Thuyết trình về Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn 1973-1975
lượt xem 85
download
Cho đến cuối tháng 3-1973, tất cả các đơn vị quân đội Mỹ và quân đội chư hầu còn lại đã rút hết về nước. Nhưng chiến tranh xâm lược thực dân mới không hề chấm dứt. Với khối lượng viện trợ ồ ạt trước ngày 27-1-1973, Mỹ chủ trương hiện đại hoá và tinh nhuệ hoá quân đội nguỵ bằng kế hoạch quân sự 6 năm (1974-1979). Mỹ cũng chủ trương làm cho kinh tế miền Nam tự lực bằng kế hoạch kinh tế hậu chiến 8 năm (1973-1980). Năm 1973, quân chính quy nguỵ tăng lên 710.000 tên, cùng 1,5 triệu bảo an...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thuyết trình về Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn 1973-1975
- BÀI THUYẾT TRÌNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Đề tài: Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn (1973-1975) 1
- MỤC LỤC BÀI THUYẾT TRÌNH.....................................................................................................1 ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM........................................1 Đề tài: Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn (1973- 1975).........................................................................................................................1 MỤC LỤC....................................................................................................................2 I. TÌNH HÌNH TRONG NƯỚC SAU HIỆP ĐỊNH PARI........................................................3 1.Lực lượng của địch sau hiệp định pari..................................................................3 2.Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III)........................... 4 3.Giai đoạn chuẩn bị chiến đấu, những Hội nghị, quyết định quan trọng của Đảng. 7 3.1.Tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ cho trận đánh cuối cùng.....................................7 3.2.Quyết định lịch sử của Bộ Chính trị tháng 10-1974 và tháng 1-1975 về giải phóng hoàn toàn miền Nam.................................................................................9 3.3.Về thời cơ chiến lược....................................................................................11 II.BA CHIẾ DỊCH VÀ CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM. ...11 1.CHIẾN DỊCH TÂY NGUYÊN...................................................................................12 1.1.NGUYÊN NHÂN TA CHỌN TÂY NGUYÊN ........................................................12 1.3.PHÁN ĐOÁN CỦA ĐỊCH.................................................................................13 1.5.PHÍA ĐỊCH....................................................................................................15 1.7.Ý NGHĨA CHIẾN THẮNG TÂY NGUYÊN............................................................18 3.CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH..................................................................................20 3.1.TÌNH HÌNH....................................................................................................21 3.2.NGUYÊN NHÂN CỦA CHIẾN DỊCH..................................................................24 3.3.CHỦ TRƯƠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG CỦA TA...............................................24 2.Ý nghĩa lịch sử: ...............................................................................................26 3.Kinh nghiệm lịch sử.........................................................................................27 2
- I. TÌNH HÌNH TRONG NƯỚC SAU HIỆP ĐỊNH PARI 1. Lực lượng của địch sau hiệp định pari Cho đến cuối tháng 3-1973, tất cả các đơn vị quân đội Mỹ và quân đội chư hầu còn lại đã rút hết về nước. Nhưng chiến tranh xâm lược thực dân mới không hề chấm dứt. Với kh ối lượng viện trợ ồ ạt trước ngày 27-1-1973, Mỹ chủ trương hiện đại hoá và tinh nhuệ hoá quân đội nguỵ bằng kế hoạch quân sự 6 năm (1974-1979). Mỹ cũng chủ trương làm cho kinh tế miền Nam tự lực bằng kế hoạch kinh tế hậu chiến 8 năm (1973-1980). Năm 1973, quân chính quy nguỵ tăng lên 710.000 tên, cùng 1,5 triệu bảo an dân vệ được Mỹ trang bị đầy đủ. Cũng năm đó, Mỹ lại đưa thêm vào miền Nam 90 máy bay, 100 pháo và khối lượng lớn phương tiện chiến tranh. Với khối lượng phương tiện chiến tranh và quân số lớn. Mỹ - nguỵ âm mưu tiêu diệt các lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị cách mạng, xoá bỏ tình trạng hai chính quyền, hai quân đội và ba lực lượng hiện có, biến miền Nam Việt Nam thành lãnh thổ chỉ có một chính quyền tay sai của Mỹ. Để xoá "thế da báo", theo chủ trương của Mỹ, nguỵ quyền Sài Gòn liên tiếp mở hàng loạt chiến dịch "tràn ngập lãnh thổ". Ngay trong đêm 27-1-1973, Mỹ - nguỵ đưa quân đ ịch chiếm cảng Cửa Việt (Quảng Trị). Trong năm 1973, với 325.255 vụ hành quân lấn chiếm, địch đã chiếm lại hầu hết các vùng giải phóng mới và một số vùng giải phóng cũ. Thực tế chứng tỏ Mỹ - nguỵ không thi hành các điều khoản của Hiệp định Pari, cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam không hề chấm dứt mà vẫn tiếp tục dưới hình thức mới. Đó là cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ mà không có lính Mỹ. Với ưu thế về quân số cộng với khối lượng vũ khí khổng lồ và tối tân của nguỵ đ ược Mỹ viện trợ và với sự chỉ huy của Mỹ thông qua đội ngũ cố vấn, Mỹ tin chắc cuộc chiến tranh thực dân mới sẽ giành được thắng lợi. Nhưng những chỗ mạnh trên đây của địch chỉ là nhất thời và bề ngoài. Sau khi Mỹ rút quân, nguỵ quyền Sài Gòn ở vào thế đi xuống. Chỗ yếu căn bản nhất của quân nguỵ là mất hẳn chỗ dựa vào quân Mỹ. Sau khi rút quân, khả năng quay trở lại miền Nam Việt Nam của Mỹ không còn nữa. Trải qua gần 8 năm sa lầy vào cuộc chiến tranh tốn kém nhất, kéo dài nhất, đã t ới lúc M ỹ không thể tiếp tục kiểu chiến tranh làm cho nước Mỹ suy yếu, dân Mỹ khó khăn. Từ sau thất bại Mậu Thân (năm 1968) cho đến khi ký kết Hiệp định Pari tháng 1-1973, Quốc hội Mỹ đã chủ trương dứt khoát rút quân Mỹ về nước để cho chính quyền Sài Gòn tự tiến hành cuộc chiến dưới sự đạo diễn của Mỹ. Tiếp theo việc Thượng nghị viện bỏ phiếu bác bỏ tuyên bố hứa viện trợ của Níchxơn (ngày 5-4-1973), từ tháng 5 đến tháng 11 - 1973, Thượng nghị viện 3
- và Hạ nghị viện Mỹ đã nhiều lần bỏ phiếu đòi chính phủ Mỹ chấm dứt mọi hành động quân sự tại Đông Dương. Ngày 17-5-1973, Thượng nghị viện Mỹ công khai điều tra vụ Oatơghết (- vụ đặt máy nghe trộm Đại hội Đảng Dân chủ) để đánh đổ Níchxơn. Mâu thuẫn nội bộ giai cấp thống trị Mỹ đã lên đến đỉnh cao. Cuộc khủng hoảng kinh tế 1969 - 1971 vừa chấm dứt, lại tiếp đến cuộc khủng hoảng 1973 - 1974 làm cho nước Mỹ chìm ngập trong cơn sốt bội chi, lạm phát, nhập siêu và thất nghiệp. Dân Mỹ ngày càng phản đối chiến tranh. Lợi dụng thời cơ nước Mỹ đang lún sâu trong cuộc khủng hoảng toàn diện, Nhật Bản và Tây Âu đã vượt Mỹ về sản lượng công nghiệp. Liên Xô vượt Mỹ về kỹ thuật quân sự, than đá, dầu mỏ. Cuộc "chiến tranh dầu lửa" năm 1973 của các nước Trung Cận Đông hướng đòn tiến công vào Tây Âu, Nhật Bản và Mỹ. Cao trào đấu tranh dân tộc, dân chủ ở châu Á, châu Phi hướng mũi nhọn vào Mỹ. Những khó khăn trong và ngoài nước buộc Mỹ phải liên tiếp cắt giảm viện tr ợ cho nguỵ quyền Sài Gòn. Trong vùng nguỵ quyền kiểm soát, giá cả tăng vọt, nạn đói phát triển. Hai triệu người thất nghiệp vì mất nguồn thu nhập từ khi quân đội Mỹ rút đi. Nạn đào ngũ, rã ngũ trong nguỵ quân và phong trào chống bắt lính đã đẩy nhanh quân đội Sài Gòn vào tai họa thiếu hụt quân số. Phong trào chống tham nhũng, chống chính sách độc tài, hiếu chiến của Thiệu, đòi Thiệu từ chức, đòi thi hành Hiệp định Pari, đòi thả tù chính trị,đòi công ăn việc làm, đòi chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình,đòi cứu đói... ngày càng lan rộng trong nhiều tầng lớp. Tuy nhiên, những chỗ yếu này của địch phát triển nhanh hay chậm, chủ yếu vẫn là do cách mạng có đủ sức giáng cho địch những đòn chí mạng hay không. Cách mạng miền Nam đang đứng trước tình thế mới: nguỵ quyền Sài Gòn có nguy cơ sụp đổ, nhân dân ta có khả năng đập tan chính quyền nguỵ trên toàn miền Nam. Nhu cầu cấp thiết của lịch sử lúc đó đòi hỏi Đảng ta phải tìm ra lời giải cho các bài toán chiến lược: Một là, Hiệp định Pari được thực hiện hay chiến tranh lại tiếp diễn? Hai là, đây là giai đoạn quá độ hay là giai đoạn cuối của sự nghiệp giải phóng miền Nam? Ba là, trước mắt phải bắt đầu từ giải pháp gì để phá âm mưu gây chiến c ủa đ ịch đ ưa cách mạng miền Nam tiến lên hoà bình, hoà hợp dân tộc hay phản công, tiến công chống l ấn chiếm? 2. Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) Ngày 28-1-1973, Ban Chấp hành Trung ương đã khẳng định cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã giành được thắng lợi rất vẻ vang, song Mỹ - nguỵ vẫn chưa từ bỏ âm mưu phá hoại hoà bình, ngăn trở con đường độc lập, thống nhất của nhân dân ta. 4
- Trong tháng 1-1973, Bộ Chính trị thông qua nghị quyết của Quân uỷ Trung ương về trường hợp địch vi phạm Hiệp định Pari, các lực lượng vũ trang cần chuẩn bị sẵn sàng đối phó với các cuộc tiến công quân sự của địch, trước mắt đòi nguỵ quyền Sài Gòn nghiêm chỉnh thực hiện Hiệp định. Tuy nhiên, trong nhân dân ta lúc đó xuất hiện hiện tượng mệt mỏi, khuynh hướng ảo t ưởng hoà bình, mất cảnh giác. Sau này, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10-1974 nhận định rằng đã có khuynh hướng "ảo tưởng, chờ đợi, thụ động, thậm chí có nơi rút lui". Trước tình hình mới, Bộ Chính trị thấy cần tập trung nghiên cứu, phân tích âm mưu hành động của Mỹ - nguỵ. Ngày 24-5-1973, Bộ Chính trị họp hội nghị mở rộng với đại diện các chiến trường để nghiên cứu, thảo luận những vấn đề chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khoá III. Hội nghị đánh giá ưu, khuyết điểm và bài học kinh nghiệm của 18 năm kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1972). Hội nghị nhất trí cho rằng, miền Nam chưa có hoà bình. Hội nghị xác định nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là: đoàn kết toàn dân đấu tranh trên cả ba mặt trận là chính trị, quân sự và ngoại giao nhằm kiên quyết đánh bại âm mưu và hành động của địch phá hoại Hiệp định Pari; giữ vững và phát triển lực lượng cách mạng về mọi mặt, thắng địch từng bước, chuẩn bị điều kiện đầy đủ nhất để có thể chủ động đối phó với địch trong mọi tình huống, sẵn sàng đưa cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Kết luận của Hội nghị Bộ Chính trị tháng 5-1973 là nội dung chủ y ếu của Báo cáo chính tr ị trình Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khoá III. Căn cứ vào nhận đ ịnh c ủa Bộ Chính trị ngày 25-6-1973, Quân uỷ Trung ương ra nghị quyết sẵn sàng chiến đấu, đánh bại mọi hành động lấn chiếm của địch, chuẩn bị về mọi mặt nếu địch gây lại chiến tranh quy mô l ớn thì kiên quyết tiêu diệt chúng. Tháng 7-1973, hội nghị Khu V thông qua nghị quyết ra sức đánh bại kế hoạch lấn chiếm, bình định của địch, giành dân, giữ dân, mở rộng quyền làm chủ, phát triển thực lực của ta. Tháng 9-1973, Hội nghị lần thứ 12 Trung ương Cục bàn cụ thể hoá tư tưởng chiến lược tiến công và quan điểm cách mạng bạo lực.Ở miền Tây Nam Bộ, từ tháng 2-1973, Khu uỷ Khu IX đã đề nghị cho kiên quyết đánh trả địch đồng thời đẩy mạnh đấu tranh chính trị. Tháng 7-1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khoá III họp tại Hà Nội và ra Nghị quyết Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới. Hội nghị nhận định: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là một cuộc đ ọ sức điển hình, là tiêu điểm của cuộc đấu tranh vô cùng quyết liệt giữa cách mạng và phản cách mạng trên thế giới, là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc mang tính thời đại sâu sắc. Hiệp định Pari đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ, làm thất bại một bước quan trọng học thuyết Níchxơn. 5
- Hội nghị rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn sau 18 năm kháng chiến chống Mỹ: Giữ vững tư tưởng chiến lược tiến công; 1. Nắm vững quan điểm cách mạng bạo lực; 2. Giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ và ngọn cờ xã hội chủ nghĩa; 3. Biết thắng từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn; 4. 5. Có phương pháp cách mạng thích hợp. Hội nghị nêu rõ ở miền Nam vẫn chưa có ngừng bắn, nguỵ quyền Sài Gòn đ ược Mỹ giúp đ ỡ vẫn tiếp tục gây chiến. Âm mưu của đế quốc Mỹ là tiếp tục dùng nguỵ quyền Sài Gòn làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, biến miền Nam thành một nước riêng biệt, một quốc gia thân Mỹ. Sau khi quân Mỹ rút đi, quân nguỵ có mạnh về phương tiện vật chất nhưng thực chất đang xuống dốc. Thế và lực của cách mạng miền Nam lúc đó mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào kể từ năm 1954. Lực lượng vũ trang nhân dân đứng vững trên các địa bàn chiến lược. Nhân dân vùng tạm bị chiếm bị kìm kẹp vẫn hướng về cách mạng. Mi ền Bắc đang phục hồi kinh tế, là chỗ dựa vững chắc cho cách mạng miền Nam. Chỗ y ếu c ủa cách mạng miền Nam là phong trào đấu tranh chính trị, bộ đội địa phương và dân quân du kích, cơ sở cách mạng ở đô thị và nông thôn chưa ngang tầm nhiệm vụ. Cách mạng miền Nam có thể phát triển theo hai khả năng: Một là: Ta có thể từng bước buộc địch phải thi hành Hiệp định Pari. Hai là: Ta lại phải tiến hành chiến tranh cách mạng để đánh bại địch, giành thắng lợi hoàn toàn. Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là: Hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; tập trung mũi nhọn vào đế quốc Mỹ và tập đoàn thống trị tư sản mại bản quan liêu, quân phiệt, phát xít - tay sai đắc lực của đế quốc Mỹ đang thống trị trong vùng địch kiểm soát - đẩy lùi và thắng địch từng bước, đi đến xoá bỏ chế độ thực dân mới, thiết lập một chính quyền dân tộc dân chủ thực sự, thực hiện hoà hợp dân tộc, thoát ly hẳn sự lệ thuộc vào Mỹ, thực hiện một miền Nam hoà bình, đ ộc l ập, dân ch ủ, trung lập, phồn vinh, tiến tới hoà bình thống nhất nước nhà. Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khoá III vạch rõ nhiệm vụ tr ước mắt của cách mạng miền Nam: 1. Trong bất cứ tình huống nào, phải nắm vững lực lượng vũ trang, 2. Nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng miền Nam hiện nay là giành dân và giành quyền làm chủ của nhân dân, 3. Binh vận là mũi tiến công rất quan trọng làm tan rã chính quyền địch. 6
- 4. Đẩy mạnh phong trào đấu tranh đô thị đòi hoà bình, dân chủ, dân sinh, đòi thi hành Hiệp định Pari. 5. Củng cố vùng giải phóng. 6. Tăng cường công tác Mặt trận và công tác chính quyền. 7. Công tác ngoại giao phải nắm vững pháp lý Hiệp định Pari, kiên quyết và kịp thời vạch trần âm mưu và hành động vi phạm hiệp định của địch. Điều kiện chủ yếu để giành thắng lợi trong giai đoạn mới là Đảng bộ miền Nam phải nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, nắm vững bạo lực cách mạng. Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III có ý nghĩa l ịch sử quan tr ọng, mở đường đưa cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi. Nhưng hạn chế của Hội nghị là, trong lúc trên thực tế chiến trường, khả năng buộc địch thi hành Hiệp định Pari đã không còn nữa, Hội nghị vẫn còn nhận định hai khả năng phát triển. Hạn chế này đã được khắc phục qua thực tế diễn biến ở chiến trường những năm 1973 - 1974. Giai đoạn chuẩn bị chiến đấu, những Hội nghị, quyết định quan trọng 3. của Đảng. Tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ cho trận đánh cuối cùng 3.1. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khoá III được thực hiện, làm cho cục diện cách mạng miền Nam có sự thay đổi lớn:Từ thế bị động đối phó, chiến tranh cách mạng miền Nam chuyển lên chủ động phản công và tiến công, bẻ gẫy kế hoạch lấn chiếm của Mỹ - Ngụy. Từ chỗ mất đất, mất dân, chuyển lên thu hồi và mở rộng vùng giải phóng, đẩy Mỹ - Ngụy vào tình trạng bế tắc, suy sụp. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21, tháng 10-1973, Hội nghị Quân uỷ Trung ương vạch rõ : nhiệm vụ trung tâm số 1 về mặt quân sự lúc này là “phá bình định, lấn chiếm, giành quyền làm chủ”. Tháng 12-1973, Hội nghị thứ 22 Ban Chấp hành Trung ương khoá III họp bàn về khôi phục kinh tế ở miền Bắc. Hội nghị xác định nhiệm vụ của miền Bắc trong giai đoạn mới là nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu của đế quốc Mỹ và tay sai; ra sức làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn đối với miền Nam và nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia. Hội nghị thông qua phương hướng, kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế trong 2 năm 1973 – 1974 Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ trước mắt, Đảng ta không quên chuẩn bị cho kế hoạch lâu dài. Tháng 2 -1973, Bộ Chính trị ra nghị quyết về công tác cán bộ trong giai đoạn mới. Nghị quyết nêu 5 tiêu chuẩn cán bộ: 7
- Trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội. 1- Nhất trí với đường lối, quan điểm của Đảng. 2- Có năng lực hoàn thành tốt nhiệm vụ. 3- Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. 4- Có ý thức tổ chức và kỷ luật. 5- Hội nghị lần thứ 23 bàn về : Tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Đúc kết kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng giai đoạn đã qua, Hội nghị nêu ra 3 phương châm: 1- Xây dựng Đảng phải gắn liền với việc nâng cao năng lực quản lý, kiện toàn tổ chức của Nhà nước và việc xây dựng, củng cố các đoàn thể quần chúng. 2- Nâng cao chất lượng đảng viên phải kết hợp với nâng cao chất lượng cán bộ, với kiện toàn cơ quan lãnh đạo từng cấp, từng ngành. 3- Phát triển Đảng phải coi trọng chất lượng, phát triển phải đi đôi với củng cố. Từ tháng 10 -1973 đến tháng 3 -1975, bốn quân đoàn lần lượt ra đời. Song song với vi ệc hình thành và bố trí các quân đoàn trên các địa bàn chiến lược, các sư đoàn, trung đoàn chủ lực cơ động trực thuộc Bộ Quốc phòng và các quân khu cũng được tăng cường. Từ cuối năm 1973, các cuộc tập huấn cán bộ quân sự được tổ chức đ ể nâng cao ngh ệ thuật tổ chức và chỉ huy các chiến dịch tiến công, chiến dịch phòng ngự. Trong nh ững năm 1973 - 1975 đã có gần nửa triệu thanh niên nhập ngũ, lên đường ra mặt trận. Tháng 11-1973, Hội đồng Chính phủ phê chuẩn thiết kế xây dựng hệ thống đường vận tải chiến lược Trường Sơn Đông và nâng cấp đường Trường Sơn Tây Từ tháng 7 đến tháng 10-1974, quân dân Tây Nam Bộ đã đánh bại các cuộc hành quân lấn chiếm, giải phóng gần 800.000 dân. Quân dân Trung Nam Bộ mở rộng vùng giải phóng Đồng Tháp Mười, giải phóng 130.000 dân. Trung Trung Bộ giải phóng 200.000 dân. Trên toàn miền Nam, vùng giải phóng có gần 5 triệu người dân, vùng tranh chấp trên 5 triệu dân. Địch chỉ còn kiểm soát được 9,5 triệu dân. Năm 1974, tình thế mới xuất hiện trên chiến trường miền Nam. Quân, dân ta đã giải phóng và giữ được hàng chục chi khu, quận lỵ, nguỵ quyền Sài Gòn đành chịu bó tay, không còn khả năng lấy lại được. Tình thế này chứng tỏ quân chủ lực cơ động của ta đã mạnh hơn hẳn quân chủ lực cơ động của địch, khả năng giải phóng hoàn toàn miền Nam đã chín muồi. Trong khi lực lượng mọi mặt của nhân dân ta lớn mạnh, thì l ực l ượng mọi mặt c ủa Mỹ - ngụy ở miền Nam đang suy sụp, tan rã. Tiếp theo việc cắt bỏ kinh phí ném bom Campuchia, tháng 6 - 1994, Quốc hội Mỹ lại bác bỏ yêu sách của Níchxơn đòi viện trợ bổ sung 216 triệu đôla cho chính quyền Sài Gòn. Ngày 13-8-1974, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra thông báo nhận định: Trước tình cảnh khốn cùng, giai cấp thống trị Mỹ đã dùng Níchxơn làm vật hy sinh, hòng làm 8
- dịu mâu thuẫn của Chính phủ Mỹ và nhân dân Mỹ. Thông báo vạch rõ: Ta không có ảo tưởng về sự thay đổi tổng thống ở Mỹ, đây chỉ là một thủ đoạn thay ngựa giữa dòng c ủa t ập đoàn tư bản lũng đoạn Mỹ để cứu vãn tình thế. Việc Níchxơn từ chức có ảnh hưởng trực tiếp tới nguỵ quyền Sài Gòn. Trong ngày Níchxơn từ chức, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh báo động toàn miền. Ngày 9-8-1974 Tổng thống Níchxơn buộc phải tuyên bố từ chức, điều này chứng tỏ chính sách kéo dài chiến tranh của Mỹ đã hoàn toàn phá sản. Xu thế chung của nhân dân Mỹ là chấm dứt chiến tranh. Ghêron Pho (Gerald Ford) lên thay Níchxơn làm Tổng thống tuyên bố rằng, cần theo đuổi chính sách kiềm chế tương đối ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Thực tế nghĩa là bỏ rơi ngụy quyền Sài Gòn. Trước cuộc khủng hoảng sâu sắc của nguỵ quyền Sài Gòn, đại sứ Mỹ G.Matin- trùm cố vấn Mỹ, buộc Nguyễn Văn Thiệu phải làm dịu tình hình bằng cách cách chức 4 thành viên trong chính phủ, cách chức 400 tướng tá và thuyên chuyển 3 tư lệnh quân khu. Có những dấu hiệu Mỹ đang xoay con bài mới, trở lại Hiệp định Pari, đưa lực lượng thứ ba ra sân khấu chính trị Sài Gòn Quyết định lịch sử của Bộ Chính trị tháng 10-1974 và tháng 1-1975 v ề 3.2. giải phóng hoàn toàn miền Nam Những cuộc phản công và tiến công thắng lợi của quân giải phóng đã đ ẩy nhanh thời c ơ chín muồi cho việc giải phóng hoàn toàn miền Nam. Ngày 21-7-1974,đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phân tích âm mưu mới của đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch là chia vùng ảnh h ưởng và chia c ắt lâu dài nước ta. Đảng và nhân dân ta phải nắm vững thời cơ để giành thắng lợi sớm, trước khi các thế lực đó thực hiện âm mưu của chúng. Bộ Tổng tham mưu được giao nhiệm vụ chuẩn bị kế hoạch chiến lược giành thắng lợi năm 1975, giành thắng lợi quyết định năm 1976 trình Bộ Chính trị. Đợt 1 (30-9 đến 8-10-1974) Hội nghị Bộ Chính trị bàn về chủ trương giải phóng hoàn toàn miền Nam. Hội nghị cho rằng: Mỹ rất ngoan cố và còn nhiều âm mưu thâm đ ộc, nhưng đã rút quân ra thì việc quay lại không phải dễ; dù Mỹ có can thiệp trở lại chừng mực nào đó thì cũng không xoay chuyển được tình thế. Nhân dân ta vẫn thắng. Từ kết luận trên, Hội nghị đề ra nhiệm vụ trung tâm trước mắt của nhân dân cả nước ta là: Toàn quân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã quân ngụy, đánh chi ếm Sài Gòn, đánh đổ ngụy quyền trung ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, gi ải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà. Hội nghị quyết định giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976. 9
- Ngay sau Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10-1974, một không khí khẩn trương chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công toả xuống các chiến trường, các quân binh chủng và các địa phương. Ngày 8-10-1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ra tuyên bố đòi Mỹ chấm dứt mọi can thiệp, đòi đánh đổ Nguyễn Văn Thiệu và phe cánh - tr ở ngại chính cho việc giải quyết các vấn đề chính trị ở miền Nam Việt Nam. Đợt 2 của Hội nghị Bộ Chính trị họp từ ngày 8-12-1974 đến ngày 7-1-1975. Hội nghị cho rằng: 1. thế và lực mới của cách mạng đã thể hiện trên các mặt sau đây: 2. Ta đã giành quyền chủ động tiến công địch trên khắp các chiến trường. 3. Những binh đoàn chủ lực cơ động và những nguồn dự trữ chiến lược của ta đã được xây dựng đủ. 4. Phong trào đấu tranh chính trị đòi hoà bình, độc lập, hoà hợp dân tộc đã đ ược phát động. Thế giới đồng tình, ủng hộ ta trừng trị bọn lấn chiếm. Trong cuộc chiến kéo dài từ tháng 8 đến tháng 12-1974, Sư đoàn 304 của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã vượt qua cứ điểm then chốt Thượng Đức ở vùng núi phía Tây Đà Nẵng và đánh bại hàng loạt cuộc phản công có ý nghĩa quyết định của hai sư đoàn quân lực Việt Nam Cộng Hòa-sư đoàn 3 và sư đoàn đổ bộ đường không thiện chiến. Chiến thắng Thượng Đức đã thuyết phục Ban lãnh đạo Quân đội Nhân dân Việt Nam về khả năng những người lính của họ giờ đây có thể đánh bại ngay cả những đội quân thiện chiến nhất, được trang bị tốt nhất và được sự hỗ trợ tối đa của quân lực Việt Nam cộng hòa. Ngày 6-1-1975, tin giải phóng thị xã Phước Long làm cho Hội nghị càng thêm tin chắc rằng quân Mỹ không thể trở lại miền Nam và việc giải phóng miền Nam có thể tiến hành với nhịp độ nhanh hơn. Sau chiến thắng Phước Long, đánh giá của Bộ Chính trị cho rằng: Mỹ không có khả năng can thiệp trở lại vào cuộc chiến, đã được chứng minh là đúng đắn. Những điểm y ếu trong h ệ thống phòng thủ của quân đội Việt Nam Cộng hòa đã bộc lộ rõ. Và điều quan trọng là cuối cùng đã tìm được giải pháp khắc phục sự thiếu hụt nghiêm trọng nhất về đạn dược, đó là đánh chiếm các kho vũ khí và đạn pháo của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Tiếp tục quán triệt Nghị quyết của Hội nghị đợt 1, Hội nghị đợt 2 vạch rõ:Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận đánh quyết đ ịnh, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới tổng tiến công và nổi dậy, thắng địch tại sào huyệt quan trọng nhất của chúng là Sài Gòn. 10
- Về thời cơ chiến lược 3.3. Bộ Tổng tham mưu dự kiến thời cơ có thể xuất hiện trong ba tình huống 1. Khi ta đánh mạnh nhất vào đợt hai năm 1975. 2. Ngay trong mùa mưa ở Nam Bộ. 3. Những tháng cuối năm 1975, khi ngụy tổ chức bầu tổng thống. Phương hướng là: "Kiềm chế Mỹ, đánh đổ ngụy, hạn chế chiến tranh ở phạm vi miền Nam, đồng thời sẵn sàng đối phó phản ứng quyết liệt của Mỹ bằng không quân, hải quân và quân cứu hỏa". Trong bản báo cáo, Bộ Tổng tham mưu cũng trình bày cụ thể kế hoạch hậu cần chiến lược làm cơ sở cho việc đặt kế hoạch tác chiến chiến lược và những mục tiêu cần đ ạt tới, nhất là trong năm 1975, về khả năng can thiệp trở lại của Mỹ khi ta đánh lớn, khả năng vật chất kỹ thuật của ta để đánh lớn, về khả năng nổi dậy của quân chúng ở các đô thị, nhất là ở Sài Gòn. Tôi (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) phát biểu ý kiến bổ sung, nêu rõ lúc này thế và l ực c ủa ta đang phát triển nhanh chóng theo chiều hướng có lợi .Tình hình đó cho phép ta chuẩn bị ngay kế hoạch tiến tới tổng công kích, mở đầu là tổ chức các đợt tiến công tiêu diệt lớn quân địch, sau đó đánh vào các thành phố. Địch còn có những chỗ mạnh. Xương sống của địch là quân đội ngụy, được coi là mạnh nhất trong các đội quân tay sai của đế quốc. Bên cạnh chúng, vẫn còn cố vấn và nhân viên quân s ự Mỹ. Đầu não của chúng đang ở các đô thị, nhất là ở Sài Gòn. Kế hoạch bình định được chúng coi là cơ sở, tạo nguồn dự trữ để thực hiện "Việt Nam hóa chiến tranh". Tuy nhiên, địch đang trên đà đi xuống. Viện trợ Mỹ không ngừng bị cắt giảm. Tinh th ần quân ngụy rêu rã, binh sĩ phần lớn bị bắt buộc đi lính, sức chiến đấu sút kém rõ rệt. Ngụy quy ền cũng suy yếu trầm trọng. Mâu thuẫn giữa chúng với chủ Mỹ ngày càng tăng. Ngụy quy ền Sài Gòn đang đứng trước những khó khăn về kinh tế - xã hội vô phương cứu vãn. Đ ế quốc Mỹ đang lúng túng. Phong trào phản chiến từ sau Hiệp định Pa ri càng lên cao. Nạn lạm phát xuất hiện. Đảng Dân chủ bị vụ bê bối Oatơghết trói chặt chân tay. Mỹ rất khó đ ưa quân tr ở lại miền Nam. Đây là hoàn cảnh khách quan hết sức thuận lợi, ta cần tận dụng, không được bỏ lớ. Khó khăn của địch là thuận lợi của ta. Cách mạng miền Nam đang chuyển mạnh theo hướng đi lên. Chiến trường Nam Bộ bước vào một mùa mưa chưa từng có. Bất chấp thời tiết khó khăn, quân và dân ta đẩy mạnh mọi mặt hoạt động tạo thế mới và lực mới, cả vật chất và tinh thần. Ta tiêu diệt một bộ phận khá lớn sinh lực của địch, giữ vững các "lõm giải phóng" ở đ ồng bằng sông Cửu Long, xung quanh Sài Gòn, giữ vững vùng giải phóng và căn cứ địa rộng l ớn, duy trì được thế uy hiếp địch về mặt chiến lược. II. BA CHIẾ DỊCH VÀ CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM 11
- 1. CHIẾN DỊCH TÂY NGUYÊN Tây Nguyên gồm 5 tỉnh: Kontum, Gia Lai, Đắc Lắc, Phú Bồn, Quảng Đức. Hơn 60 vạn dân. Khu vực Nam Tây Nguyên gồm các tỉnh Phú Bồn, Đắc Lắc, Quảng Đức. NGUYÊN NHÂN TA CHỌN TÂY NGUYÊN . 1.1. • Bởi đây là địa bàn có vị trí vô cùng quan trọng về chiến lược, Tây nguyên là nóc nhà của Đông Nam Á và của Viêt Nam nếu ta giải phóng được, sẽ làm rung chuyển toàn bộ chiến trường miền Nam. • Từ Tây Nguyên có thể phát triển xuống phía Nam theo đường số 7, 19 , 21, 14. • Địa hình đồi núi hiểm trở thuận lợi cho quân ta trong việc tấn công, địch khó phát hiện. • Đánh Tây Nguyên sẽ chia cắt lực lượng và sự chiếm đóng của địch ở cả 3 miền • Từ Tây nguyên ta có thể đánh ra miền Trung , đánh Sài Gòn Huế Đà Nẵng. Quân đội Nhân dân Việt Nam đã phát hiện ra điểm yếu trong toàn bộ tuyến phòng thủ • của Quân lực Việt Nam Cộng hòa do tập trung phần lớn lực lượng mạnh nhất của mình ở Quân khu I (phía Bắc đèo Hải Vân) và quân khu III (quanh Sài Gòn). Quân khu II, trong đó có địa bàn trọng điểm Tây Nguyên chính là địa đoạn yếu nhất trên toàn bộ tuyến phòng thủ do chỉ có một quân đoàn đóng giữ. Quân đoàn này lại phải bổ đôi l ực l ượng cho hai khu vực đồng bằng và cao nguyên, giao thông không thuận tiện, dễ bị chia c ắt. Địa đoạn yếu này lại càng yếu hơn khi các lực lượng mạnh nhất tập trung ở cánh Bắc xung quanh Pleiku - Kon Tum và gần như để ngỏ cánh Nam với Buôn Ma Thuột là trọng điểm. Bộ tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên cho rằng khi mất Tây Nguyên QLVNCH sẽ khó tổ chức phản công tái chiếm vì sẽ phải điều từ 5 tới 6 sư đoàn đến chiến tr ường trong khi không có đủ lực lượng để bảo vệ Quân khi III, Biệt khu thủ đô và Quân khi I sát miền Bắc nếu các Quân khu này cũng đồng thời bị tấn công. PHƯƠNG ÁN CHIẾN ĐẤU. 1.2. Phương án tiến công chiến dịch Tây Nguyên của Quân ủy Trung ương Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) chỉ rõ: Lấy Nam Tây Nguyên làm trận đột phá, và thị xã Ban Mê Thuột là trận then chốt. Để thực hiện chiến dịch, bên cạnh các sư đoàn 320, 10, và 968 hiện đóng sẵn ở Tây Nguyên. tháng 12 năm 1974, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam điều thêm 316 lên Tây Nguyên, đưa lực lượng của họ tại đây lên bốn sư đoàn, và các lữ đoàn, trung đoàn độc lập của bộ binh, pháo binh, thiết giáp, đặc công, phòng không, công binh ... Và chưa kể sư đoàn 3 của quân khu 5 tại Bình Định đánh chia cắt đường 19 và tấn công sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) không cho ứng cứu để phục vụ trực tiếp chiến dịch này. 12
- Căn cứ tình hình bố trí binh lực hai bên, hội nghị đã vạch ra 5 vấn đề lớn về tác chiến gồm có: • Hướng và khu vực tác chiến chủ yếu là thị xã Buôn Ma Thuột - Đức Lập. Mục tiêu quyết định là thị xã Buôn Ma Thuột. • Hướng và mục tiêu quan trọng là khu vực Cẩm Ga (Thuần Mẫn) để cắt đứt đường 14, chia cắt các lực lượng đối phương ở Bắc Tây Nguyên và Nam Tây Nguyên, ngăn chặn cánh quân ở khu vực Kon Tum - Pleiku xuống ứng cứu cho Buôn Ma Thuột. • Hướng phát triển chiến dịch đến Phú Bổn và Quảng Đức, chủ yếu là Phú Bổn, gồm cả thị xã Cheo Reo. • Hướng bao vây chia cắt chiến dịch là cắt đứt đường 19 trên tuy ến Pleiku - An Khê - đông Bình Khê, cắt đứt đường 21 ở phía Đông và Tây Chư Cúc, chặn cánh quân đ ồng bằng duyên hải từ Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa lên ứng cứu cho Tây Nguyên đồng thời ngăn chặn cánh quân ở Tây Nguyên rút về đồng bằng ven biển. • Hướng nghi binh chiến dịch là Pleiku và Kon Tum, các đơn vị ở lại trên hướng này phải tạo thế chuẩn bị tấn công, kiềm chế, giam chân khối chủ lực của Quân đoàn II tại khu vực Pleiku - Kon Tum. Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên đưa ra hai phương án tác chiến để lựa chọn: Phương án thứ nhất: Tấn công khi đối phương chưa điều toàn bộ sư đoàn 23 và các đơn vị tăng cường khác về phòng thủ Buôn Ma Thuột. Đây là phương án lý tưởng nhất, đ ảm bảo tháng nhanh gọn và ít gây thiệt hại cho các mục tiêu dân sự trong thị xã. Điều này phụ thuộc vào hiệu quả thực hiện nghi binh chiến lược trên hướng Pleiku-Kon Tum bảo đảm giam chân 4 trung đoàn bộ binh, 3 thiết đoàn xe tăng-thiết giáp và 5 liên đoàn biệt động quân đang bố trí tại đây Phương án thứ hai: Tấn công khi đối phương đã tăng cường phòng thủ thị xã Buôn Ma Thuột. Đây là phương án đánh chắc tiến chắc và cuộc chiến sẽ giằng co ác liệt gay go. Bộ Tư lệnh chiến dịch yêu cầu các đơn vị dưới quyền tổ chức chuẩn bị tấn công theo phương án 2; trong khi thực hiện phải tạo thời cơ và nhanh chóng chuyển sang phương án 1 khi điều kiện thời cơ xuất hiện. PHÁN ĐOÁN CỦA ĐỊCH 1.3. Trưởng phòng 2 Bộ tham mưu Quân đoàn cho biết thám báo mặt đất, thám sát điện đài và trinh sát đường không đã phát hiện Sư đoàn 968 của đối phương mới từ Lào về nhưng chưa biết sẽ di chuyển đến đâu. Nếu đánh lớn, đối phương sẽ lấy Pleiku - Kon tum làm "điểm", những vùng còn lại chỉ là "diện". Nếu đánh vừa họ có thể sẽ chiếm nốt Quảng Đức để nối liền với Phước Long và mở thông hành lang Đông Trường Sơn, chuẩn bị cho năm sau tổng công kích. Khi đó, đi ểm quy ết định phải là Đông Nam Bộ.[20]. Không có sĩ quan cao cấp nào của Quân đoàn II có ý kiến đánh 13
- giá khác. Chỉ có đại tá Phạm Văn Nghìn, tiểu khu trưởng đồng thời là tỉnh trưởng Quảng Đức xin thêm 1.000 quân tăng phái. Với các phân tích trên, Phạm Văn Phú kết luận: • Tập trung sự di chuyển của sư đoàn 10 và sư đoàn 320 Bắc Việt. Hai sư đoàn này ở đâu thì ở đó sẽ có đánh lớn. Sư đoàn 968 chuyên bảo vệ hậu cứ, ít kinh nghiệm sơn chi ến nên không đáng ngại, có thể dùng không quân ngăn chặn. • Khu vực Pleiku - Kon Tum phải tăng cường bố phòng sục sạo từ xa đ ể sớm phát hi ện đối phương; nới rộng tuyến phòng thủ ra ngoài để giảm sức tiến công của đối phương khi đánh sâu vào các cụm phòng ngự trong thị xã. • Chấp thuận đề nghị của tướng Nghìn, tăng phái cho Quảng Đức trung đoàn 53. • Ban Mê Thuột (Buôn Ma Thuột) có thể bị tấn kích nhưng chỉ là "diện", chưa cần tăng thêm lực lượng. • Các tiểu khu, đơn vị có và thực thi ngay kế hoạch giải toả các đường giao thông khi bị đối phương cắt đứt. • Do những phán đoán sai lầm từ cơ quan tình báo CIA tại Sài Gòn về việc "cộng sản có ý định bao vây và cắt đứt các đường giao thông" nên tại Buôn Ma Thuột, QLVNCH không có một phương án khả thi nào để phòng thủ Buôn Ma Thuột trong trường hợp thị xã trở thành chiến trường trọng điểm Mặc dù có lúc ông ta đã định điều Sư đoàn 23 về Buôn Ma Thuột nhưng các chi nhánh CIA tại Quân khu II và phòng 2 Bộ Tổng Tham mưu QLVNCH đều khẳng định sư đoàn 10 và sư đoàn 320 QĐNDVN vẫn ở nguyên chỗ cũ.Trên bản đồ tình báo của Phủ đặc ủy tình báo VNCH, của Bộ Tổng tham mưu QLVNCH, của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn và Sở chỉ huy Quân đoàn II đều cho thấy một cụm quân rất lớn gồm 2 đến 3 sư đoàn có trang bị mạnh c ủa QĐNDVN đang chiếm lĩnh vị trí quanh Kon Tum và cả Pleiku cách đó hơn 20 km. PHÍA TA (CÁCH NGHI BINH , CHIẾN THUẬT) 1.4. Khi lực lượng chủ lực của các sư đoàn 10, 320 và các trung đoàn 40, 234, 273, 675 di chuy ển về quanh Buôn Ma Thuột, hệ thống điện đài của các đơn vị này vẫn giữ nguyên vị trí và liên tục phát đi các bức điện giả, báo cáo giả, mệnh lệnh giả với tần suất ngày càng cao. Trong khi các đơn vị này di chuyển vào Đắc Lắc thì Sư đoàn 968 (thiếu) từ Lào về lần lượt thay thế các đơn vị này và vẫn sử dụng hệ thống liên lạc vô tuyến điện đã có tại đ ịa bàn. S ở ch ỉ huy mặt trận Tây Nguyên cũng để lại và duy trì hoạt động của các bộ máy điện đài 15W (loại dùng cho sở chỉ huy sư đoàn trở lên) tại K'Leng, bắc Võ Định, điểm cao 518 bên đường 19 đông. Lực lượng an ninh giải phóng Pleiku và Kon Tum còn cho người vào tìm người thân" trong khu vực do QLVNCH kiểm soát, phao tin Quân giải phóng sắp đánh lớn và Kon Tum và Pleiku. Dân chúng trong các vùng do Mặt trận kiểm soát ở các khu vực Đông, Bắc và Tây Pleiku - Kon Tum làm nhiều cờ, hoa, biểu ngữ với nội dung chào mừng Pleiku và Kon Tum được giải phóng. Khi Trung đoàn 45 (sư đoàn 23) Quân lực Việt Nam Cộng hòa tổ chức các cuộc hành quân lùng sục xung quang khu vực Buôn Ma Thuột, Thuần Mẫn và Đức Lập; Bộ tư lệnh mặt trận Tây Nguyên đã lệnh cho các đơn vị của Sư đoàn 320A tạm lùi về phía Tây, tránh giao chiến, không 14
- bộc lộ lực lượng. Sư đoàn 316 bố trí phía sau Sư đoàn 320A được lệnh không tiến hành bất kỳ hoạt động quân sự nào. PHÍA ĐỊCH 1.5. Cho đến cuối tháng 2, CIA tại Sài Gòn vẫn chưa biết gì về việc tập trung quân của QĐNDVN tại đây và vẫn phán đoán rằng mục tiêu tấn công chủ yếu vẫn là Pleiku và Kon Tum. DIỄN BIẾN CHIẾN DỊCH 1.6. Đợt 1: Từ 4-3 đến 9-3: Ngày 4-3, ta cắt đường số 19 đọan từ An Khê đ ến Nam Bình Khê và cắt đường số 21, tập kích bằng pháo binh và đặc công vào thị xã Kontum, Pleiku, tích cực hoạt động nghi binh để ghìm chặt địch ở Bắc Tây Nguyên. Từ ngày 5 đến 8-3, sau khi quân giải phóng bǎm nát các tuyến đường giao thông quân sự 19, 14, 21, thì các cǎn cứ địch ở Tây Nguyên lâm vào thế bị bao vây chia cắt. Địch chỉ cong trông chờ vào đường hang không nhưng hy vọng mong manh này cũng b ị ta pháo kích mãnh liệt vào sân bay Cù Hanh. 15
- Đợt 2: Từ ngày 10 đến 18-3: Rạng sáng 10-3, ta nổ súng tiến công bất ngờ vào các căn cứ quân sự của địch ở trong thị xã Buôn Ma Thuột. 2 giờ sáng 10 tháng 3 năm 1975, cuộc tiến công của QĐNDVN vào Buôn Ma Thuột bắt đầu với các trận đ ột kích sâu c ủa trung đoàn 198 đặc công vào các mục tiêu: Sân bay Hòa Bình, khu kho Mai Hắc Đế, khu hậu cứ của trung đoàn 53 (QLVNCH) với sự yểm hộ của hỏa tiễn tầm ngắn ĐKB và H-12. Tại thời điểm đó, đại tá Quang vẫn nhận định rằng:Quân ta chỉ dùng đ ặc công và pháo binh quấy rối rồi đến sáng, họ sẽ rút ra, địch nhận định ta chỉ đủ sức tấn công vòng ngoài chưa dám đánh sâu vào thị xã. Riêng đường 20C ở Tây Nam Buôn Ma Thuột nằm trên hướng đột kích của trung đoàn xe tăng 273 được mở một cách độc đáo. Các cây lớn chỉ được cưa 3/4 gần gốc. Khi xe tăng xuất kích, có thể húc đổ cây tự mở đường trong hành tiến. tiến công vào khu trung tâm Vì v ậy, trinh sát đường không của QLVNCH không phát hiện được sự có mặt của trung đoàn xe tăng 273 tại đây Sau 4 giờ chiến đấu, ta làm chủ sân bay Hòa Bình và khu kho Mai Hắc Đế. 11 giờ ngày 11- 3, ta hòan toàn làm chủ thị xã . Ngay cả đến khi Buôn Ma Thuột bị tấn công, tướng Phú và cả Bộ Tư lệnh Quân đoàn II cũng chưa biết rằng cuộc tấn công này được thực hiện chủ yếu bởi sư đoàn 316 đã bí mật hành quân xuống Nam Tây Nguyên theo sau sư đoàn 320A, dùng sư đoàn 320A làm bình phong che giấu sự có mặt của mình. Đến 14 giờ 30, đại tá Trịnh Tiếu, trưởng phòng quân báo Quân đoàn II mới trình t ướng Phú bản báo cáo trong đó kết luận: đã phát hiện sư đoàn 316 của QĐNDVN từ Lào về đang di chuyển xuống phía Nam. Tướng Phú lập tức ra lệnh phá các cầu trên đường 14 đ ể ngăn chặn đơn vị này nhưng đã quá muộn. Đến lúc dó thì toàn bộ sư đoàn 316 đã giao chi ến với quân VNCH trong nội đô thị xã được hơn 10 tiếng đồng hồ. Trong khi đang thực hiện việc chuyển quân của sư đoàn 23 từ Pleiku về Buôn Ma Thuột, sân bay Cù Hanh tiếp tục bị các đơn vị của sư đoàn 968 QĐNDVN pháo kích. Khi trận Buôn Ma Thuột và chiến sự ở Tây Nguyên đang diễn ra thì QLVNCH tại Quân khu I cũng đang phải đối phó với các hoạt động của các sư đoàn 324, 325 QĐNDVN tại Trị Thiên Huế. Ngày 12 tháng 3 Phạm Văn Phú từ trên máy bay ra lệnh tự thủ cho tướng VÕ ÂN v ừa mới được phong đại tá tử thủ. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lệnh cho tướng Phạm Văn Phú phải giữ bằng đ ược các vị trí còn lại ở phía Đông thị xã làm bàn đạp và phải có ngay kế hoạch phản kích giải tỏa cho Buôn Ma Thuột. Rạng sáng ngày 12 tháng 3, kế hoạch tái chiếm Buôn Ma Thuột được Nguyễn Văn Thiệu chấp thuận. Sáng này 12, 13-3 địch dung trực thăng đổ trung đoàn 45 xuống đường 21 Buôn Ma Thuột. Trung đoàn 44 và sở chỉ huy nhẹ được đổ xuống Phước An áp sát căn c ứ 53 và sân bay hòa bình 16
- Địch không thể ngờ các điểm đổ quân đều nằm trong thế trận giăng sẵn của ta đ ịch bị diệt gọn,phản kích của địch thất bại . Ngày 14 tháng 3, tướng Phú triệu tập ngay chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, chuẩn tướng Phạm Duy Tất (mới được thăng) và đại tá Lê Khắc Lý bàn việc rút quân với mấy yêu cầu: rút quân một cách bí mật. • Về kế hoạch chung: Bảo đảm bí mật tuyệt đối, không làm văn bản, chỉ truyền khẩu lệnh; cấm tiết lộ cho địa phương quân và các tiểu khu. Phải rút nhanh gọn, đem theo vũ khí và một cơ số đạn đủ cho một trận chiến đấu. Rút theo kiểu cuốn chiếu, ở xa rút trước, ở gần rút sau. • Về điều phối: Giao chuẩn tướng Phạm Duy Tất chỉ huy hành quân; chuẩn tướng Cẩm đôn đốc kiểm tra; chuẩn tướng Sang điều điều động máy bay vận tải chở hàng hóa quý hiếm, dọn sạch hai bên đường rút quân bằng máy bay oanh tạc; đại tá Lý điều đ ộng công binh sửa đường, bắc cầu, giữ liên lạc với Bộ chỉ huy tiền phương Quân khu II tại Nha Trang và Bộ Tổng tham mưu tại Sài Gòn để xin tiếp ứng khi cần. Theo tính toán của tướng Phú, các đơn vị QĐNDVN tập trung vây đánh trung đoàn 53, căn c ứ B50 ở Buôn Ma Thuột và lo đối phó với cuộc phản kích của sư đoàn 23 tại Phước An nên phải mất ba đến năm ngày mới có thể điều quân đến do đường sá rất xấu, cơ động khó khăn. Vào 20 giờ tối 16 tháng 3, lệnh truy kích mới được ban bố. Tiểu đoàn 9, trung đoàn 64 (sư đoàn 320 QĐNDVN) là đơn vị đầu tiên được điều động đã hành quân cắt rừng suốt đêm để lập một chốt chặn ở phía Nam thị xã Cheo Reo. Đợt 3: Từ 17 đến 24-3-1975: chặn đánh địch trên đường số 7. Ta chặn đánh các lực lượng địch ở Pleiku, Kontum rút chạy trên đường số 7 từ Cheo Reo đ ến Củng Sơn. Ngày 14-3, Tổng thống Thiệu họp với Cao Văn Viên, Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, Phạm Văn Phú ở Nha Trang quyết định rút quân khỏi Kontum – Pleiku theo đường số 7 về giữ vùng đồng bằng ven biển. Ngày 16-3, nhận được thông báo địch đã rút chạy, Bộ tư lệnh chiến dịch đã ra lệnh nhanh chóng truy kích địch. Chiều ngày 17-3, quân ta đã cắt đường số 7 hình thành thế bao vây quân địch từ phía sau. Cùng ngày pháo binh ta bắn vào thị xã Cheo Reo. 18 giờ ngày 18-3, quân ta chiếm thị xã Cheo Reo. Các ngày 21, 22, 23, quân ta tiếp tục truy kích đ ịch trên đ ường s ố 7. Ngày 24-3, quân ta tiến vào thị xã Củng Sơn, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ địch ở đây. Một mũi quân khác cùng với lực lượng địa phương giải phóng các tỉnh miền Trung (Quy Nhơn, Tuy Hòa, Nha Trang). Phối hợp với hướng chính, từ ngày 17-3 đến 22-3, ta giải phóng Kontum, Pleiku, An Khê, Gia Nghĩa, Kiến Đức. Tây Nguyên được hòan toàn giải phóng. Kết quả: địch bị tiêu diệt 4.500 tên, bị bắt 16.822 tên, ra hàng và được phóng thích tại chỗ 7.190 tên. Ta bắn rơi 44 máy bay, phá hủy 110 chiếc, thu và phá hỏng 17.188 súng pháo các 17
- loại, 1.096 xe các loại, 767 máy thông tin, thu toàn bộ kho tàng, thiết bị ch ỉ huy, c ơ s ở ch ữa cháy của ngụy ở Tây Nguyên. Giải phóng 5 tỉnh Tây Nguyên: Kontum, Gia Lai, Đắc Lắc, Phú Bồn, Quảng Đức. Hơn 60 vạn nhân dân các dân tộc giành quyền làm chủ. Hãng Ap phải đưa tin: "Thất bại đầu tiên ở Tây Nguyên làm cho sư đoàn 23 bị diệt chỉ còn 37 tên sống sót trong số 13.000 quân lính của sư đoàn này. Một liên đoàn biệt động quân gồm 1.600 người cũng chỉ còn lại 35 người sống sót". Chiến thắng ở Phước An đã khiến cho bọn địch còn lại ở Tây Nguyên hoảng hốt khiếp đảm, buộc chúng phải đi đến một quyết định bi đát là rút chạy khỏi toàn bộ các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Phú Bổn. Ý NGHĨA CHIẾN THẮNG TÂY NGUYÊN. 1.7. • Chia căt sự chiếm đóng của địch ở 3 vùng của đất nước. • Làm bàn đạp để ta giành thắng lợi trong chiến dịch huế đà nẵng. • Tiêu diệt hầu như toàn bộ quân đoàn 2 của địch. gần 13000 tên. • Chiếm được môt lượng lớn vũ khí và đạn dược. • Tạo diều kiện giải phóng tòan bộ đồng bằng ven biển. • Tạo niềm tin và khí thế và quyết tâm cho quân và dân ta . • Quân ta từ tiến công chiến lược Tây Nguyên phát triển thành tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam CHIẾN DỊCH HUẾ ĐÀ NẴNG . 2. NGUYÊN NHÂN ĐÁNH HUẾ ĐÀ NẴNG. 2.1. Huế Đà Nẵng là nơi tập trung quân đoàn 1, quân đoàn mạnh nhất của đ ịch ở Việt Nam, Đà Nẵng là thành phố lớn thứ 2 ở Việt Nam 18-3, trong lúc chiến dịch Tây Nguyên đang diễn ra và giành được thắng lợi t o lớn, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975, không chờ đến năm 1976 . Để thực hiện quyết tâm ấy, theo đề nghị của Quân uỷ Trung ương, hướng chiến lược chủ yếu là Sài Gòn. Trước mắt, Trị - Thiên - Đà Nẵng là hướng chiến lược quan trọng. Phương châm chiến dịch là Táo bạo, bất ngờ, kịp thời, chắc thắng. Phối hợp với Tây Nguyên, tại Mặt trận Trị - Thiên - Huế, quân ta cũng đẩy mạnh các hoạt động phối hợp. Từ ngày 5-3 đến 20-3, Quân khu V và Quân khu Trị - Thiên - Huế đã làm tan rã một bộ phận quan trọng lực lượng địch ở vùng giáp ranh và đồng bằng, giải phóng phần còn lại của tỉnh Quảng Trị (19-3) và các quận lị Tiên Phước, Phước Lâm, Sơn Trà, Trà Bồng thuộc Quảng Đà - Nam Quảng Ngãi, tạo thành thế uy hiếp Huế - Đà Nẵng. 2.2. DIỄN BIẾN Từ ngày 21 đến ngày 26-3, quân ta tiến công chia cắt Huế với Đà Nẵng, tiêu diệt Sư đoàn 18
- bộ binh số 1 , liên đoàn biệt động quân..., giải phóng thành phố Huế (25-3) và toàn bộ tỉnh Thừa Thiên (26-3). Cùng thời gian này, quân ta tiến vào giải phóng thị xã Tam Kì (24-3), Quảng Ngãi (25-3), Chu Lai (26-3), tạo thành thế uy hiếp Đà Nẵng từ phía Nam. Sau khi đánh chiếm thị xã Tam Kì và thành phố Huế, các cánh quân của ta từ Thừa Thiên và Quảng Nam nhanh chóng cơ động, thần tốc, táo bạo, đồng loạt tiến công, phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch. Đà Nẵng, thành phố lớn thứ hai ở miền Nam, nhưng lại là căn cứ quân sự liên hợp lớn nhất của Mĩ - ngụy, rơi vào thế cô lập. Hơn 10 vạn quân ngụy thất trận từ các nơi dồn về trong thành phố trở nên hỗn loạn, không còn khả năng chiến đấu. Sáng 29-3, từ các hướng, quân ta đồng loạt tiến công vào thành phố. Buổi chiều cùng ngày, quân ta đánh chiếm toàn bộ các mục tiêu quan trọng trong thành phố Đà Nẵng và bán đảo Sơn Trà. Kết hợp với đòn tiến công quân sự, lực lượng địa phương nổi dậy diệt ác phá thế kìm kẹp, giải phóng hoàn toàn Đà Nẵng vào lúc 17 giờ ngày 29-3-1975. Cùng thời gian với chiến dịch Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng, từ cuối tháng 3 dầu tháng 4-1975, quân và dân các tỉnh còn lại ở ven biển miền Trung, Nam Tây Nguyên và ở một số tỉnh thuộc Nam Bộ cũng nổi dậy giành quyền làm chủ. Từ ngày 14 đến 29-4, các đảo thuộc quần đảo Trường Sa (do quân ngụy Sài Gòn chốt giữ) lần lượt được giải phóng. Tiếp theo chiến thắng Tây Nguyên, chiến thắng Huế - Đà Nẵng đã góp phần làm thay đổi hẳn so sánh về thế và lực giữa ta và địch. Lực lượng giảm xuống còn một nửa (từ 4 quân đoàn chủ lực, chỉ còn lại 2 quân đoàn: III và IV). Ngược lại, lực lượng cách mạng miền Nam được giữ vững và bổ sung, được trang bị đầy đủ, hoàn toàn cơ động và có dự t rữ dồi dào. Ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng triệu tập một phiên họp lịch sử. Bộ Chính trị khẳng định: "Cuộc tiến công chiến lược của ta bắt đầu với chiến dịch Tây Nguyên. Thời cơ chiến lược mới đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam". Do đó, phải "Tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí, kĩ thuật và vật chất giải phóng miền Nam trước mùa mưa" 2. cùng ngày, Bộ Chính trị quyết định thành lập Hội đồng chi viện miền Nam ở Trung ương, do Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch và Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thanh Nghị làm Phó Chủ tịch. Ngày 31-3-1975, Bộ Chính trị họp, nêu rõ: "Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt mà thời cơ chiến lược để tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu, nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và thực hiện thống nhất Tổ quốc". 19
- Với cuộc họp ngày 31-3-1975 của Bộ Chính trị, số phận của ngụy quyền Sài Gòn đã được định đoạt. 2.3. Ý NGHĨA • Đánh tan quân đoàn 1 quân đoàn mạnh nhất của địch • Làm quân số của địch giảm đi một nửa từ 4 quân đoàn còn lại 2 quân đoàn 3 và 4 • Lực lượng ta được giử vững bổ sung và trang bị đầy đủ khí tài và vật chất. • Tạo nên tâm lí tuyệt vọng của quân ngụy, cuộc tổng tiến công nổi dậy của ta với s ức mạnh áp đảo. 3. CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài 2: Tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta trong sạch vững mạnh
62 p | 932 | 312
-
Chương VII. ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ VÀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
15 p | 732 | 224
-
Những giá trị bền vững và ý nghĩa thời đại của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
12 p | 341 | 149
-
Giáo trình Chính trị học dành cho lớp cao đẳng nghề
97 p | 544 | 72
-
Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạn tầng và kiến trúc thượng tầng khi xây dựng CNXH - 1
6 p | 193 | 40
-
Lý luận Mác-Lênin và thực tiễn Việt Nam - Phương thức sản xuất châu Á (Phần 2)
85 p | 141 | 38
-
Đảng cầm quyền - Tư tưởng Hồ Chí Minh: Phần 2
126 p | 164 | 35
-
Vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền - Tư tưởng Hồ Chí Minh: Phần 2
151 p | 178 | 35
-
Những vấn đề lý luận chung
17 p | 254 | 33
-
Bàn về thuyết Ba đại diện - Trung Quốc: Phần 2
127 p | 127 | 26
-
Về vấn đề đạo đức trong nghiên cứu khoa học
6 p | 391 | 20
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội và vận dụng ở Việt Nam hiện nay
9 p | 29 | 6
-
Giáo trình Tài liệu bồi dưỡng phương pháp dạy học
117 p | 46 | 4
-
Giáo dục ngoại ngữ ở bậc phổ thông trên thế giới: Tình hình hiện tại và những vấn đề
40 p | 59 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn