô nhiễm 42 13<br /> Các ao NTTS lấn chiếm bãi đẻ 204 61<br /> Số hộ và phương tiện đánh băt gia tăng 132 39<br /> Tình trạng sử dụng ngư cụ có tính hủy diệt nhiều 257 77<br /> Khác (giá ngư  cụ  tăng, xâm phạm ngư  trường,  ảnh  31 9<br /> hưởng đến sức khỏe ..)<br /> Nguồn: Điều tra thực tế, 2005<br /> Trong các điểm khó khăn được đưa ra có ba vấn đề  nổi bật, đó là: tình trạng <br /> sử  dụng các ngư  cụ  có tính hủy diệt vẫn còn nhiều, hiện tượng các ao nuôi trồng  <br /> thủy sản đã gia tăng mạnh và lấn chiếm các bãi đẻ  của thủy sản tự nhiên và số  hộ <br /> đánh bắt gia tăng. Một số  khó khăn khác đối với hoạt động khai thác thủy sản tự <br /> nhiên theo người dân còn là do các ao nuôi trồng thủy sản gây ô nhiễm môi trường <br /> nước, tình trạng ngư dân xâm phạm ngư trường lẫn nhau, giá ngư cụ  tăng,… nhưng <br /> những nguyên nhân này không được nhiều ngư dân đồng tình.<br /> Những khó khăn đối với hoạt động đánh bắt tự nhiên chính là các yếu tố làm  <br /> giảm giá trị  thủy sản khai thác tự nhiên. Từ các khó khăn trên có thể  thấy đây chỉ  là  <br /> một số nguyên nhân cấp I (trực tiếp)  ảnh hưởng đến giá trị này. Để có một cái nhìn <br /> toàn diện và sâu sắc hơn về các khó khăn của nhóm họ  này, chúng tôi đã tiến hành  <br /> một số cuộc phỏng vấn chuyên sâu đối với các cán bộ có trách nhiệm ở địa phương  <br /> và một số PRA (đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân) để  xây dựng cây <br /> vấn đề đối với hoạt đông ĐBTN. <br /> Từ  cây vấn đề  trên đây cho thấy các tác nhân trực tiếp  ảnh hưởng đến tình  <br /> trạng trữ  lượng thủy sản giảm trong thời gian qua chủ  yếu là do khả  năng tái tạo <br /> <br /> 13<br /> nguồn lợi thủy sản giảm và những nguyên nhân trực tiếp của khả năng này giảm là ô  <br /> nhiễm môi trường nước, các bãi đẻ, bãi giống bị mất, số ngư cụ khai thác ngày càng  <br /> nhiều và số ngư cụ có tính hủy diệt tăng. Tuy nhiên, nguyên nhân gốc rễ của vấn đề <br /> lại xuất phát từ  các yếu tố  chủ  yếu nằm trong phần quản lý của nhà nước. Một  <br /> nguyên nhân gốc quan trọng giải thích tại sao chất lượng môi trường nước giảm đó <br /> là cơ chế sở hữu mặt nước chưa rõ ràng và đa số người dân coi đó là một loại hàng  <br /> hoá công cộng (public good) cho nên sử dụng bừa bãi. Điều này cộng hưởng với việc  <br /> chúng ta chưa có những nghiên cứu, đánh giá nghiêm túc về môi trường trong các dự <br /> án sản xuất – kinh doanh cũng như phát triển tại vùng đầm phá cho nên có thể gây ra  <br /> tình trạng thiếu thông tin (trong kinh tế  học tình trạng này được gọi là thất bại thị <br /> trường – market failure) gây ra các quyết định sai lệch. Một nguyên nhân gốc khác  <br /> cũng rất quan trọng đó là vai trò của người dân trong việc quản lý các nguồn lực xã  <br /> hội trong quá khứ đã đôi lúc bị xem nhẹ. Điều này dẫn tới sự thiếu tham gia trong lập <br /> quy hoạch các phát triển vùng của các đối tượng có liên quan (stakeholders) và các sự <br /> phối hợp chưa tích cực giữa chính quyền và người dân trong việc ngăn chặn tình <br /> trạng đánh bắt hủy diệt. Ngoài ra, trong số các nguyên nhân gốc còn một yếu tố quan  <br /> trọng phản ánh một đặc trưng của nhóm hộ chuyên khai thác thủy sản tự nhiên đó là  <br /> thiếu các điều kiện cần thiết để  lựa chọn một sinh kế khác bởi vì họ  thiếu các yếu <br /> tố  sản xuất cơ bản như vốn, đất đai, kỹ  thuật,… Do đó, cùng với quá trình tăng dân  <br /> số, tách hộ, số  hộ  đánh bắt và số  ngư  cụ  được sử  dụng tăng lên là một điều khó  <br /> tránh khỏi. Sinh kế  của nhóm hộ  này trong tương lai vẫn phụ  thuộc chủ  yếu vào  <br /> nguồn khai thác nguồn lợi thủy sản tự nhiên.   <br /> 3.2. Xu thế phát triển của hoạt động khai thác thủy sản tự nhiên<br /> Bảng 5: Dự định thay đổi sinh kế của người dân<br /> <br /> Có Không<br /> Sinh kế trong tương lai Số người Tỷ lệ (%) Số người Tỷ lệ <br /> (%)<br /> Tiếp tục nghề ĐBTN như cũ 298 88,96 37 11,04<br /> Làm thêm nghề khác với nghề <br /> ĐBTN 221 65,97 114 34,03<br /> Trong đó:<br /> ­ Nuôi tôm 79 35,75<br /> ­ Nuôi cá 120 54,30<br /> ­ Trồng trọt 46 20,81<br /> ­ Chăn nuôi 60 29,86<br /> ­ Dịch vụ 50 22,62<br /> Nguồn: Điều tra thực tế, 2005<br /> <br /> 13<br /> Hoạt động đánh bắt tự  nhiên trong tương lai gần không thay đổi nhiều vì sự <br /> lệ thuộc nặng nề của đời sống ngư dân vào nguồn tài nguyên thủy sản và đặc biệt là <br /> do khả  năng chuyển đổi hạn chế  của người dân như  đã phân tích  ở  trên vì sự  hạn  <br /> chế về kiến thức, kinh nghiệm, vốn, đất đai,… Tuy số người muốn chuyển đổi hẳn  <br /> sinh kế không nhiều, nhưng số người muốn làm thêm một vài hoạt động kinh tế  thì <br /> lại có khá nhiều. Điều này có thể được giải thích bởi mức độ thu nhập từ hoạt động  <br /> sản xuất chính – khai thác thủy sản tự nhiên ­  là không nhiều và đang có xu hướng  <br /> giảm rõ rệt. Trong đó, phần lớn người dân (54,30% trong tổng số  221 người muốn <br /> có thêm các hoạt động sản xuất) cũng muốn được làm các nghề có liên quan việc sử <br /> dụng mặt nước vì diện tích ruộng đất của họ quá ít không đủ cho các hoạt động sản  <br /> xuất nông nghiệp. Những thông tin về  ý định thay đổi sinh kế  của người dân thể <br /> hiện rõ rệt mong muốn cải thiện tình trạng thu nhập thấp và không ổn định của họ <br /> và đây là một nhu cầu xã hội bức thiết, đòi hỏi các cấp chính quyền và các cơ  quan <br /> hữu trách cần có biện pháp để giải quyết nhu cầu xã hội này.<br /> 3.3. Các định hướng giải pháp nhằm bảo vệ giá trị nguồn lợi thủy sản<br /> Những định hướng giải pháp hướng tới việc bảo vệ  giá trị  nguồn lợi thủy <br /> sản được đề ra ở đây chủ yếu dựa trên cây vấn đề mà trong phần phân tích các khó  <br /> khăn đối với hoạt động khai thác tự nhiên đã đề cập. Rõ ràng để giải quyết tận gốc  <br /> các khó khăn này thì các nguyên nhân gốc cần phải được giải quyết. Mặt khác, vấn <br /> đề suy giảm nguồn lợi thủy sản gây ra bởi một tập hợp các nguyên nhân khác nhau  <br /> do đó cần có cách tiếp cận quản lý tổng hợp để  giải quyết đồng thời từ  nhiều  <br /> hướng khác nhau. Trong phạm vi báo cáo này, nhóm làm đề tài chúng tôi xin đề xuất <br /> một số định hướng giải pháp như sau:<br /> ­ Quyền sở hữu mặt nước cần giao cho các đối tượng cụ thể. Hiện nay, theo  <br /> mặt nước vẫn được sử dụng chung cho nên không có người chịu trách nhiệm thực sự <br /> để  khai thác mặt nước một cách hiệu quả  và bền vững. Tuy nhiên, mặt nước đầm <br /> phá không thể  giao cho từng hộ  quản lý như  đất nông nghiệp, nhung nó cần được  <br /> quản lý bởi một tổ  chức thực sự  của cộng đồng và đủ  quyền lực để  đại diện cho <br /> cộng đồng đó. <br /> ­ Hoàn thiện các cơ chế quản lý đối với tài nguyên đầm phá. Để tổ chức cộng  <br /> đồng thực sự quản lý tài nguyên đầm phá hiệu quả, tránh đi vào hình thức thì tổ chức  <br /> này cần được giao quyền và xây dựng năng lực một cách mạnh mẽ hơn nữa. Ví dụ,  <br /> hiện nay chi hội nghề  cá ­ một hình thức quản lý dựa vào cộng đồng ­ hoạt động  <br /> chưa hiệu quả  vì không có năng lực để  giải quyết các hiện tượng xâm phạm tài  <br /> nguyên như đánh bắt hủy diệt. <br /> ­ Nâng cao sự  tham gia của người dân để  đạt sự  đồng thuận trong quản lý.  <br /> Cũng nhằm mục đích phát huy quyền tự làm chủ của người dân và để tổ chức cộng  <br /> đồng quản lý tài nguyên tốt hơn thì sự tham gia của người dân vào các quá trình quản <br /> lý nguồn lực xã hội cần được nâng cao hơn nữa. Trước khi thực hiện các hoạt động <br /> liên quan đến sử  dụng nguồn lực của xã hội, đặc biệt là tác động đến môi trường  <br /> <br /> 13<br /> sống (trong đó có nhiều hoạt động cần làm ngay như  quy hoạch lại các ao NTTS, <br /> sắp xếp lại nò sáo,…) thì sự  tham gia ý kiến của các bên liên quan (stakeholders) là <br /> điều rất cần thiết.   <br /> ­ Hoàn thiện các công cụ quản lý đối với tài nguyên đầm phá, đặc biệt là các <br /> công cụ  về  kiểm soát chất lượng môi trường và thuế  tài nguyên. Bên cạnh những <br /> yếu tố  cơ bản về xác định quyền sở hữu và phát huy tính tự  chủ  trong quản lý của  <br /> cộng đồng, nhà nước cần tích cực hỗ trợ cho các quá trình đó thông qua các can thiệp <br /> của mình. Việc quản lý tài nguyên sẽ  dễ  dàng rơi vào thất bại nếu người sử dụng <br /> không có đủ kiến thức và nhận thức về ảnh hưởng ngoại lai (externalities) mà mình  <br /> gây ra. Để khắc phục thất bại thị trường này, nhà nước nghiên cứu triển khai nhiều <br /> hơn   nữa   các   công   cụ   quản   lý   hiệu   quả.   Đặc   biệt   là   áp   dụng   công   nghệ   GIS  <br /> (Geographical Information System) để quản lý tổng thể, tính toán và giám sát các chỉ <br /> tiêu về  môi truờng, quy định các khoản phí sử  dụng môi trường thích đáng đối với <br /> các hoạt động xâm phạm môi trường. Đối với việc quy định phí sử dụng môi trường <br /> thì việc nghiên cứu đánh giá tác động môi trường, các hoạt động đầu tư  là điều hết <br /> sức cần thiết nhưng đó cũng chính là điểm yếu trong quản lý môi truờng hiện nay. <br /> ­ Tạo điều kiện để  một bộ phận ngư dân chuyển đổi sinh kế nhằm giảm áp <br /> lực với khả năng tái tạo của nguồn lợi thủy sản. Về lâu dài, nếu số  hộ  ngư dân cứ <br /> tiếp tục tăng lên mà không thể tìm kiếm những sinh kế khác, họ sẽ lại tiếp tục nghề <br /> đánh bắt truyền thống và đe doạ  đến khả  năng tái tạo của nguồn lợi thủy sản. Do  <br /> đó, các cấp chính quyền cần có những biện pháp để  chuyển một bộ  phân ngư  dân <br /> sang các nghề  khác, đặc biệt là các nghề  phi nông nghiệp. Bởi vì nhóm hộ  này có  <br /> diện tích đất bình quân quá thấp không đủ để tham gia sản xuất nông nghiệp.<br /> ­ Nâng cao khả năng tái tạo nguồn lợi thủy sản hiện tại thông qua: khắc phục  <br /> chất lượng môi trường nước, quy hoạch lại vùng nuôi trồng thủy sản, xử lý rác thải  <br /> sản xuất và sinh hoạt, ngăn chặn đánh bắt hủy diệt.<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1. Nguyễn Quang Vinh Bình. Quản lý nguồn lợi thủy sản Hệ đầm phá Tam Giang , <br /> NXB Thuận Hóa, Huế (1996)<br /> 2. Nguyễn Lương Hiền, Nguyễn Quang Vinh Bình. Quản lý nghề cá dựa vào cộng  <br /> đồng tại đầm phá Tam Giang (2004)<br /> 3. Nguyễn Văn Hợp. Chất lượng nước đầm phá Tam Giang ­ Cầu Hai, Báo cáo hội  <br /> thảo quốc gia về đầm phá, Sở KHCN (2005)<br /> 4. Đỗ Nam. Báo cáo hội thảo quốc gia về đầm phá, Sở KHCN (2005)<br /> 5. Phân viện Hải dương học Hải Phòng. Đánh giá tiềm năng và Đề xuất lựa chọn  <br /> khu bảo vệ  đất ngập nước hệ  đầm phá Tam Giang ­ Cầu Hai , Đề  tài cấp tỉnh <br /> Thừa Thiên Huế (1997).<br /> 6. Sở  Thủy sản,  Quy hoạch tổng thể  quản lý khai thác thủy sản tỉnh Thừa Thiên  <br /> Huế, (2003).<br /> <br /> 13<br /> 7. Sở Thủy sản. Chiến lược quản lý hệ thống đầm phá Thừa Thiên ­ Huế dưới góc  <br /> độ thủy sản, Báo cáo hội thảo quốc gia về đầm phá, Sở KHCN (2005).<br /> 8. TS. Nguyễn Việt Thắng,  Chủ  trương và những thách thức đối với phát triển  <br /> bền vững ngành thủy sản, Tạp chí Thủy sản, 2005.<br /> 9. Trương Văn Tuyển. Mở  rộng  ứng dụng quy hoạch theo phương pháp tham gia  <br /> trong hệ thống đầm phá Tam Giang, Báo cáo hội thảo quốc gia về đầm phá, Sở <br /> KHCN (2005)<br /> AQUATIC PRODUCT CATCHING IN TAM GIANG LAGOON, <br />  THUA THIEN ­ HUE PROVINCE ­ SITUATION AND SOME SOLUTION<br /> Nguyen Ngoc Chau<br /> College of  Economics, Hue University<br /> SUMMARY<br /> The Tam Giang lagoon of Thua Thien ­ Hue province is well endowed with biological  <br /> resources. Aquatic product catching is the main livelihood of thousands of local households.  <br /> However, income gained from this activity has been seriously declined for several years. By  <br /> now, the average monthly income from aquatic product catching is only 141,000 VND per  <br /> capita. It reveals the very low living standard of fish catching households in Tam Giang lagoon.  <br /> Several reasons explaining for decline in aquaculture resources have presented the reciprocal  <br /> relationships,   ranging   into   six­level   problem   tree.   These   reasons   embed   typical   and  <br /> complicated social issues which need involvement of many stakeholders (state agencies, local  <br /> residents,   local   management   bodies…)   to   deal   with.   Based   on   the   problem   analysis   and  <br /> expectation of local residents on their future livelihood, some policy implications were pointed  <br /> out as below:   <br /> 1. Re­allocating water surface ownership to specific agents<br /> 2. Improving   management   mechanism   of   the   lagoon   natural   resources,   especially   the  <br /> roles of local management bodies<br /> 3. Strengthening participation of local households in the lagoon natural resource use and  <br /> management<br /> 4. Improving management tools, especially environment quality control and environment  <br /> taxation<br /> 5. Improving  livelihood of fishermen households by off­farm activities<br /> 6. Enhancing renewal capacity of current aquatic resources.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 13<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2