KHOA HỌC GIÁO DỤC<br />
<br />
<br />
<br />
THỰC TRẠNG XU HƯỚNG NGHỀ<br />
CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG<br />
TS. Lê Thị Xuân Thu<br />
Trung Tâm Nghiên cứu Giáo dục,<br />
Văn hóa & Nghệ Thuật<br />
<br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Bài báo đề cập đến xu hướng chọn nghề nghiệp tương lai của học sinh trung học phổ thông (THPT) tỉnh<br />
Phú Thọ. Số liệu nghiên cứu được thực hiện với 389 học sinh trung học tại tỉnh Phú Thọ trong năm học 2015<br />
- 2016. Kết quả cho thấy có 91,7% học sinh THPT sẽ tiếp tục học để thi tuyển vào các trường cao đẳng - đại<br />
học hoặc trung học chuyên nghiệp. Ngoài ra, 71,0% học sinh cho rằng, việc hướng nghiệp cho học sinh nên<br />
thực hiện ở giai đoạn cuối cấp Trung học cơ sở (THCS) là rất cần thiết và đáng được quan tâm.<br />
Từ khóa: Nghề nghiệp, xu hướng chọn nghề nghiệp, xu hướng chọn nghề nghiệp của học sinh.<br />
<br />
<br />
1. Đặt vấn đề ứng những yêu cầu của nghề đặt ra, không cảm<br />
Công tác tư vấn chọn ngành nghề, chọn khối, thấy hứng thú và muốn gắn bó với nghề nghiệp<br />
môn thi ngoài các môn thi bắt buộc trong Kỳ thi mà mình đã chọn.<br />
THPT quốc gia để xét tuyển vào Đại học, Cao Thực tế trên khiến chúng ta cần xem xét thêm việc<br />
đẳng (ĐH, CĐ) của học sinh (HS) hiện đang được thực hiện công tác hướng nghiệp ở các trường phổ<br />
các nhà trường thực hiện linh hoạt, dù gặp phải thông nói chung, hướng nghiệp cho học sinh THPT<br />
rất nhiều khó khăn. Nhưng với HS, vấn đề này trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nói riêng. Nhà trường đã<br />
thực sự là một “bài toán khó” khi mà bản thân thực sự “đóng vai trò chủ đạo nhằm hướng dẫn và<br />
HS không có nhiều thông tin về việc quy hoạch chuẩn bị cho thế hệ trẻ cả về tâm thế và kỹ năng để<br />
nhu cầu nguồn nhân lực ở địa phương, hay những các em có thể sẵn sàng đi vào lao động hoặc tự tạo việc<br />
thông tin có tính cơ sở thực tiễn về nhu cầu ngành làm ở các ngành nghề xã hội đang cần phát triển, đồng<br />
nghề lao động trong tương lai. Công tác tư vấn thời phù hợp với hứng thú, năng lực của cá nhân cũng<br />
chọn nghề cho HS của các trường học cũng chỉ như hoàn cảnh gia đình” hay chưa? Câu hỏi này dành<br />
dừng lại ở việc tổ chức giới thiệu các ngành nghề cho tất cả các trường THPT trên cả nước nói chung và<br />
để HS xem xét lựa chọn hoặc phối hợp với các cơ các trường THPT trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nói riêng-<br />
sở đào tạo trên địa bàn đến tư vấn, giới thiệu về một tỉnh trung du miền núi có nhiều nét đặc trưng<br />
về lịch sử phát triển, vị trí địa lý, quy hoạch phát triển<br />
các ngành nghề đào tạo của đơn vị đó. Đây chỉ<br />
kinh tế và điều kiện giáo dục.<br />
là giải pháp tình thế, thực sự chưa mang lại hiệu<br />
quả cao trong việc định hướng HS chọn lựa được 2. Phương pháp nghiên cứu<br />
ngành học phù hợp. Chính vì vậy, việc chọn các<br />
môn thi vào các khối ngành ĐH, CĐ của HS vẫn 2.1. Khách thể nghiên cứu: 389 học sinh lớp 12<br />
chỉ dựa vào cảm tính cá nhân trên cơ sở phù hợp trường THPT Việt Trì.<br />
với năng lực học tập, có đến 34% trường hợp chọn 2.2. Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp<br />
lầm nghề, 42% trường hợp chỉ phù hợp gượng nên được sử dụng trong nghiên cứu này chủ yếu là<br />
đã có đến 90% sinh viên tốt nghiệp bị thất nghiệp phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp<br />
mà nguyên nhân chính là không phù hợp với phỏng vấn sâu. Kết quả tính toán được thực hiện<br />
nghề [1]. Đã có rất nhiều người phải thất nghiệp trong bảng phần mềm bảng tính Microsoft Excel<br />
hay phải làm việc không đúng với chuyên môn là đảm bảo độ tin cậy và khách quan trong nghiên<br />
khá phổ biến, họ thấy khó khăn trong việc đáp cứu này.<br />
Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 (1) - 2015 21<br />
KHOA HỌC GIÁO DỤC<br />
<br />
3. Kết quả nghiên cứu đảm bảo sự thành công của các em trong công việc<br />
hay trong cuộc sống, mà còn phụ vào rất nhiều yếu<br />
3.1. Thực trạng xu hướng nghề của học Trung học tố khác, và nhất là trong tình trạng thừa thầy thiếu<br />
phổ thông Việt Trì - tỉnh Phú Thọ thợ như hiện nay. Và đa số học sinh lớp 12 đã chọn<br />
3.1.1. Dự định của học sinh sau khi tốt nghiệp THPT được một nghề cụ thể cho bản thân.<br />
Chọn nghề là một nhiệm vụ quan trọng, chi phối<br />
3.1.2. Dự định chọn nghề của học sinh<br />
phần lớn suy nghĩ và hoạt động của các em học<br />
sinh cuối cấp THPT. Thông qua việc lựa chọn nghề Bảng 3.2. Nhóm nghề học sinh dự định chọn<br />
nghiệp, các em học sinh tỏ rõ sự trưởng thành về (n=389)<br />
năng lực lựa chọn của mình. Điều này được các em Số lượng<br />
thể hiện trước nhất qua những dự định cho tương STT Nhóm nghề Tỉ lệ %<br />
lựa chọn<br />
lai. Hầu hết học sinh lớp 12 THPT đều có những dự 1 Sư phạm 98 25,2%<br />
định trước cho tương lai và những dự định này của<br />
2 Kinh tế 81 20,8%<br />
các em cũng khá đa dạng. Dự định chọn nghề của<br />
3 Kỹ thuật 30 7,7%<br />
các em thể hiện ở bảng 3.1.<br />
4 Nông- Lâm- Ngư 28 7,2%<br />
Bảng 3.1: Dự định tương lai của học sinh (n=389) 5 Nghệ thuật 0 0%<br />
Số lượng 6 Ngành khác 72 18,5%<br />
Dự định Tỉ lệ<br />
chọn 7 Chưa lựa chọn 80 20,6%<br />
Học ĐH, CĐ, THCN 357 91.7% Tổng 389 100<br />
Học nghề 6 1.5%<br />
Số liệu ở bảng 3.2 cho thấy, nghề giáo viên được<br />
Đi làm ngay 2 0,5%<br />
học sinh lựa chọn nhiều nhất 25,2% học sinh dự<br />
Vừa học vừa làm 8 2,1%<br />
định chọn. Có nhiều lý do để các em lựa chọn nghề<br />
Làm kinh tế tại gia đình 1 0,3% sư phạm, có em cho rằng, nghề giáo rất gần gũi với<br />
Chưa có dự định 10 2,6% học sinh vì hàng ngày các em được tiếp xúc trực<br />
Lựa chọn khác 5 1,3% tiếp với các thầy cô của mình. Trong quá trình học,<br />
Tổng cộng 389 100% các em nhận được sự chỉ bảo nhiệt tình của thầy,<br />
cô. Từ đó, nhiều em xây dựng hình mẫu lý tưởng<br />
Có tới 97,4% tổng số học sinh đã có dự định về người giáo viên và muốn trở thành những người<br />
tương lai cho mình, chỉ có 2,6% học sinh là chưa thầy, người cô để truyền đạt kiến thức của mình đến<br />
có dự định gì cho tương lai. Trong đó, có đến 91,7% các thế hệ học sinh. Ngoài ra, có em chọn nghề giáo<br />
học sinh lớp 12 đã chọn sẽ tiếp tục học Đại học, Cao vì là “nghề cao quí nhất trong những nghề cao quí”,<br />
đẳng sau khi tốt nghiệp THPT. Có 2,1% học sinh được sự tôn trọng của xã hội. Một số em khác lại<br />
chọn sẽ vừa học vừa làm. Chỉ có 1,5% học sinh chọn chọn nghề giáo với lý do, không phải đóng học phí...<br />
con đường đi học nghề. Những dự định khác chiếm Theo dự báo của UNESCO, “Sư phạm và Giáo dục”<br />
tỉ lệ không đáng kể 1,3%. là nhóm nghề có nhu cầu cao về nhân lực trong thế<br />
Như vậy, đi học tiếp Đại học, Cao đẳng được kỷ XXI trong số các nghề thuộc lĩnh vực khoa học<br />
các em chọn chủ yếu, chiếm tỉ lệ % cao nhất. Một nhân văn[8]. Tuy nhiên trong những năm gần đây,<br />
thực tế để chúng ta cần quan tâm trong công tác tư nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực sư phạm gần như<br />
vấn hướng nghiệp là hầu hết học sinh sau khi tốt bão hòa. Hiện, các em tốt nghiệp sư phạm ra tìm việc<br />
nghiệp trung học phổ thông đều đổ xô đi thi đại học, rất khó. Phân tích sâu thì thấy 1 sản phẩm được đào<br />
chỉ có những học sinh trượt tốt nghiệp hay đại học tạo thành giáo viên thì được sử dụng 30 năm trong<br />
mới tính đến chuyện học trung cấp, tuy nhiên trong ngành. Trong khi tăng dân số và tăng trường học ở<br />
những em học sinh này có rất nhiều em vẫn cố thi lại các địa phương thì ít. Mặt khác, đối với các ngành<br />
đại học vào năm sau. Tâm lý chuộng bằng cấp, thích khác nhân lực có sự linh hoạt hơn, sự dao động của<br />
làm thầy không thích làm thợ đã ăn sâu vào suy nghĩ lực lượng lao động là thường xuyên, nếu sinh viên ra<br />
của các em học sinh và cả phụ huynh, chính vì vậy trường không làm nghề này có thể “nhảy” sang nghề<br />
mà các em nhất định phải thi vào đại học mà không khác, còn với ngành sư phạm rất khó để “nhảy” sang<br />
cần quan tâm đến năng lực bản thân có hay không. ngành khác được. Ví dụ, tốt nghiệp sư phạm lý thì<br />
Các em xem nhẹ việc học nghề, trong khi đó học Đại phải dạy Lý 30 năm - chứ không thể dạy Lý mà nhảy<br />
học không phải là yếu tố duy nhất quyết định hay sang Văn được... Cho nên nghề sư phạm tốt nghiệp<br />
22 Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 (1) - 2015<br />
KHOA HỌC GIÁO DỤC<br />
<br />
ra chôn chân người lao động rất dài là một nguyên vì thiếu thông tin về các ngành nghề đó, các em<br />
nhân dẫn đến nhiều sinh viên ra trường chưa xin không biết đây là những nghề xã hội đang cần.<br />
được việc. Chính vì vậy, bên cạnh việc xác định lại Đặc biệt, trong các đợt tuyển sinh những năm gần<br />
việc đào tạo nguồn nhân lực sư phạm cho các địa đây cho thấy, ngành nông - lâm - ngư rất ít được<br />
phương, hệ thống lại các trường đào tạo nguồn về sư thí sinh quan tâm, chỉ có 7,2 số mẫu nghiên cứu<br />
phạm cho toàn quốc, thì việc hướng nghiệp cho các chọn nhóm ngành này. Thực tế cho thấy nhóm<br />
em là rất quan trọng giúp các em chọn đúng nghề ngành này có rất nhiều cơ hội kiếm việc bởi Nhà<br />
mà xã hội có nhu cầu. nước đầu tư rất lớn cho lĩnh vực Chăn nuôi và<br />
Những nghề thuộc lĩnh vực kinh tế (Quản Thú y để thúc đẩy sản xuất. Nhóm ngành này sinh<br />
trị kinh doanh; nhân viên kế toán; tài chính ngân viên ra trường sẽ rất dễ xin việc, bởi vì theo phân<br />
hàng) xếp thứ 2 trong dự định chọn nghề của các tích nhu cầu lao động đến năm 2020, nguồn nhân<br />
em, chiếm 20,8%. Thực tế trong những năm gần đây,<br />
lực trong ngành nông - lâm - ngư sẽ thiếu khoảng<br />
nhóm ngành Kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của<br />
3,2 triệu lao động qua đào tạo. Sinh viên ra trường<br />
học sinh khi chọn ngành nghề. Tuy nhiên, hiện nay<br />
sẽ có nhiều cơ hội việc làm và được tham gia vào<br />
do nền kinh tế đang suy thoái nên tình hình chung<br />
các công việc như nghiên cứu, chế tạo... [9]<br />
ngành này cũng rất khó tìm việc, Việt Nam đang<br />
hội nhập thế giới nên vài năm nữa, nhân lực trong Có 18,5% số khách thể chọn ngành khác (công<br />
lĩnh vực này, không chỉ cạnh tranh với nguồn nhân an, bộ đội, thiết kế thời trang, du lịch, kiến trúc sư,<br />
lực trong nước mà còn ở các nước trong khu vực và y, dược, công tác xã hội, phóng viên, luật sư...). Có<br />
trên thế giới nên phải thật sự yêu thích ngành học 20,6% (80/389) các em học sinh còn băn khoăn chưa<br />
này và phải có sự tích lũy kiến thức ở trường, có kỹ biết chọn ngành gì.<br />
năng nghề nghiệp như kỹ năng thuyết phục, làm Thực tế cho thấy rằng, mỗi học sinh có một<br />
việc nhóm, tin học, ngoại ngữ... thì mới có thể tham mức độ nhận thức về nghề nghiệp là khác nhau, nó<br />
gia vào các lĩnh vực công việc của nhóm ngành này. phụ thuộc vào trình độ nhận thức của mỗi người,<br />
Theo suy nghĩ cảm tính của một số học sinh trong đồng thời phụ thuộc vào tính tích cực hoạt động<br />
mẫu được khảo sát, do nghề này “dễ làm giàu”, lại nhận thức của mỗi người trong việc chiếm lĩnh<br />
rất “sang” và “oai” nên các em dự định lựa chọn. Tuy tri thức. Sự hiểu biết của học sinh về nghề, về các<br />
nhiên, cơ hội việc làm lĩnh vực này là do chính bản yêu cầu của nghề là rất ít và chung chung, chính vì<br />
thân người học quyết định. Tình trạng thất nghiệp vậy mà các em rất cần được tư vấn, nhưng thực tế<br />
hiện nay là có thật nhưng không đồng đều. Xã hội thì các em lại không nhận được sự tư vấn đầy đủ<br />
đang thừa người có bằng đại học nhưng thiếu người từ các đối tượng mà các em tìm đến tư vấn, từ đó<br />
có bằng đại học giỏi thực sự. Các ngân hàng vẫn đã dẫn đến việc học sinh có sự nhận thức mơ hồ,<br />
tuyển dụng dù quy mô có hạn chế hơn. Do vậy, quan khiến học sinh chọn nghề không chính xác, dẫn<br />
trọng là phải kiên định và chuẩn bị hành trang tìm đến một hệ quả là sinh viên khi ra trường không<br />
việc của mình theo đúng yêu cầu xã hội đặt ra. Ngoài tìm được việc làm phù hợp với chuyên ngành đào<br />
ra sinh viên cần trang bị các kỹ năng ngoại ngữ và kỹ tạo, không đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng của<br />
năng ngoại khóa. các doanh nghiệp, công ty... Song đó cũng tồn tại<br />
Các nhóm nghề: Nghệ thuật, kỹ thuật, bác sĩ một nghịch lý là nhiều cơ quan, doanh nghiệp lại<br />
thú y, chăn nuôi, trồng trọt, có ít học sinh dự định gặp khó khăn trong việc tuyển đủ nhân lực có chất<br />
chọn. Đặc biệt là nhóm ngành nghệ thuật (ca sĩ, lượng phù hợp. Từ đó đã gây nên sự lãng phí rất<br />
họa sĩ, diễn viên 0%), lý do các em đưa ra cũng dễ lớn cản trở sự phát triển của mỗi cá nhân cũng<br />
hiểu vì nó phụ thuộc vào tố chất năng khiếu của như sự phát triển chung của xã hội.<br />
bản thân, mà năng khiếu hội họa, múa hát, diễn<br />
kịch không phải ai cũng có. Trong thời kỳ công 3.2. Thời điểm học sinh mong muốn được tư vấn<br />
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, một số nghề hướng nghiệp<br />
thuộc lĩnh vực kỹ thuật như kỹ thuật điện tử, kỹ Đại đa số học sinh trong mẫu nghiên cứu có nhu<br />
thuật cơ khí, xây dựng... đang có nhu cầu nhân cầu được tư vấn hướng nghiệp, các em mong muốn<br />
lực lớn nhưng cũng ít học sinh dự định chọn,chỉ được hướng nghiệp từ cuối bậc THCS để chọn ban,<br />
có 7,7% số mẫu nghiên cứu chọn ngành này. Có chọn nghề. Mong muốn này của các em được thể<br />
thể là vì học sinh ít hứng thú, nhưng cũng có thể hiện ở bảng 3.3.<br />
Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 (1) - 2015 23<br />
KHOA HỌC GIÁO DỤC<br />
<br />
Bảng 3.3. Thời điểm nên thực hiện hoạt động chuẩn, điểm thi tuyển của các năm trước, chỉ tiêu<br />
hướng nghiệp (n= 389) tuyển sinh, cơ hội việc làm, nhu cầu tuyển dụng, uy<br />
STT Thời điểm Số lượng Tỉ lệ % tín cơ sở đào tạo... để tránh sự nhận thức lệch lạc<br />
1 Cuối cấp THCS 276 71,0% trong lựa chọn nghề của học sinh.<br />
2 Đầu cấp THCS 20 5,1% Tuy nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh<br />
3 Đầu cấp THPT 70 18,0% rất cao, nhưng mức độ đáp ứng nhu cầu này thì chưa<br />
4 Cuối cấp THPT 8 2,0% đủ vì hầu hết các hoạt động tư vấn trong thời gian<br />
5 Cuối cấp tiểu học 15 3,9% qua chưa đạt hiệu quả. Xuất phát từ điều đó, học<br />
Tổng 389 100% sinh có nhu cầu được hướng nghiệp càng sớm càng<br />
tốt. Cụ thể là 71,0% học sinh cho rằng, việc hướng<br />
Có 71,0% (276/389) học sinh trong mẫu nghiên nghiệp cho học sinh nên thực hiện ở giai đoạn cuối<br />
cứu cho rằng, việc hướng nghiệp cho học sinh nên cấp THCS. Đó là mong mỏi hết sức chính đáng, cần<br />
thực hiện ở giai đoạn cuối cấp THCS, chỉ có 2,0% được quan tâm một cách nghiêm túc và nên đề xuất<br />
(8/389) học sinh cho rằng nên hướng nghiệp ở cuối những biện pháp khả thi.<br />
bậc THPT. Như vậy, có thể khẳng định: Hoạt động<br />
hướng nghiệp đưa vào trường trung học càng sớm Tài liệu tham khảo<br />
càng tốt. Đó là điều mà học sinh đang mong mỏi. 1. Đặng Danh Ánh (2003), Những nẻo đường lập<br />
Có thể cần chọn lọc nội dung với những học sinh nghiệp, NXB Lao động Xã hội.<br />
đầu cấp THCS, nhưng đối với những học sinh lớp 2. Climov E.A., (1971), Nay đi học, mai làm gì? NXB<br />
9 thì rất cần thiết. Đây cũng là cột mốc quan trọng Đại học Sư phạm Hà Nội.<br />
không kém bởi từ giai đoạn này, các em bắt đầu có 3. Phạm Tất Dong (chủ biên) (2002), Hoạt động<br />
thể chủ động quyết định hướng đi cho mình: Học giáo dục hướng nghiệp (Sách giáo khoa thí điểm), NXB<br />
tiếp lên THPT, học nghề hay chuẩn bị vào đời để đi Giáo dục.<br />
làm. Chính những định hướng kịp thời sẽ tạo tiền đề 4. Phạm Tất Dong (1989), Giúp bạn chọn nghề, NXB<br />
rất quan trọng cũng như là một sự động viên, khích Giáo dục.<br />
lệ để các em đi đúng hướng mà không bị loay hoay 5. Nguyễn Hữu Dũng (2005), Thị trường lao động và<br />
trong mê cung “nghề - học” của mình. định hướng nghề nghiệp cho thanh niên, NXB Lao động<br />
Xã hội.<br />
4. Kết luận 6. Phạm Thành Nghị (2013), Tâm lý học giáo dục, NXB<br />
Sự hiểu về nghề nghiệp, hiểu về thị trường lao Đại học Quốc Gia Hà Nôi.<br />
động, hiểu về nghề định chọn..., của học sinh rất mơ 7. Nguyễn Xuân Thức (2010), Tâm lý học đại cương,<br />
hồ và không đầy đủ. Như vậy, mặc dù lý do chọn NXB Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
nghề là hợp lý nhưng với sự hiểu biết về nghề nghiệp 8. Đào Thị Oanh, (2004), Nghiên cứu xu hướng nghề<br />
không đầy đủ sẽ làm cho học sinh nhận thức lệch nghiệp của học sinh trung học, Tạp chí Tâm lý học, số 7,<br />
lạc và lựa chọn thiếu chính xác. Vì thế, nội dung tư tr.21-27<br />
vấn hướng nghiệp cho học nên quan tâm đến: Điểm 9. http://huongnghiep24h.com<br />
<br />
<br />
SUMMARY<br />
THE CURRENT TRENDS OF CAREER CHOICE BY HIGH SCHOOL STUDENTS<br />
<br />
Le Thị Xuan Thu<br />
Center for Education research, Culture and Art<br />
<br />
The article is about the current trends of the career choice by secondary high school students in Phú Thọ<br />
province. The survey is conducted with 389 students in the school year of 2015-20016. The findings show that<br />
91,7% of secondary high school students continue their College - University or Vocational education; What’s<br />
more, 71,0% of the students think that it is necessary and attentive for schools to carry out the vocational<br />
education for students at the end of the junior high school education period.<br />
Keywords: Career, trends of career choice, trends of career choice by students.<br />
<br />
<br />
24 Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 (1) - 2015<br />