intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thuyết trình: phần tổ chức thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia

Chia sẻ: Nguyen Van Hop | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:15

318
lượt xem
81
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tổ chức thực hiện Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia 2001- 2010 là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng được Đảng và Nhà nước, Chính phủ đặc biệt quan tâm. Chiến lược được thực hiện thông qua các chương trình mục tiêu...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thuyết trình: phần tổ chức thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia

  1. Tổ chức thực hiện Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia 2001- 2010 là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng được Đảng và Nhà nước, Chính phủ đặc biệt quan tâm. Chiến lược được thực hiện thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia bảo vệ môi trường qua 2 giai đoạn 2001- 2005 và 2006- 2010. Hiện nay thì chiến lược đã thực hiện hết tất cả các giai đoạn của chương trình bảo vệ môi trường quốc gia, chiến lược này cũng được xem như vấn đề cấp bách,có tính liên ngành và quan trong đối với sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Sau 10 năm thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia thì Việt Nam đã có sự thay đổi tiến bộ to lớn, tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội. Nhìn chung: chúng ta đã đạt được những kết quả nhất định trong việc thực hiện Chiến lược, công tác BVMT đã có những chuyển biến tích cực. Cụ thể là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về BVMT trong những năm qua đã từng bước được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế. Tổ chức quản lý về BVMT từ trung ương đến cơ sở đang từng bước được kiện toàn. Đầu tư cho môi trường đang từng bước được cải thiện. Nhận thức về BVMT của toàn xã hội đã tăng lên, nhiều vấn đề môi trường đã nhận được sự quan tâm của toàn xã hội... Công tác
  2. phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm được đẩy mạnh. Các vấn đề môi trường bức xúc từng bước được khắc phục. Nhiều cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đã và đang được xử lý. Tỷ lệ che phủ rừng đã tăng lên, đạt xấp xỉ 40%. Đã xuất hiện các địa phương, thành phố, khu đô thị, cơ sở sản xuất, mô hình, điển hình tốt về BVMT. Nhìn chung, xu thế gia tăng ô nhiễm có chậm lại. Cụ thể chiến lược đã đạt được những mặt tích cực sau: Trong 10 năm qua đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật về BVMT đã và đang được hoàn thiện cụ thể như luật bảo vệ môi trường được ban hành năm 2005 đã quy định cụ thể về việc bảo vệ môi trường. Luật Đa dạng sinh học 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành..., Chương trình xây dựng và áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường cũng không được thực hiện song Luật thuế Môi trường, các loại phí BVMT, quỹ BVMT đã và đang được xây dựng ban hành. . Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chỉ đạo, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương tổ chức thực hiện Chiến lược Hệ thống các văn kiện nói trên cùng với Luật BVMT và hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật Công ước các Chương trình, kế hoạch, chiến lược môi trường trên từng lĩnh vực KT-XH hình thành về cơ bản đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật về
  3. BVMT & PTBV ở Việt Nam. Chỉ thị số 36CT/TW của BCT khẳng định hoạt động BVMT của nước ta đạt được những kết quả bước đầu, đã xuất hiện nhiều gương người tốt, việc tốt về BVMT. Kết quả chuyển biến biểu hiện trên 5 mặt sau: + Nhận thức và ý thức trách nhiệm của toàn xã hội về BVMT đã có chuyển biến tích cực so với trước đây. Người dân có ý thức hơn đối với việc BVMT sống xung quanh và ý thức đó đang dần trở thành thói quen, nếp sống tốt. + Hoạt động giáo dục tuyên truyền, nâng cao nhận thức về BVMT đạt được những kết quả nhất định và đã bắt đầu được đưa vào hệ thống giáo dục quốc dân. + Lãnh đạo nhiều bộ, ngành, địa phương đã quan tâm hơn đến công tác BVMT trong các hoạt động phát triển KT-XH, thấy rõ trách nhiệm của mình, điều chỉnh các nhận thức lệch lạc và càng ngày càng có nhận thức đúng hơn về quan điểm PTBV. + Nhận thức của các doanh nghiệp về sản xuất sạch, về công nghệ không gây ô nhiễm môi trường đã được nâng lên. + Công tác BVMT góp phần PTBV đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống đang được sự quan tâm của đông đảo nhân dân. Nhiều đội tình nguyện hành động vì môi trường ra đời. Nhiều phong trào quần chúng được phát triển rộng khắp.
  4. Chúng ta đã thiết lập được thể chế, chính sách BVMT như: hệ thống quản lý; hệ thống luật pháp, chính sách và kế hoạch quốc gia về BVMT. Bước đầu đã hình thành công tác quản lý chất thải rắn, chất thải nguy hại; quản lý ô nhiễm công nghiệp đô thị và khả năng phòng ngừa ứng cứu sự cố môi trường có nhiều chuyển biến. Báo cáo hiện trạng môi trường trong quá trình lập kế hoạch phát triển KT-XH và đầu tư BVMT ngày càng được chú trọng. Không dừng lại ở đó, ngày 3/5/2005, Hội Nông dân Việt Nam và Bộ TN&MT đã ký kết Nghị quyết liên tịch số 2 về “Phối hợp hành động BVMT và quản lý, sử dụng đất đai”, Trung ương Hội tập trung chỉ đạo các cấp Hội xây dựng chương trình phối hợp, chủ động triển khai tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết liên tịch ở từng địa phương. Đến nay, đã có 63/63 tỉnh, thành Hội đã ký kết chương trình phối hợp với Sở TN&MT tổ chức thực hiện nhiệm vụ BVMT ở địa phương. Hội chỉ đạo, hướng dẫn các cấp Hội chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền, các ban ngành có liên quan tổ chức các hoạt động bảo vệ tài nguyên môi trường với nội dung phong phú, thiết thực và phù hợp với từng địa phương như: Mít tinh, diễu hành biểu dương lực lượng, tu sửa, quét dọn đường làng, ngõ xóm, thu gom, phân loại và xử lý chất thải trong sinh hoạt, tổ chức thi và giao lưu trên truyền hình, trồng và chăm sóc cây xanh... nhân các sự kiện môi trường hàng năm. Đồng thời, khảo sát thực trạng môi trường nông thôn,
  5. tình hình quản lý, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật của nông dân trong sản xuất nông nghiệp để tập trung chỉ đạo tập huấn bồi dưỡng nâng cao kiến thức BVMT cho cán bộ, hội viên, nông dân; xây dựng mô hình điểm để học tập, trao đổi kinh nghiệm và nhân rộng. Từ đó thay đổi nhận thức, chuyển đổi hành vi, có ý thức tự giác trong bảo vệ tài nguyên môi trường nông thôn, góp phần hạn chế, ngăn ngừa mức độ gia tăng ô nhiễm, khắc phục tình trạng suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường nông thôn, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học. Trong những năm qua, Hội Nông dân các cấp đã phát huy tính năng động, tích cực huy động mọi nguồn lực từ các chương trình, dự án trong nước, nước ngoài, vốn tín dụng, vốn đóng góp của người dân để xây dựng các mô hình điểm về cấp nước sạch và BVMT nông thôn làm điểm tuyên truyền nhân rộng, cụ thể: Mô hình điểm thu gom xử lý chất thải: Trước những bức xúc về ô nhiễm môi trường do rác thải trong sinh hoạt và sản xuất, Hội Nông dân Việt Nam đã xây dựng các mô hình điểm thu gom, xử lý chất thải, rác thải như “Hầm khí sinh học liên hoàn”, “Hầm biogas và bể chứa rác”, “Thu gom, phân loại và xử lý rác thải nông thôn”, “Xử lý chất thải làng nghề”; “Nhà tiêu hợp vệ sinh và hố rác tự phân hủy”. Đã có hàng vạn hầm khí biogas, hàng triệu nhà tiêu hợp vệ sinh và các công trình cấp nước sạch,
  6. chuồng trại chăn nuôi hợp vệ sinh, nổi bật như các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Bắc Giang, Nam Định, Quảng Trị, Hà Tĩnh, Đắc Lắk, Kon Tum, Long An... xây dựng được hàng vạn hầm biogas và bể xử lý rác thải, trang bị xe chở rác, thùng rác, xây hố rác, bể chứa rác. Hội Nông dân huyện Đan Phượng (Hà Nội) đã vận động nông dân đầu tư trên 14 tỷ đồng để xây dựng trên 4.000 hầm khí biogas; xã Vĩnh Lâm (Vĩnh Linh - Quảng Trị) đã có 135 hộ gia đình tự xây dựng hầm biogas. Nhiều nơi đã rất thành công với mô hình 3 công trình vệ sinh, điển hình như mô hình “Xây dựng nhà tiêu hai ngăn hợp vệ sinh và bể chứa nước sạch” tại xã Thiên Lộc (Can Lộc - Hà Tĩnh); Mô hình “Di dời chuồng chăn nuôi ra xa nhà ở” tại xã Hưng Vũ (Bắc Sơn, Lạng Sơn); Mô hình xây chuồng chăn nuôi hợp vệ sinh do tổ chức Unicef tại 3 xã Hà Ra, Đăk Jắ, Kon Dỡng (Măng Yăng, Gia Lai). Mô hình cấp nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn: Hội Nông dân các cấp đã huy động mọi nguồn lực với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”; tùy thuộc vào đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế của từng vùng để xây dựng hàng vạn công trình cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn nhỏ lẻ, lựa chọn những công nghệ cấp nước sạch cho phù hợp. Các cấp Hội đã vận động và khuyến khích người dân sử dụng lu, bể chứa nước mưa để tận dụng nguồn nước mưa; đối với những vùng núi cao, địa bàn dốc các cấp Hội đã vận động, huy động kinh phí
  7. để xây dựng hệ thống cấp nước tự chảy, vừa tận dụng được nguồn nước tự nhiên, kinh phí lại thấp nhưng đảm bảo tiêu chuẩn nước cho sinh hoạt. Điển hình như mô hình cấp nước sạch hệ tự chảy ở các xã: Cao Chương, Bế Triều và Cô Mười (Cao Bằng); xã Cường Lợi, xã Nà Tình (Lạng Sơn); xã Tân Thịnh (Văn Chấn - Yên Bái); thôn Khuôn Bén, xã Công Đa (Yên Sơn - Tuyên Quang), xã Bảo Nhai (Bắc Hà - Lào Cai) và xã An Cư (Tịnh Biên - An Giang) đã cung cấp nước sạch ổn định cho khoảng 3.000 người. Mô hình xây dựng 110 bể lọc “Xử lý nước bị ô nhiễm Asen” cho 110 hộ thuộc xã Đức Lý (Lý Nhân - Hà Nam). Mô hình chặn suối xây hồ chứa, tạo nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt ở huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước... Mô hình sản xuất nông nghiệp gắn với BVMT bền vững: TW Hội đã chỉ đạo Hội Nông dân tỉnh Vĩnh Phúc, Hưng Yên và TP. Hà Nội xây dựng thí điểm mô hình nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp bền vững. Đặc biệt đã tranh thủ sự giúp đỡ của tổ chức Đan Mạch (ADDA) để triển khai dự án Nông nghiệp hữu cơ tại một số tỉnh như: Tuyên Quang, Lào Cai, Vĩnh Phúc, Bắc Giang... Thông qua mô hình người dân được tập huấn kỹ thuật và quy trình canh tác bằng phân hữu cơ, phân vi sinh, kỹ thuật phòng trừ sâu, bệnh bằng thuốc sinh học, hoàn toàn không sử dụng hóa chất. Cây trồng sinh trưởng tốt, ít sâu bệnh, cho năng suất cao, đặc biệt các sản phẩm thu được đều là
  8. nông sản sạch, chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu trong nước đang ngày một cao về chất lượng, về sự an toàn của lương thực, thực phẩm, môi trường sinh thái đã được cải thiện. Người dân đã tránh được các hóa chất độc hại ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Từ việc xây dựng mô hình điểm, Hội phát động phong trào “Nông dân sản xuất chế biến và sử dụng các sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh”. Mô hình sản xuất rau sạch được nhiều tỉnh, thành trong cả nước học tập và nhân rộng như tỉnh Lâm Đồng, các huyện ngoại thành của TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh; mô hình nhà vườn xanh - sạch - đẹp ở Bạc Liêu. Để sử dụng kiến thức bản địa trong đời sống, sản xuất vào BVMT bền vững, Hội đã tiến hành khảo sát, xây dựng mô hình thí điểm “Đồng bào dân tộc thiểu số sử dụng con nước phục vụ sản xuất nông nghiệp trên ruộng bậc thang tại xã Độc Lập (Quảng Uyên - Cao Bằng), “Đồng bào dân tộc Thái lưu giữ và phát triển ruộng bậc thang, canh tác bền vững trên đất dốc” tại xã Phù Nham (Văn Chấn - Yên Bái); “Trồng cây bản địa ngăn mặn xâm thực, bảo vệ nguồn lợi thủy sản và môi trường” tại Vạn Yên (Vân Đồn - Quảng Ninh)... đã giúp cho người dân sử dụng năng lượng sức nước, cải tạo đất chống xói mòn, thoái hóa đất để phát triển sản xuất, từ đó tuyên truyền người dân bảo vệ rừng, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ TN&MT.
  9. Nhưng bên cạnh đó thì cúng không tránh khởi những thiếu sót và hạn chế như: Mặc dù vậy, kết quả đạt được cho đến nay nhìn chung vẫn còn hạn chế so với yêu cầu Chiến lược đề ra. Ô nhiễm môi trường vẫn tiếp tục gia tăng, trong khi các “điểm nóng” từ trước chưa được giải quyết. Chất lượng môi trường ở các đô thị, các làng nghề tiếp tục bị xuống cấp. Nhiều lưu vực sông tiếp tục bị ô nhiễm. Mặc dù độ che phủ rừng có tăng, song chất lượng rừng và đa dạng sinh học đang ngày càng suy giảm. Xuất hiện các dịch bệnh mà nguyên nhân sâu xa có nguồn gốc từ ô nhiễm môi trường. Qua khảo sát, đánh giá tình hình thực hiện từ 22 Bộ, ngành, cơ quan trung ương và 51/63 tỉnh, thành phố, cho thấy, hầu hết các chỉ tiêu của Chiến lược đề ra đến năm 2010 đều không đạt được. Có thể nói nguyên nhân chính là do các chỉ tiêu đề ra là cao và chưa sát với thực tế. Một số chỉ tiêu không thể thống kê được do không phù hợp với hệ thống chỉ tiêu thống kê của ngành, lĩnh vực. Mặc dù vậy, đối với một số chỉ tiêu, so với thời điểm khi chưa có Chiến lược, kết quả đạt được là rất đáng khích lệ, ví dụ như:
  10. - Tỷ lệ thu gom chất thải rắn ở các đô thị trung bình trên cả nước đạt 80-82% (mục tiêu là 90%); - Tỷ lệ dân số đô thị được cung cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trung bình các đô thị trong cả nước, đạt tỷ lệ 73%, một số đô thị lớn đạt 75 - 90% như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng (mục tiêu là 95%), - Tỷ lệ dân số nông thôn được cung cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt khoảng 79% (mục tiêu là 85%), - Tỷ lệ đất có rừng che phủ đạt khoảng 39,1% (mục tiêu là 43%). Thực tế cho đến nay, trong số 36 chương trình, dự án ưu tiên của Chiến lược mới có 19 chương trình đã được phê duyệt với danh mục các dự án, đề án, lộ trình cụ thể để triển khai thực hiện. Đối với 17 chương trình còn lại, mặc dù chưa được triển khai thực hiện theo đúng nghĩa của Chương trình (phải có quyết định phê duyệt, có cơ cấu tổ chức, có danh mục các dự án cụ thể và lộ trình thực hiện), song cũng đã có nhiều hoạt động lồng ghép với các nhiệm vụ liên quan của các Bộ, ngành. Ví dụ như Chương trình hoàn thiện và nâng cao hiệu lực của hệ thống pháp luật về BVMT không được thực hiện một cách chính thức, song trên thực tế, nhiều hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống
  11. chính sách pháp luật về BVMT đã được triển khai trong thời gian qua, như ban hành Luật BVMT 2005, Luật Đa dạng sinh học 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành..., Chương trình xây dựng và áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường cũng không được thực hiện song Luật thuế Môi trường, các loại phí BVMT, quỹ BVMT đã và đang được xây dựng ban hành. Nhìn chung tiến độ triển khai các chương trình hiện nay là chậm, chủ yếu do một số nguyên nhân chính sau đây: - Các ngành, các cấp chưa thực sự coi trọng việc thực hiện các chương trình BVMT nên chưa quan tâm đầu tư xứng đáng cả thời gian và nguồn lực; - Công tác chỉ đạo, điều hành, phối kết hợp thực hiện các chương trình, dự án giữa các Bộ, ngành, địa phương còn chưa thống nhất và chưa đạt được sự đồng thuận cao; - Nguồn vốn bố trí cho một số chương trình qua các năm còn hạn chế, một số chương trình đến nay vẫn chưa được bố trí kinh phí thực hiện. Trong những thành tựu mà hội nông dân kết hợp với bộ TN&MT đạt được thì bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế như:
  12. - Về nhận thức, ý thức BVMT trong hội viên nông dân và cộng đồng dân cư nông thôn. Việc khai thác tài nguyên, sử dụng công nghệ hóa chất, đốt phá rừng, sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chất thải, khí thải và rác thải của các khu công nghiệp, khu đô thị và làng nghề, thói quen sinh hoạt thiếu vệ sinh ở một số vùng nông thôn (chưa có nhà tiêu hoặc chuồng trại chăn nuôi hợp vệ sinh) làm suy thoái và ô nhiễm môi trường. - Công tác đào tạo cán bộ Hội chuyên làm công tác môi trường chưa được thường xuyên, liên tục. Nhiều gương người tốt, việc tốt, nhiều mô hình hay chưa được nhân rộng; kinh phí xây dựng mô hình quá hạn hẹp; quy mô nhỏ. - Việc thực hiện pháp luật BVMT ở một số nơi còn chưa nghiêm dẫn đến gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp về đất đai và môi trường chưa chặt chẽ, kịp thời, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và phát triển sản xuất của nông dân. - Sự phối hợp giữa Hội Nông dân với các cơ quan chức năng chưa chặt chẽ và chưa tạo cơ hội cho các đoàn thể (nhất là Hội Nông dân) được tham gia các chương trình, dự án lớn về BVMT nông thôn và ứng phó với biến đổi khí hậu.
  13. Những tồn tại, hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu vẫn là do nhận thức và hiểu biết của con người đối với môi trường còn hạn chế. Từ nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ, mối quan hệ giữa con người với môi trường xung quanh nên con người chỉ biết lạm dụng khai phá, sử dụng tài nguyên môi trường một cách thiếu ý thức, thiếu trách nhiệm dẫn đến những hành vi hủy hoại môi trường. Chưa bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế với BVMT, thường chú trọng tăng trưởng kinh tế, ít quan tâm đến BVMT. Nguồn đầu tư cho BVMT của Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư còn hạn chế; việc thi hành pháp luật chưa nghiêm. Công tác kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội chưa làm được nhiều và chưa thường xuyên. Chia sẻ kinh nghiệm . Điều quan trọng là phải xác định những vấn đề ưu tiên, trọng tâm cần giải quyết và thúc đẩy tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, cách tiếp cận, quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp BVMT sẽ phải phù hợp với trình độ phát triển trong giai đoạn tới khi nước ta đã có mức thu nhập trung bình. BVMT không chỉ hướng tới các nguồn ô nhiễm, kiểm soát các hóa chất, xử lý chất thải, bảo tồn đa dạng sinh học... mà phải bắt đầu từ việc lựa chọn quan điểm, mô hình phát triển, cơ cấu kinh tế, trình độ
  14. công nghệ sản xuất, thói quen tiêu dùng, thương mại, dịch vụ... bền vững về môi trường. Tăng cường công tác truyền thông, giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm BVMT, xây dựng nếp sống văn hóa môi trường. Cần điều tra, khảo sát, đánh giá hiện trạng môi trường nông thôn Việt Nam theo các vùng sinh thái, kiến nghị một số giải pháp tổ chức bảo vệ, giữ gìn và xây dựng các mô hình phù hợp với từng vùng miền; Phối hợp với các ngành chức năng tổ chức điều tra, đánh giá tác động của việc sử dụng phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật đến môi trường nông thôn, chất lượng nước sạch và sức khỏe của người dân vùng sản xuất hàng hóa; đề xuất giải pháp và các chính sách khắc phục. Cần có sự gắn kết hài hòa, thúc đẩy lẫn nhau giữa tăng trưởng kinh tế với phòng chống ô nhiễm, suy thoái môi trường, bảo tồn thiên nhiên và ứng phó với biến đổi khí hậu. Theo hướng này, mô hình tăng trưởng xanh đang được định hình, bước đầu áp dụng thành công ở một số nước trên thế giới cần phải sớm được nghiên cứu để từng bước hiện thực hóa ở nước ta.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2