intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thực trạng xu hướng với nghề sư phạm của sinh viên năm thứ nhất, trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

60
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu này khảo sát xu hướng nghề ở sinh viên sư phạm thông qua số liệu điều tra và phỏng vấn sâu. Kết quả nghiên cứu cho thấy xu hướng với nghề sư phạm của sinh viên ở mức độ trung bình, do đó có ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động học tập và rèn luyện nghề ở sinh viên. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới xu hướng nghề, trong đó, yếu tố tâm lý như hứng thú, mong muốn, sở thích của cá nhân sinh viên chi phối mạnh hơn yếu tố xã hội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thực trạng xu hướng với nghề sư phạm của sinh viên năm thứ nhất, trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế

THỰC TRẠNG XU HƯỚNG VỚI NGHỀ SƯ PHẠM CỦA SINH VIÊN<br /> NĂM THỨ NHẤT, TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ<br /> NGUYỄN VĂN BẮC 1 - TRẦN VĂN TÍN 2<br /> Khoa Tâm lý – Giáo dục, trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế<br /> Email: nguyenv_bac@yahoo.com<br /> 2<br /> Khoa Tâm lý – Giáo dục, trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế<br /> 1<br /> <br /> Tóm tắt: Xu hướng nghề có vai trò quan trọng trong hoạt động nghề nghiệp.<br /> Nắm bắt được xu hướng với nghề giúp sinh viên có định hướng phù hợp<br /> trong học tập và rèn luyện nghề. Xu hướng với nghề sư phạm là khuynh<br /> hướng hoạt động sư phạm và khát vọng thực hiện hoạt động này cũng như<br /> nhu cầu về nghề đã chọn ở sinh viên sư phạm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy<br /> nhiều sinh viên chọn ngành sư phạm để thi tuyển nhưng chưa hẳn là xác<br /> định xu hướng nghề nghiệp rõ ràng. Nghiên cứu này khảo sát xu hướng nghề<br /> ở sinh viên sư phạm thông qua số liệu điều tra và phỏng vấn sâu. Kết quả<br /> nghiên cứu cho thấy xu hướng với nghề sư phạm của sinh viên ở mức độ<br /> trung bình, do đó có ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động học tập và rèn luyện<br /> nghề ở sinh viên. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới xu hướng nghề, trong đó,<br /> yếu tố tâm lý như hứng thú, mong muốn, sở thích của cá nhân sinh viên chi<br /> phối mạnh hơn yếu tố xã hội. Qua kết quả khảo sát, nhóm nghiên cứu đề<br /> xuất một số biện pháp tác động nhằm nâng cao xu hướng với nghề sư phạm<br /> ở sinh viên, đồng thời giúp sinh viên có định hướng học tập, rèn luyện tốt<br /> hơn và qua đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở nhà trường.<br /> Từ khóa: Xu hướng, nghề sư phạm, sinh viên.<br /> <br /> 1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Để đạt kết quả cao trong hoạt động nghề nghiệp, mỗi người phải có sự say mê, hứng thú<br /> với nghề. Sinh viên sư phạm trong quá trình học tập tại trường sư phạm cần phải có xu<br /> hướng với nghề, tức là có sự định hướng rõ ràng trong học tập và rèn luyện. Xu hướng<br /> với nghề sư phạm là khuynh hướng hoạt động sư phạm và khát vọng thực hiện hoạt<br /> động này cũng như nhu cầu về nghề đã chọn [1]. Theo các nhà sư phạm, xu hướng nghề<br /> sư phạm của sinh viên được thể hiện ở nhu cầu, hứng thú về nghề, động cơ lựa chọn<br /> nghề và có khuynh hướng trong học tập, rèn luyện với nghề [2], [3].<br /> Theo E. I. Rogov và những nhà nghiên cứu khác, xu hướng với nghề sư phạm của sinh<br /> viên được thể hiện ở 5 nội dung cơ bản, đó là:<br /> 1) Tính tổ chức trong hoạt động nghề: như sự tự tin về bản thân, có khả năng trong<br /> hoạt động, làm việc khoa học, ngăn nắp, luôn có quyết định dứt khoát trong công việc,<br /> luôn đóng góp xây dựng tập thể, mong muốn làm công việc liên quan tới hoạt độngquản lý, muốn người khác lắng nghe và làm việc theo yêu cầu.<br /> <br /> Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br /> ISSN 1859-1612, Số 01(41)/2017: tr. 62-69<br /> Ngày nhận bài: 31/8/2016; Hoàn thành phản biện: 06/9/2016; Ngày nhận đăng: 13/3/2017<br /> <br /> 64<br /> <br /> NGUYỄN VĂN BẮC – TRẦN VĂN TÍN<br /> <br /> 2) Hướng hoạt động của bản thân tới môn học: như nắm chắc kiến thức về môn học,<br /> dành nhiều thời gian đọc sách về môn sẽ dạy, luôn tích lũy kiến thức cho bản thân khi<br /> đọc sách, luôn quan tâm đến các khoa học lân cận, ngưỡng mộ nhà khoa học trong lĩnh<br /> vực bản thân sẽ hướng tới, ngưỡng mộ giáo viên vững về chuyên môn, cảm thấy buồn<br /> khi phải nghỉ buổi bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn.<br /> 3) Giao tiếp: luôn muốn tiếp xúc với mọi người, thích trao đổi với mọi người về những<br /> hiểu biết của bản thân, khuyến khích mọi người bày tỏ ý kiến, thích gần gũi và làm cho<br /> mọi người vui, luôn có thiện chí khi giao tiếp với mọi người.<br /> 4) Động cơ được thừa nhận: như nghiên cứu kỹ và nắm chắc kiến thức, luôn chú ý về<br /> ăn mặc, khi mắc lỗi luôn sẵng sàng nhận lỗi, mong muốn được giúp đỡ người khác, lo<br /> lắng và chuẩn bị kỹ các điều kiện cho công việc, luôn nỗ lực cố gắng vươn lên trong<br /> công việc.<br /> 5) Trí tuệ: như luôn quan tâm nhiều về đạo đức và lối sống ứng xử, có khả năng phân<br /> tích đánh giá hành vi của bản thân, luôn đánh giá phân tích hành vi của người khác, cân<br /> nhắc mọi việc làm của bản thân, thể hiện sự hiểu biết, sáng tạo trong mọi hoạt động.<br /> Lý luận trên cho thấy, xu hướng với nghề của sinh viên sư phạm biểu hiện ở nhiều mặt<br /> hoạt động nghề của sinh viên. Nghiên cứu xu hướng nghề sư phạm của sinh viên cần<br /> phải được xem xét trên nhiều mặt thì mới có sự nhận định chính xác và đề ra những<br /> biện pháp tác động phù hợp nhằm góp phần định hướng cho sinh viên học tập rèn luyện<br /> nghề tốt hơn. Như vậy, việc nghiên cứu xu hướng với nghề sư phạm của sinh viên có ý<br /> nghĩa lớn đối với học tập, rèn luyện nghề ở sinh viên và công tác đào tạo ở nhà trường.<br /> 2. KHÁCH THỂ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> 2.1. Khách thể nghiên cứu<br /> Để tìm hiểu xu hướng với nghề sư phạm của sinh viên, chúng tôi tiến hành khảo sát 217<br /> sinh viên năm thứ nhất trường Đại học sư phạm – Đại học Huế, gồm 114 sinh viên khối<br /> xã hội và 103 sinh viên khối tự nhiên. Trong đó, có 92 sinh viên nam và 125 sinh viên<br /> nữ. Thời điểm khảo sát giữa học kỳ 2 năm thứ nhất khi hầu hết sinh viên đã phần nào<br /> quen với môi trường sư phạm và đều biết được kết quả học tập học kỳ 1 của bản thân.<br /> 2.2. Phương pháp nghiên cứu<br /> Chúng tôi tiến hành khảo sát thực trạng xu hướng với nghề sư phạm của sinh viên năm<br /> thứ nhất trên 5 nội dung cơ bản: nhận thức về nghề sư phạm, động cơ lựa chọn nghề sư<br /> phạm và xu hướng với nghề sư phạm, các biểu hiện xu hướng nghề và các yếu tố tác<br /> động tới xu hướng nghề ở sinh viên. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng gồm<br /> phương pháp điều tra, phương pháp trắc nghiệm (với trắc nghiệm xu hướng nghề sư<br /> phạm của E. I. Rogov), phương pháp quan sát và phương pháp phỏng vấn. Kết quả khảo<br /> sát được phân tích bằng phần mềm SPSS 16.0. Chỉ số Cronbach’s Alpha của bảng hỏi là<br /> 0,751 và của trắc nghiệm là 0,692. Chỉ số này cho thấy bộ công cụ được sử dụng để<br /> nghiên cứu có độ tin cậy khá tốt, đảm bảo độ chính xác của kết quả khảo sát.<br /> <br /> THỰC TRẠNG XU HƯỚNG VỚI NGHỀ SƯ PHẠM CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT...<br /> <br /> 65<br /> <br /> 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br /> 3.1. Lý do chọn nghề của sinh viên sư phạm<br /> Xu hướng với nghề sư phạm thể hiện ở nhiều mặt trong hoạt động nghề nghiệp. Yếu tố<br /> đầu tiên liên quan tới xu hướng nghề nghiệp của sinh viên là động cơ chọn nghề của<br /> sinh viên; và qua động cơ chọn nghề này, chúng ta có cơ sở nhận định ban đầu về hứng<br /> thú, sở thích của sinh viên đối với nghề sư phạm.<br /> Bảng 1. Lý do chọn nghề sư phạm của sinh viên sư phạm<br /> STT<br /> 1<br /> 1<br /> 3<br /> 4<br /> 5<br /> 6<br /> 7<br /> 8<br /> 9<br /> 10<br /> 11<br /> 12<br /> <br /> Lý do chọn nghề sư phạm<br /> Bản thân chọn nghề sư phạm vì nghề sư phạm được xã hội đánh<br /> giá cao<br /> Bản thân chọn nghề sư phạm là do gia đình định hướng<br /> Bản thân chọn nghề sư phạm vì không phải đóng học phí<br /> Bản thân chọn nghề sư phạm là muốn có thời gian cho gia đình<br /> Bản thân chọn nghề sư phạm là vì nghề này phù hợp vơi sức<br /> khỏe của bản thân<br /> Bản thân chọn nghề sư phạm là vì có lòng yêu với học sinh,<br /> muốn đem lại tri thức cho các em<br /> Bản thân chọn nghề sư phạm vì không còn trường nào hơn.<br /> Bản thân chọn nghề sư phạm là do bạn bè động viên<br /> Bản thân chọn nghề sư phạm vì nghề này nhìn chung dễ xin<br /> việc<br /> Bản thân chọn nghề sư phạm vì thấy có năng khiếu về dạy học<br /> Bản thân chọn nghề sư phạm sau này dễ dàng học cao hơn<br /> Bản thân chọn đại để có nghề nghiệp<br /> <br /> SL<br /> 159<br /> <br /> %<br /> 73,3<br /> <br /> ThB<br /> 1<br /> <br /> 151<br /> 130<br /> 97<br /> 90<br /> <br /> 69,6<br /> 59,9<br /> 44,7<br /> 41,5<br /> <br /> 2<br /> 3<br /> 4<br /> 5<br /> <br /> 86<br /> <br /> 39,7<br /> <br /> 6<br /> <br /> 83<br /> 82<br /> 74<br /> <br /> 38,2<br /> 37,8<br /> 34,1<br /> <br /> 7<br /> 8<br /> 9<br /> <br /> 72<br /> 70<br /> 62<br /> <br /> 33,2<br /> 32,3<br /> 28,6<br /> <br /> 10<br /> 11<br /> 12<br /> <br /> Kết quả khảo sát về động cơ chọn nghề ở Bảng 1 cho thấy sinh viên chọn nghề sư phạm<br /> với nhiều lý do khác nhau. Đa số sinh viên được khảo sát đều xác nhận là chọn nghề sư<br /> phạm là nghề được xã hội đánh giá cao, do gia đình định hướng và do nghề này khi học<br /> các em không phải đóng học phí. Sự nhận thức trên cho thấy, các lý do chọn nghề của<br /> sinh viên liên quan đến kinh tế của gia đình do cha mẹ định hướng chứ bản thân sinh viên<br /> chưa thực sự yêu thích nghề dạy học. Qua trao đổi với em NTH sinh viên ngành Địa lý,<br /> chúng tôi biết được rằngem học ngành sư phạm chủ yếu là không phải đóng học phí vì gia<br /> đình em làm ruộng, rất khó khăn. Kết quả khảo sát còn cho thấy, phương án “chọn nghề<br /> sư phạm do có hứng thú với nghề dạy học, có năng khiếu với nghề hoặc lòng yêu học<br /> sinh” cũng được sinh viên lựa chọn nhưng không xếp ở mục ưu tiên. Điều này ảnh hưởng<br /> tới kết quả học tập, và rèn luyện về nghề sư phạm của sinh viên. Nhiều nhà giáo dục lo<br /> lắng rằng sinh viên sư phạm không yêu thích nghề mà vẫn theo học, các em hại chính bản<br /> thân thì ít vì lựa chọn sai ngành nghề, nhưng lớn hơn là các em hại cả một thế<br /> hệ”(Nguyễn Kim Hồng, 2016) vì nếu chọn nghề sư phạm, các em phải thật sự yêu nghề,<br /> yêu trẻ, yêu học sinh. Thực tiễn cho thấy, một số sinh viên trong quá trình học tập ở<br /> trường sư phạm mới nhận ra nghề dạy học chưa thực sự phù hợp với các em. Kết quả<br /> khảo sát này cho thấy cần quan tâm hơn nữa công tác giáo dục về nghề để định hướng<br /> <br /> NGUYỄN VĂN BẮC – TRẦN VĂN TÍN<br /> <br /> 66<br /> <br /> sinh viên tích cực hơn, hứng thú hơn với nghề dạy học, để các em xác định nghề đúng<br /> đắn, phù hợp với hứng thú, sở thích và năng lực của bản thân.<br /> 3.2. Nhận thức của sinh viên về mức độ phù hợp với nghề sư phạm<br /> Bảng 2. Nhận thức của sinh viên về mức độ phù hợp với nghề sư phạm<br /> STT<br /> 1<br /> 2<br /> 3<br /> 4<br /> <br /> 5<br /> 6<br /> <br /> Nội dung<br /> Qua quá trình học, bản thân thấy<br /> học nghề sư phạm là đúng đắn<br /> Quá trình học, bản thân thấy thực<br /> sự yêu thích nghề sư phạm<br /> Nghề sư phạm phù hợp với khả<br /> năng và sức khỏe của bản thân<br /> Quá trình học, bản thân thấy ngành<br /> sư phạm không hợp với tính cách<br /> của bản thân<br /> Quá trình học, bản thân thấy muốn<br /> thi lại ngành khác<br /> Bản thân đang phân vân không biết<br /> nên học tiếp hay thi lại ngành khác<br /> <br /> Đúng<br /> <br /> Thỉnh<br /> thoảng đúng<br /> SL<br /> %<br /> 144<br /> 66,4<br /> <br /> SL<br /> 61<br /> <br /> %<br /> 28,1<br /> <br /> 64<br /> <br /> 29,5<br /> <br /> 120<br /> <br /> 123<br /> <br /> 56,7<br /> <br /> 38<br /> <br /> Không đúng<br /> SL<br /> 12<br /> <br /> %<br /> 5,5<br /> <br /> 55,3<br /> <br /> 33<br /> <br /> 15,2<br /> <br /> 76<br /> <br /> 35,0<br /> <br /> 18<br /> <br /> 8,3<br /> <br /> 17,5<br /> <br /> 104<br /> <br /> 47,9<br /> <br /> 75<br /> <br /> 34,6<br /> <br /> 57<br /> <br /> 26,3<br /> <br /> 55<br /> <br /> 25,3<br /> <br /> 105<br /> <br /> 48,4<br /> <br /> 73<br /> <br /> 33,6<br /> <br /> 40<br /> <br /> 18,4<br /> <br /> 104<br /> <br /> 47,9<br /> <br /> Kết quả khảo sát về nhận thức mức độ phù hợp của bản thân sinh viên với nghề cho thấy<br /> số lượng sinh viên khẳng định sự lựa chọn nghề sư phạm là đúng đắn, có lòng yêu nghề,<br /> phù hợp với khả năng và sức khỏe của bản thân ở mức độ tương đối thấp, số lượng ý kiến<br /> “thỉnh thoảng mới cảm nhận được” vẫn chiếm tỉ lệ cao. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra<br /> rằng số sinh viên cho rằng sau quá trình học tập hơn một học kỳ tại trường sư phạm thì<br /> thấy ngành này không phù hợp với tính cách của bản thân và có suy nghĩ muốn thi lại<br /> ngành khác chiếm tỷ lệ không nhỏ, cụ thể có 38 ý kiến (17,5%) cho rằng nghề sư phạm<br /> không hợp với tính cách của mình và có 57 ý kiến chiếm 26,3% cho rằng muốn thi lại<br /> ngành khác. Như vậy, sinh viên có nhận định nghề sư phạm không thực sự phù hợp với<br /> bản thân, muồn thi lại ngành khác hoặc số sinh viên đang phân vân với nghề sư phạm<br /> chiếm tỉ tệ không nhỏ, điều này cho thấy xu hướng với nghề của sinh viên sư phạm là<br /> thấp và ảnh hưởng lớn tới định hướng học tập, rèn luyện nghề ở sinh viên.<br /> 3.3. Xu hướng với nghề sư phạm của sinh viên<br /> Kết quả khảo sát được thể hiện ở Bảng 3 cho thấy xu hướng với nghề sư phạm của sinh<br /> viên năm thứ nhất trường Đại học sư phạm Huế ở mức độ trung bình, với điểm TBC là<br /> 5,54/10 điểm. Như vậy, sinh viên chưa thực sự định hướng trong học tập, rèn luyện với<br /> nghề sư phạm; theo đó, ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng đào tạo, bởi lẽ có sinh viên<br /> xu hướng với nghề thấp thì thường thiếu tính tích cực chủ động trong học tập, rèn luyện<br /> về nghề. Tuy nhiên, trong các nội dung của xu hướng nghề sư phạm, mức độ xu hướng<br /> có sự khác biệt, cụ thể nội dung giao tiếp trong hoạt động nghề sư phạm (muốn tiếp xúc<br /> với mọi người, thích trao đổi với mọi người về những hiểu biết của bản thân, khuyến<br /> <br /> THỰC TRẠNG XU HƯỚNG VỚI NGHỀ SƯ PHẠM CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT...<br /> <br /> 67<br /> <br /> khích mọi người bày tỏ ý kiến, thích gần gũi và làm cho mọi người vui, luôn có thiện chí<br /> khi giao tiếp với mọi người) đạt ở mức độ tốt nhất với ĐTBC của nhóm là 6,33/10 điểm,<br /> so với chuẩn chỉ đạt mức độ khá. Động cơ được thừa nhận trong hoạt động với nghề sư<br /> phạm (tích cực nghiên cứu kỹ và nắm chắc kiến thức, luôn chú ý về ăn mặc, khi mắc lỗi<br /> luôn sẵng sàng nhận lỗi, mong muốn được giúp đỡ người khác, lo lắng và chuẩn bị kỹ<br /> các điều kiện cho công việc, luôn nỗ lực cố gắng vươn lên trong công việc) ở mức độ<br /> thấp hơn, với ĐTBC của nhóm là 5,78/10 điểm. Thành phần về trí tuệ trong hoạt động<br /> nghề (luôn quan tâm nhiều về đạo đức và lối sống ứng xử, có khả năng phân tích đánh<br /> giá hành vi của bản thân, luôn đánh giá phân tích hành vi của người khác, cân nhắc<br /> mọi việc làm của thân, thể hiện sự hiểu biết, sáng tạo trong mọi hoạt động) ở mức độ<br /> thứ 3 với ĐTBC nhóm là 5,71/10 điểm. Nội dung hướng hoạt động của bản thân tới<br /> môn học (nắm chắc kiến thức về môn học, ngưỡng mộ nhà khoa học trong lĩnh vực môn<br /> học cho nghề nghiệp, dành nhiều thới gian đọc sách về môn sẽ dạy, ngưỡng mộ giáo<br /> viên vững về chuyên môn, luôn tích lũy kiến thức cho bản thân khi đọc sách, luôn quan<br /> tâm đến khoa học, cảm thấy buồn khi phải nghỉ buổi bồi dưỡng nâng cao trình độ<br /> chuyên môn) đạt 5,0/10 điểm. Thấp nhất là Tính tổ chức trong hoạt động nghề (sự tự tin<br /> về bản thân, có khả năng trong hoạt động, làm việc khoa học, ngăn lắp, luôn có quyết<br /> định dứt khoát trong công việc, luôn đóng góp xây dựng tập thể, mong muốn làm công<br /> việc liên quan tới hoạt động- quản lý, muốn người khác lắng nghe và làm việc theo yêu<br /> cầu của tổ chức) với ĐTBC nhóm là 4,88/10. Kết quả này cho thấy cần có biện pháp để<br /> kích thích, tăng cường hơn nữa xu hướng với nghề sư phạm ở sinh viên.<br /> Kết quả nghiên cứu còn chỉ ra một số sự khác biệt về xu hướng với nghề sư phạm ở một<br /> số tiêu chí. Cụ thể ở góc độ giới tính nhìn vào ĐTB, nữ sinh viên có xu hướng nghề sư<br /> phạm cao hơn nam sinh viên (ĐTB của nhóm nữ là 5,64 và ĐTB của nhóm nam là 5,40<br /> tuy nhiên kết quả kiểm định với t- test cho thấy chỉ số p = 0,134 > 0,05 thì không có sự<br /> khác biệt xu hướng nghề giữa nam sinh viên và nữ sinh viên. Ở góc độ khối ngành học,<br /> xu hướng với nghề sư phạm cũng không có sự khác biệt, với kết quả kiểm định t- test<br /> cho thấy chỉ số p= 0,054>0,05; tuy nhiên nhìn vào ĐTB thì sinh viên ngành xã hội có<br /> xu hướng nghề tốt hơn khối tự nhiên (ĐTB lần lượt là 5,68 và 5,38). Xét về kết quả học<br /> tập cũng có khác biệt cụ thể sinh viên có kết quả loại C có xu hướng nghề cao nhất với<br /> ĐTB là 6,03, tiếp đến là sinh viên có học lực loại A có xu hướng nghề ở mức 5,72 và<br /> thấp hơn là sinh viên có học lực loại B và D với ĐTB là 5,41 và 5,28 với F= 6,98 và<br /> p
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2