Đái tháo đường là một bệnh thường gặp ở các nước phát triển và cả các nước đang phát triển. Tỷ lệ mắc bệnh này tùy theo địa dư, chủng tộc, mức sống, lối sống và ngày càng có xu hướng tăng lên.
AMBIENT/
Chủ đề:
Nội dung Text: Thuốc điều trị bệnh viêm cầu thận đái tháo đường
- Thuốc điều trị bệnh viêm
cầu thận đái tháo đường
- Đái tháo đường là một bệnh thường gặp ở các nước phát triển và cả các
nước đang phát triển. Tỷ lệ mắc bệnh này tùy theo địa dư, chủng tộc,
mức sống, lối sống và ngày càng có xu hướng tăng lên.
Thuật ngữ “Bệnh cầu thận đái tháo đường” chỉ bệnh lý cầu thận thứ phát do
ảnh hưởng của đái tháo đường lên thận.
Bệnh cầu thận đái tháo đường được xác định do thay đổi thành phần hóa học
của màng đáy cầu thận và tổ chức gian mạch.
Bệnh biểu hiện với các triệu chứng của bệnh đái tháo đường như ăn nhiều,
uống nhiều, đái nhiều, gầy sút, đường huyết lúc đói > 7mmol/l; ngoài ra còn
có các biểu hiện khác như: xuất hiện protein niệu ở mức độ ít (microalbumin
niệu 30 – 300mg/ngày), mức độ vừa (microalbumin niệu> 300mg/ngày)
hoặc có hội chứng thận hư (microalbumin niệu 3,5g/ngày), tăng huyết áp thứ
phát, rối loạn mỡ máu...
Nguyên nhân suy thận giai đoạn cuối được lọc máu chu kỳ do viêm cầu thận
đái tháo đường đứng hàng thứ hai sau viêm cầu thận mạn tính. Sau đây là
một số nhóm thuốc thường được sử dụng trong điều trị viêm cầu thận đái
tháo đường.
Thuốc điều trị đái tháo đường
- Tùy theo thể bệnh, giai đoạn bệnh và tình trạng của bệnh nhân mà lựa chọn
thuốc điều trị cho hợp lý. Khi điều trị phải kiểm soát chặt chẽ đường huyết,
đặc biệt đường huyết lúc đói, đường huyết sau ăn và HbA1c.
Một số thuốc có thể sử dụng.
- Insulin: có loại tác dụng nhanh, tác dụng chậm và tác dụng rất chậm.
Thường chỉ dùng trong điều trị đái tháo đường týp I. Khi dùng phải chú ý
đến đường huyết của bệnh nhân đề phòng hạ đường huyết.
- Nhóm sulfonylure: thế hệ 1 có tolbutamid viên 250, 500 và 1.000mg,
chlorpropamid viên 100 và 250mg...; thế hệ 2 có diamicron (viên 80mg),
daonil (viên 5mg)..., nhóm này có tác dụng gây tăng bài tiết insulin, tuy
nhiên khi dùng phải chú ý nguy cơ gây hạ đường huyết, thuốc độc với gan –
thận, gây tăng acid lactic, và có một tỷ lệ nhất định dị ứng thuốc.
- Nhóm biguanid: metformin, viên 500mg, 850mg. Nhóm này có tác dụng
tăng hiệu lực của insulin ở ngoại vi. Thuốc không được dùng cho người suy
gan, suy thận, phụ nữ có thai, người có rối loạn chuyển hóa. Thuốc gây tăng
acid lactic.
- Nhóm ức chế men a glycosidase: glucobay viên 50mg, thuốc không dùng
cho người suy gan thận, người có ceton niệu.
Thuốc khống chế tăng huyết áp
Trong viêm cầu thận đái tháo đường, tăng huyết áp là một yếu tố nguy cơ,
mục tiêu cần đạt được là đưa huyết áp tối đa < 130mmHg, và huyết áp tối
thiểu < 85mmHg. Tùy từng trường hợp có thể sử dụng một số thuốc sau để
điều trị.
- Nhóm thuốc ức chế men chuyển: có một số biệt dược như renitec (viên 5,
10, 15mg ), coversyl (viên 4 mg), lopril (viên 25mg), zestril (viên 10, 20mg),
- nhóm này dùng tốt nhất trong trường hợp đái tháo đường/THA. Tác dụng
phụ: gây ho, tăng kali máu, không dùng trong hẹp khít van động mạch chủ,
động mạch thận.
- Nhóm thuốc chẹn thụ thể angiotensin II như: losartan, telmisartan...
- Nhóm chẹn beta giao cảm: propranolol, atenolol, pindolol...
- Nhóm chẹn kênh canxi: có một số biệt dược hay dùng như nifedipin (viên
10, 20, 30mg); amlor viên 5mg; plendil viên 5mg; madiplot viên 10, 20mg.
Nhóm thuốc này có ưu điểm: hạ huyết áp tốt, tác dụng kéo dài. Tuy nhiên có
nhược điểm là chẹn canxi nên không tốt, làm nhịp tim nhanh, bốc hỏa ở mặt.
- Thuốc có tác dụng trung ương: Methyldopa, clonidin.
- Thuốc giãn mạch ngoại biên: dihydralazin.
Tuy nhiên hai nhóm thuốc được ưu tiên lựa chọn để khống chế huyết áp
trong bệnh viêm cầu thận đái tháo đường là nhóm ức chế men chuyển có tác
dụng bảo vệ tim mạch và nhóm thuốc chẹn thụ thể angiotensin II có tác dụng
bảo vệ thận.
Thuốc điều chỉnh tăng mỡ máu
Rối loạn lipid máu đặc biệt là lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL cholesterol) và
lipoprotein tỷ trọng cao ( HDL cholesterol ) là những yếu tố nguy cơ của tai
biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim trong bệnh viêm cầu thận đái tháo
đường. Do đó ngoài việc có chế độ ăn uống hợp lý, có thể sử dụng các thuốc
thuộc nhóm fibrat, statin để điều trị.
Ngoài các thuốc chính trên, còn có thể sử dụng các thuốc chống đông máu,
chống ngưng tập tiểu cầu như aspirin, aspegic..., nếu có toan hóa máu thì
dùng dung dịch natribicarbonat, nếu có tăng kali máu ta có thể sử dụng dung
- dịch natribicarbonat hoặc calcium tiêm tĩnh mạch để trao đổi ion. Khi có suy
thận giai đoạn III hoặc IV cần có lọc ngoài thận chu kỳ.
Bên cạnh việc dùng thuốc thì chế độ ăn và sinh hoạt hợp lý đối với người
viêm cầu thận đái tháo đường là vấn đề hết sức quan trọng. Trong chế độ ăn
phải giảm glucid, nếu có suy thận cần giảm thêm protid. Cần cung cấp đủ
năng lượng theo mức lao động với mức 30- 40 Kcal/kg cân nặng/ngày với tỷ
lệ glucid từ 45-50%, protid từ 15-20%, lipid khoảng 35%.
Theo dõi và điều trị tốt đái tháo đường với chế độ ăn giảm glucid, khống chế
huyết áp, điều chỉnh rối loạn mỡ máu kèm theo hoạt động thể lực hợp lý có
thể làm chậm xuất hiện viêm cầu thận đái tháo đường, từ đó làm chậm diễn
biến đến suy thận giai đoạn cuối cũng như làm giảm nguy cơ nhồi máu cơ
tim, tai biến mạch máu não.