YOMEDIA
ADSENSE
Tính đối thoại trong một số truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh
24
lượt xem 3
download
lượt xem 3
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Bài viết "Tính đối thoại trong một số truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh" khẳng định những đổi mới trong cách nhìn nhận, cách đánh giá về con người từ đó khẳng định phong cách riêng của nhà văn khi viết truyện cho thiếu nhi. Mời các bạn cùng tham khảo!
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tính đối thoại trong một số truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh
- TÍNH ĐỐI THOẠI TRONG MỘT SỐ TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA VÕ DIỆU THANH Lê Thị Hòa1 Email: lehoasp0610@gmail.com TÓM TẮT Đối thoại trên tinh thần nhận thức lại là nguyên lý phổ quát trong văn học Việt Nam từ sau 1986. Truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh thể hiện rõ tính đối thoại qua việc nhận thức lại các vấn đề như: vai trò của người thầy, các phương pháp giáo dục trẻ em, quyền của trẻ em và các giá trị văn hóa của dân tộc. Sử dụng phương pháp khảo sát, phân tích, thống kê khi nghiên cứu truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh, chúng tôi hướng đến làm rõ tính đối thoại trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Đó là tiếng nói đối thoại về giáo dục, về quyền trẻ em và về các giá trị văn hóa. Từ đó, bài viết khẳng định những đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người của tác giả. Từ khóa: Tính đối thoại, truyện thiếu nhi, Võ Diệu Thanh. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Một tác phẩm văn học có giá trị là tác phẩm có tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tình cảm của độc giả. Tác phẩm muốn tồn tại lâu bền phải là những tác phẩm đặt ra những vấn đề khiến người đọc trăn trở, tạo ra khoảng trống để người đọc đồng sáng tạo. Những kiệt tác của nhân loại là những tác phẩm tạo ra được tính đối thoại nhiều chiều về những vấn đề lớn, những vấn đề có ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống. Từ sau 1986, với chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện các mặt của đời sống xã hội, văn học nghệ thuật được “cởi trói”. Sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực, về con người của các nhà văn thể hiện rõ trong cách nhìn nhận lại những vấn đề của đời sống trong tâm thế đối thoại. Những vấn đề của cuộc sống được các nhà văn khai thác trên nhiều bình diện với những góc nhìn khác nhau. Là một nhà văn tâm huyết với mảng văn học thiếu nhi, luôn trăn trở trước những vấn đề tiêu cực trong đời sống, trong những sáng tác viết cho thiếu nhi của mình, Võ Diệu Thanh thường đặt ra những câu hỏi liên quan đến những tồn tại trong giáo dục, những vấn đề liên quan đến trẻ em nhằm đối thoại với độc giả. Truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh thu hút độc giả khi đề cập đến nhiều vấn nạn của xã hội như: tình trạng bạo lực học đường, bạo lực gia đình, tình trạng trẻ em thất học, tình trạng trẻ em bị đuối nước,… Đọc truyện của chị, người đọc nhận thấy những trăn trở của nhà văn về quyền của trẻ em, về phương pháp giáo dục trẻ em. Làm sao để trẻ em vô tư, hồn nhiên đúng với lứa tuổi? Làm sao để chữa lành những tổn thương tâm lí cho trẻ? Làm cách nào để trẻ được lớn lên khỏe mạnh, vui vẻ và an toàn? … Tất cả những điều đó được nhà văn giãi bày trong những trang viết cho thiếu nhi. Sự đối thoại nhiều chiều giữa nhà văn – nhân vật – độc giả đã tạo nên giọng điệu đa thanh trong việc phản ánh hiện thực. Nghiên cứu tính đối thoại trong tác phẩm thông qua lời thoại của các nhân vật, qua lời kể chuyện của nhà văn, chúng 421
- tôi muốn khẳng định những đổi mới trong cách nhìn nhận, cách đánh giá về con người từ đó khẳng định phong cách riêng của nhà văn khi viết truyện cho thiếu nhi. 2. NỘI DUNG 2.1. Giới thiệu về tính đối thoại và truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh 2.1.1. Giới thiệu về tính đối thoại Đối thoại là khái niệm siêu ngôn ngữ khác với đối thoại bằng lời nói giữa các nhân vật với nhau trong tác phẩm văn học. Hiểu theo nghĩa triết học, đối thoại chỉ sự giao tiếp giữa hai chủ thể (cả với chính mình), hai ý thức mở. Các cấp độ của đối thoại là: đối thoại trong tư tưởng triết học – mỹ học, đối thoại trong tư duy văn hóa, đối thoại trong tư duy nghệ thuật. Tính đối thoại trong văn học được thể hiện ở tiểu thuyết đa thanh và lời văn hai giọng. Kiểu lời văn hai giọng bao gồm: lời nửa trực tiếp, lời văn phong cách, lời văn nhại. Một tác phẩm văn học có giá trị là tác phẩm có tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tình cảm của độc giả, tạo ra được tiếng nói đối thoại nhiều chiều. Qua đối thoại, tác phẩm hiện lên không chỉ là cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ một chiểu của một nhân vật mà được soi chiếu dưới nhiều góc độ khác nhau. Đối thoại thể hiện quan niệm của nhà văn, của nhân vật về những vấn đề có nhiều ý kiến trái chiều. Tính đối thoại trong tác phẩm văn học được thể hiện qua lời đối thoại giữa các nhân vật với nhau, qua lời kể, lời bình, lời nhận xét, đánh giá của tác giả. Tiếng nói đối thoại được thể hiện trong mối tương quan nhiều chiều giữa nhân vật với nhân vật, giữa nhân vật với độc giả, giữa nhà văn với độc giả. Văn học Việt Nam từ sau 1986 đã có nhiều thay đổi trong quan niệm nghệ thuật của các nhà văn. Nguyên lý đối thoại trở thành một một hiện tượng phổ quát với sự xuất hiện của hàng loạt các tác giả như Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Phan Thị Hoài … Với cảm thức nhận thức lại thực tại, nhìn lại quá khứ, các nhà văn dám nhìn thẳng vào sự thật, soi chiếu nhiều khía cạnh để nhận thức lại đời sống. Thông qua các tác phẩm của mình, nhà văn đặt ra những vấn đề trong cách nhìn về chiến tranh, về vai trò của người phụ nữ, quan niệm về văn chương nghệ thuật. 2.1.2. Truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh. Võ Diệu Thanh có 20 tác phẩm đã xuất bản. Trong đó riêng truyện viết cho thiếu nhi, chị có 10 tác phẩm. Truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh đa dạng phong phú về thể loại, bao gồm: truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết. Những tác phẩm tiêu biểu viết về nhân vật trẻ em trong sáng tác của Võ Diệu Thanh đó là: truyện tranh khổ lớn: Khu vườn trong mơ, Chú ong bé bỏng, Bí mật bên khóm hoa quỳnh, tập truyện ngắn Những cậu bé mặt trời, các truyện dài Siêu nhân cua, Chúng mình bay đầy trời, Tiền của thần cây, Quà tặng của ngày mai, Bảng đỏ cho xứ Bìm Bìm và tiểu thuyết Lần đầu thấy trăng. Nổi bật trong truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh là hình tượng nhân vật trẻ em với những nét vô tư hồn nhiên, với sự thông minh ham học hỏi, giàu tình yêu thương. Bên cạnh đó, thân phận những đứa trẻ bất hạnh, những đứa trẻ yểu mệnh, tật nguyền, những đứa trẻ là nạn nhân của bạo lực gia đình và bệnh thành tích trong giáo dục cũng gợi ra nhiều trăn trở đối với người đọc về phương pháp giáo dục phù hợp để trẻ em được là trẻ em với sự hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng vốn có. 422
- 2.2. Biểu hiện của tính đối thoại trong truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh. Tính đối thoại là một trong những nét nổi bật trong truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ làm rõ những biểu hiện của tính đối thoại trên cả hai phương diện nội dung phản ánh và hình thức biểu hiện. 2.2.1. Đối thoại trong truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh nhìn từ bình diện nội dung Trên bình diện nội dung phản ánh, chúng tôi sẽ làm rõ biểu hiện của tính đối thoại trong truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh theo các vấn đề đặt ra trong các tác phẩm đó là: đối thoại về giáo dục, đối thoại về quyền trẻ em, đối thoại về các giá trị văn hóa. 2.2.2. Đối thoại về giáo dục Nền giáo dục của Việt Nam trong những năm gần đây tồn tại nhiều vấn đề gây tranh cãi. Thông qua việc xây dựng hình tượng người thầy – những tấm gương bị bôi lem, thông qua hình tượng học sinh – những đứa trẻ bị dị tật về tâm hồn, nhà văn cất lên tiếng nói đối thoại về tình trạng đáng báo động của giáo dục nước nhà thông qua việc nhận thức lại vai trò của người thầy, nhận thức lại hiệu quả của phương pháp giáo dục. Người Việt có truyền thống tôn sư trọng đạo. Người thầy luôn được xã hội coi trọng, đề cao. Nhưng liệu người thầy có còn là kĩ sư tâm hồn, cô giáo có phải là mẹ hiền, nghề giáo có còn là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý? Trong các tác phẩm viết cho thiếu nhi của mình, Võ Diệu Thanh đã cất lên tiếng nói đối thoại về những vấn đề nhức nhối đó. Trước hết, tác giả đối thoại với người đọc về hình tượng người thầy. Tìm hiểu một số truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh như: Lần đầu thấy trăng, Những cậu bé mặt trời, Siêu nhân cua, chúng tôi nhận thấy hình tượng người thầy được nhà văn khắc họa thông qua nhiều nhân vật với những phương pháp giáo dục khác nhau. Đó là cô Tài Ba, cô Hoàng, cô Phưng, thầy Mãi, thầy Biên, thầy Minh, thầy Độ, thầy hiệu trưởng trong tiểu thuyết Lần đầu thấy trăng. Đó là cô Chi trong tập truyện Những cậu bé mặt trời. Đó là cô Thanh trong truyện dài Siêu nhân cua. Trong đó, cô Hoàng, cô Chi, cô Thanh, thầy Độ là những giáo viên hết lòng vì học sinh, có phương pháp giảng dạy sáng tạo, được học sinh và phụ huynh kính trọng, yêu quý, tin tưởng. Ngược lại, những thầy cô như: cô Tài Ba, cô Phưng, thầy Mãi, thầy Biên, thầy Minh là những thầy cô năng lực chuyên môn, nghiệp vụ còn hạn chế khiến học sinh xem thường thậm chí chán ghét. Những tiêu cực trong giáo dục được Võ Diệu Thanh phản ánh một cách chân thật không nè né tránh, không hề tô vẽ trong tiểu thuyết Lần đầu thấy trăng. Qua lời kể của các học sinh như Dẫu, Dị, Hậu, Đực và lời nhận xét của Già Hai, thầy Độ, những tiêu cực giáo dục được bóc trần. Nhớ lại những năm học ở trường tiểu học Dương Đôi, Dẫu thực sự ngán ngẩm khi phải học với những giáo viên năng lực chuyên môn hạn chế như Thầy Mãi, Thầy Biên, cô Tài Ba. Phương pháp giáo dục rập khuôn của thầy Mãi khiến học sinh không hứng thú học: “ước gì ba mươi lắm đứa tụi tôi là ba mươi lăm con Hà Vi hay là ba mươi lăm cái máy. Hoặc là ba mươi lăm cái khuôn” (Võ Diệu Thanh, 2013, tr.33). Cách dạy nhồi nhét của thầy Biên khiến học sinh ngán học, sợ học: “Mớ chữ cái đọc đi đọc lại mà tôi không tài nào nhớ được. Thầy cứ biểu đọc. Thầy không tin đọc trăm lần, ngàn lần tôi lại không nhớ. Nhưng thật sự tôi thấy ngán hơn là nhớ” (Võ Diệu Thanh, 2013, tr.73). Việc chạy theo thành tích của cô Tài Ba khiến học sinh coi thường việc học: “Cô có một tủ đầy những tranh ảnh, con 423
- vật để dành lúc diễn xuất. Khi diễn cô bày hết món này tới món khác lên bảng một cách nhuần nhuyễn. Nhưng khi không diễn nữa, cô xếp các thứ vào tủ một cách ngăn nắp” (Võ Diệu Thanh, 2013, tr.62). Qua lời của nhân vật Già Hai, tác giả lên án những giáo viên không có tài, không có tâm, không xứng đáng làm thầy: “Nguyên cái trường bên đó, chỉ có con nhỏ Hoàng còn dáng người, dáng thầy, Thằng Biên còn nửa người. Mớ còn lại thành giống gì hết rồi” (Võ Diệu Thanh, 2013, tr.61). Điều đáng buồn là những giáo viên không có tài, không có tâm như cô Tài Ba, như thầy Mãi lại rất nhiều. Chạy theo thành tích, cô Tài Ba dùng đủ chiêu trò, mánh khóe. Học sinh từ việc bị dụ, bị dọa, đến việc bị ép buộc phải hợp tác diễn cảnh lớp học tích cực, hăng hái cho các đoàn thanh tra dự giờ “Cô và những đứa đồng diễn được sắp đặt nói nhiều câu rất có hồn vía để vở diễn tự nhiên nhất […] Mới diễn cho ban giám hiệu coi xong thì tới diễn cho đám giáo viên cùng khối, cùng trường, khác trường coi …” (Võ Diệu Thanh, 2013, tr.60). Chạy theo thành tích, thầy Mãi gồng mình vừa dạy vừa hét, vừa la mắng thậm chí đánh đập học sinh “Thầy rống thật lớn, chửi rủa, gầm gừ, đập thước vào bảng, vào bàn học sinh” (Võ Diệu Thanh, 2013, tr.33). Thầy ép học sinh học bài như lùa vịt vào chuồng. Đám học sinh trong tay thầy như một bầy vịt nháo nhác “Thầy Mãi lùa cả đám chạy ào ào. Ai rớt lại thì rớt thầy cứ chạy miệng cứ hối cái đám bị rớt lại kêu nó đuổi theo” (Võ Diệu Thanh, 2013, tr.73). Chạy theo thành tích, thầy hiệu trưởng sẵn sàng nhắm mắt đẩy học sinh học yếu lên lớp vì lo thành tích của trường bị ảnh hưởng “chương trình phổ cập đúng độ tuổi của trường mình không đạt” (Võ Diệu Thanh, 2013, tr.102). Cách dạy nhồi nhét, rập khuôn, chạy theo thành tích gây ra hậu quả nghiêm trọng đó là khiến những đứa trẻ bị dị tật về tinh thần. Trong tiểu thuyết Lần đầu thấy trăng, những học trò như Dẫu – Dị - Hậu trong mắt các thầy cô trường Dương Đôi là Dẫu – Dị - Hợm. Chúng là những đứa trẻ bị dị tật về tinh thần. Những bài học nhàm chán, cứng nhắc, những lời dọa nạt, mắng chửi của thầy cô đã khiến một đứa trẻ từng khao khát được đi học như Dẫu lại thấy đi bán vé số sướng hơn đi học, đi bán vé số dễ kiếm tiền hơn là làm giáo viên. Dẫu lì lợm, phá phách, chống đối, “Đầu tôi chỉ đầy ý nghĩ nổi loạn, làm loạn, làm nổi. Thầy phạt tôi đứng thì tôi múa cho mấy đứa dưới lớp hết học chơi. Thầy phạt tôi úp mặt vô bảng thì tôi làm trò bằng cái mông của mình” (Võ Diệu Thanh, 2013, tr.82). Với tâm lí chống đối, Dẫu luôn tìm cách làm ngược lại ý thầy “Thầy biểu nhớ, tôi muốn quên. Thầy biểu hiền, tôi muốn dữ” (Võ Diệu Thanh, 2013, tr.86). Việc Dẫu bỏ học đi bụi đời, đi bán vé số, sa ngã đến mức trở thành một cô gái làng chơi là bởi không được giáo dục đến nơi đến chốn. Còn Dị được cha mẹ nuông chiều hết mực“đi học mà cái cặp mẹ nó cũng mang giùm”, “đồ chơi bằng cả một gia tài của mấy nhà khá giả. Đi học lúc nào trên tay nó cũng là đồ chơi”. Là con ông chủ nhà trọ Tình, Dị Được nuông chiều quá nên hư hỏng. Nó luôn nghĩ ra nhiều mánh khóe để vòi tiền của bố mẹ. Chỉ được nuôi phần xác, tâm hồn trống rỗng, Dị lớn nhanh “như ngọn rau mong manh được tưới ồ ạt chất độc, ngày càng tàn lụn” (Võ Diệu Thanh, 2013, tr.289). Nạn nhân của những phương pháp giáo dục sai lầm không chỉ có Dẫu, Dị mà còn có Đực, …. Khi thấy trường học ngột ngạt như nhà tù, nhốn nháo giả tạo như sàn diễn trong những tiết dự giờ, thanh tra, thi giáo viên giỏi, những đứa trẻ như Dẫu, Dị, Đực không thể tìm thấy niềm vui trong học tập. Nơi chúng tìm đến là quán game. Và cứ thế, cuộc đời của chúng trượt dài. Dị trở thành chủ của nhà trọ Tình. Dẫu trở thành gái làng chơi. Và Đực trở thành một tên ma cô chuyên chăn dắt gái làng chơi, làm bảo kê cho nhà trọ Tình. Khắc họa hình tượng những giáo viên thiếu tài, thiếu tâm với nghề như thầy Mãi, cô Tài Ba, thầy hiệu trưởng, nhà văn cất lên tiếng nói đối thoại về phương pháp giáo 424
- dục. Tác giả đặt ra những vấn đề nhức nhối: Tương lai của những đứa trẻ sẽ như thế nào khi học với những người thầy như vậy? Làm sao để có những học sinh giỏi khi thầy năng lực chuyên môn yếu kém và làm sao để những đứa trẻ trở thành người trung thực khi cô giáo mỗi ngày đều dạy học sinh học để đối phó, học chạy theo thành tích? Bên cạnh những giáo viên yếu kém, không có tâm với nghề vẫn còn nhiều giáo viên yêu nghề, yêu học sinh như cô Hoàng, thầy Độ, cô Thanh. Nhưng họ lại phải đối mặt với áp lực thành tích từ cấp trên, áp lực về chương trình giáo dục. Bị tước quyền làm thầy, cô Hoàng, thầy Độ chọn cách bỏ việc. Tình trạng thầy cô nghèo khổ khiến phụ huynh và học sinh không coi trọng nghề dạy học, không coi trọng việc học cũng được nhà văn đề cập đến thông qua hình tượng thầy Minh. Với đồng lương chết đói, thầy Minh không nuôi nổi bản thân, không phụng dưỡng được mẹ già - mẹ già yếu thầy cũng không có tiền để lo cho mẹ. Điều này khiến Dẫu và ba của Dẫu nghĩ rằng đi học chẳng mang lại lợi ích gì. Bỏ học đi bán vé số, Dẫu vui mừng vì thấy rằng “Tiền mỗi ngày tôi kiếm được không thua tiền lương của thầy Mãi, thầy Biên” (Võ Diệu Thanh, 2013, tr.106). Từ những vấn nạn đó, tác giả cất lên tiếng nói đối thoại về vị trí, vai trò của người thầy trong xã hội. Liệu nghề giáo có còn là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý khi thầy cô bị tước hết mọi quyền uy, khi thầy cô phải dạy theo kịch bản chương trình đã định sẵn, khi lương giáo viên không đủ sống? Đối thoại về giáo dục, nhà văn cũng đưa ra quan điểm về quá trình giáo dục và tự giáo dục. Hành trình của ba chị em Mỹ Duyên, Khánh Hưng, Út Tiền từ những đứa trẻ mê game, bướng bỉnh, trốn học, ăn cắp vặt, nói tục …) trở thành những đứa trẻ mê học đàn, lễ phép, thật thà, có khả năng tự lập là minh chứng thuyết phục cho những vấn đề mà nhà văn đặt ra. Những câu hỏi nhà văn đặt ra trong Quà tặng của ngày mai đặt ra vấn đề đối thoại về phương pháp giáo dục: Con người ta trưởng thành là nhờ giáo dục hay nhờ bộ gen? Sống được, sống tốt hay sống riêng biệt là đúng? Mỗi con người có quyền lựa chọn hay không? (Võ Diệu Thanh, 2021, tr.6). Tại sao “một ông Sáu không có bằng cấp gì hết cũng không từng nghiên cứu sách vở gì hết” lại có thể nuôi dạy thật tốt những đứa trẻ mồ côi. Đọc truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh, mỗi người sẽ tìm ra cho mình một câu trả lời phù hợp. Đối thoại về giáo dục, nhà văn bày tỏ những trăn trở xoay quan những vấn đề: môi trường giáo dục, phương pháp giáo dục, chất lượng giáo dục. Ba yếu tố này có mối quan hệ mật thiết với nhau và cùng tác động trực tiếp đến quá trình phát triển và hoàn thiện nhân cách của trẻ. 2.2.3. Đối thoại về quyền của trẻ em Trong truyện viết cho trẻ em của Võ Diệu Thanh, hình tượng nhân vật trẻ em là hình tượng trung tâm. Những nhân vật trẻ em hiện lên trong tác phẩm với những nét tính cách, phẩm chất, số phận khác nhau: nhân vật trẻ em hồn nhiên vô tư, nhân vật trẻ em bất hạnh, nhân vật trẻ em giàu lòng nhân hậu, nhân vật trẻ em thông minh, ham học, nhân vật trẻ em với những khả năng đặc biệt. Viết về trẻ em, nhà văn đặt ra những vấn đề mang tính đối thoại như: Trẻ em có phải người lớn thu nhỏ? Làm thế nào để trẻ em giữ được nét vô tư, hồn nhiên vốn có? Trẻ em là đối tượng cần được yêu thương, che chở, có quyền được vui chơi, được học hành. Nhưng nhiều đứa trẻ bất hạnh lại không có được những điều bình dị ấy. Những đứa trẻ bất hạnh trong truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh là: bé Châu, Lý, Nhã, Thằng Cua, Dẫu, Dị, Hậu. Mỗi đứa trẻ mang những nỗi bất hạnh riêng mà khi đọc tác phẩm người đọc không khỏi xót xa thương cảm: những chị em của Dẫu không được cho đi học, Bé Châu yểu 425
- mệnh, thằng Cua tật nguyền, cu Lý bị chấn thương tâm lý khi thường xuyên bị ba mẹ la mắng, đánh đập, Nhã thiếu thốn tình cảm của ba, luôn sống trong lo âu, sợ hãi; Dẫu, Dị, Hậu là nạn nhân của bệnh thành tích trong giáo dục. Trong tiểu thuyết Lần đầu thấy trăng, Võ Diệu Thanh đề cập đến tình trạng trẻ em không được ba mẹ cho đi học. Ham mê nhậu nhẹt, ba của Dẫu không quan tâm đến tương lai của các con. Ông có tới chín người con. Nhưng ông không cho bất kì đứa con nào của mình đi học. Duy nhất có Dẫu trốn ba để đi học nhưng rồi cũng bỏ học giữa chừng. Đáng trách hơn, ông còn bắt những đứa con của mình phải đi bán vé số kiếm tiền. Hậu quả là cả chín người con của ông đứa nào cũng mù chữ. Cô con gái lớn của ông lúc lấy chồng không biết cầm bút để kí tên “Chị Hai tôi lúc có chồng, chẳng cầm được cây viết đặng gạch thập lúc vay tiền phụ nữ nghèo” (Võ Diệu Thanh, 2013, tr.15). Bên cạnh đó, tác giả cũng đề cập đến tình trạng những đứa trẻ đi bán vé số. Người lớn mua vé số như một cách để giúp đỡ trẻ: “Người ta không ngại bỏ tiền mua vé số mấy đứa nhỏ”. Từ đó, nhà văn đặt ra câu hỏi “Như vậy là từ bi ?” (Võ Diệu Thanh, 2013, tr.91). Từ thực trạng đó, tác giả đặt ra vấn đề về tình thương, về tương lai của những đứa trẻ bán vé số. Tác giả cho rằng: tình thương cần được đặt đúng chỗ nếu không sẽ gián tiếp ủng hộ cho việc xấu. Những đứa trẻ cần được đến trường và thương trẻ cần phải giúp trẻ nhận ra lợi ích của việc học. Chính vì kiếm tiền dễ dàng từ việc bán vé số, Dẫu đã nghĩ rằng đi bán vé số sướng hơn đi học, bán vé số còn kiếm được nhiều tiền hơn thầy giáo đi dạy. Vì thế, cô sẵn sàng bỏ học. Và cũng từ đó, cuộc đời của Dẫu trượt dài, sa ngã. Trong truyện Thả diều, hình ảnh cu Lý hiện lên với những tổn thương về tâm lý khiến người đọc thương cảm. Trong lúc chơi đùa cùng em, vì mải nhìn theo con diều, cu Lý không biết rằng bé Châu – đứa em gái mà nó hết mực yêu thương bị rơi xuống sông và bị đuối nước. Đau đớn vì mất con, ba mẹ của cu Lý trút hết mọi giận hờn lên nó. Đòn roi và những lời mắng chửi thậm tệ của cha mẹ đã làm cu Lý tổn thương. Nó trở nên chai sạn với những lời rủa sả, mắng nhiếc thật nặng lời, những nhát roi thật đau của ba và tiếng khóc thê thiết của má: “Những vết roi chồng lên những vết roi. Những nhát roi bền bỉ làm cho nó chai đòn lì đòn” (Võ Diệu Thanh, 2017, tr. 32). Nó trở nên cô đơn trong chính ngôi nhà của mình. Với một đứa trẻ lên tám, nỗi đau đó thật quá sức chịu đựng. Một đứa trẻ thông minh, hoạt bát bỗng trở nên lầm lì. Một đứa trẻ tình cảm, ngoan ngoãn bỗng trở nên vô cảm, phá phách. Một đứa trẻ rất yêu thương em nhỏ bỗng trở nên căm giận tất cả những em nhỏ được ba mẹ cưng chiều. Nỗi đau vì mất đi đứa em gái mà mình yêu thương nhất không thể chữa lành “Mới hơn mười tuổi đầu mà gánh nỗi mặc cảm tày trời” (Võ Diệu Thanh, 2017, tr. 35). Không tìm được sự đồng cảm từ bố mẹ và mọi người, cu Lý giấu kín nỗi đau trong lòng. Qua lời của ba bé Mai, tác giả bộc lộ sự thấu hiểu, thương cảm đối với những tổn thương tâm lí của cu Lý: “Con không có lỗi, con còn chưa có khả năng coi chừng mình sao mà coi chừng em cho được” (Võ Diệu Thanh, 2017, tr. 35). Qua đó, tác giả cũng đặt ra vấn đề về trách nhiệm của các bậc phụ huynh đối với con cái. Sự chủ quan, coi thường rủi ro của người lớn đã gián tiếp khiến trẻ gặp nguy hiểm, bất hạnh. Tù đó, ta nhận ra rằng: trẻ em cần được yêu thương, cần được che chở, bảo vệ ở bất cứ đâu và trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Trong truyện Bí mật theo cô, hình ảnh bé Nhã luôn phải lo nghĩ khiến người đọc thương cảm. Mang trong lòng những chấn thương về tâm lý, Nhã dường như già trước tuổi. Sống trong một gia đình có ba suốt ngày nhậu nhẹt, thường xuyên đánh đập vợ con, Nhã luôn cảm thấy 426
- cô đơn. Với một đứa trẻ, việc chứng kiến cảnh ba đánh mẹ là một bất hạnh. Tâm hồn non nớt của cô bé Nhã đã trở nên chai sạn khi chuyện đó diễn ra thường xuyên. Để bảo vệ mẹ, nó dường như phải gồng mình lớn nhanh trước tuổi, già trước tuổi. Không thể tập trung học hành, Nhã luôn trong tình trạng phải lo nghĩ, canh chừng ba má: “Nó còn phải lắng nghe coi ba nó đã về chưa, má nó có cằn nhằn không để còn khuyên một câu: “Nhịn đi má”. Nó còn phải lắng nghe coi má có mở cửa nhà bỏ đi không. Nhất là mấy bữa má khóc nhiều, than thở nhiều” (Võ Diệu Thanh, 2017, tr. 40). Viết về những tổn thương tâm lý của cu Lý, Nhã, Võ Diệu Thanh khẳng định tuổi thơ bị đánh cắp đó là mất mát không gì có thể bù đắp được. Hãy để những đứa trẻ được sống trong vòng tay yêu thương. Hãy để những đứa trẻ được nói ra suy nghĩ của mình. Đừng để các em phải sống trong sự sợ hãi, cô đơn không dám chia sẻ với ba mẹ. Qua việc miêu tả những bất hạnh, thiệt thòi của các nhân vật trẻ em như: chị em Dẫu, bé Châu, cu Lý, Nhã, tác giả đối thoại về quyền của trẻ em và trách nhiệm của người lớn đối với trẻ em. Ba mẹ, thầy cô cần phải dạy cho trẻ nhũng kỹ năng sống cần thiết để tránh được những nguy hiểm cận kề. Hơn thế nữa, người lớn cũng cần phải biết gần gũi, quan tâm, lắng nghe trẻ. Hãy để trẻ em được là trẻ em theo đúng nghĩa - được học hành, được vui chơi, được bảo vệ, được hồn nhiên đúng tuổi. 2.2.4. Đối thoại về các giá trị văn hóa Đọc truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh, người đọc dễ dàng nhận ra những nét văn hóa đặc sắc của Nam Bộ thể hiện qua tính cách của con người, qua cảnh quan thiên nhiên, qua phong tục, ẩm thực, các loại hình nghệ thuật. Qua việc miêu tả những giá trị văn hóa truyền thống của quê hương, nhà văn muốn đối thoại với độc giả về việc làm thế nào để gìn giữ và phát huy để những giá trị đó không bị mai một. Với người Việt, không khí đầm ấm của mâm cơm gia đình có ý nghĩa rất quan trọng. Nhã trong truyện Bí mật theo cô ao ước một lần cả nhà quây quần bên mâm cơm. Với những đứa trẻ bình thường khác, ước muốn đó thật quá nhỏ nhoi. Nhưng với Nhã đó lại là một ước mơ xa vời. Chỉ cần một cuộc gọi từ bạn nhậu, ba sẵn sàng bỏ đi để Nhã, mẹ Nhã và đứa em hụt hẫng bên mâm cơm lạnh tanh. Là một cô bé học giỏi văn, là thành viên trong đội tuyển học sinh giỏi văn của trường nhưng Nhã lại không thể hoàn thành bài tập làm văn của cô giáo: em hãy kể về bữa cơm trong gia đình mình. Bởi cô bé chưa bao giờ được ăn một bữa cơm sum vầy đông đủ cả nhà. Cứ đến giờ ăn là ba nó dắt xe đi nhậu, bỏ mặc ba mẹ con nó vơi mâm cơm lạnh lẽo. Những cãi vã bên mâm cơm gia đình như một vết dao làm rỉ máu trái tim non nót của những đứa trẻ. Cuộc sống hiện đại hối hả, nhiều gia đình không còn giữ được thói quen ăn cơm cùng nhau. Không khí đầm ấm gia đình vì thế mà nhạt dần. Khát khao của cô bé Nhã trong truyện Bí mật theo cô cũng chính là mong muốn của nhà văn về việc níu giữ giá trị văn hóa truyền thống của người Việt đang dần bị mai một. Lời của Nhã ở phần kết của tác phẩm gợi ra những trăn trở trong lòng người đọc:“Con không tin ba lại không thèm những bữa ăn đầm ấm” (Võ Diệu Thanh, 2017, tr. 52). Đối thoại về các giá trị văn hóa, Võ Diệu Thanh đề cập đến những ý kiến khác nhau về loại hình nghệ thuật đặc trưng của Nam Bộ – đờn ca tài tử. “Người xưa nói xướng ca vô loại. Ngày nay, loại hình nghệ thuật cải lương, hát bội, đờn ca tài tử vẫn chưa có được vị trí xứng đáng. Là một người sinh ra và lớn lên ở vùng đất Nam Bộ, Võ Diệu Thanh nhận thấy mình cần có tiếng nói về loại hình nghệ thuật độc đáo này, để mọi người hiểu hơn về những giá trị đích 427
- thực của nó. Quà tặng của ngày mai là tác phẩm thể hiện rõ tính đối thoại khi đề cập đến những vấn đề liên quan đến văn hóa. Khánh Hưng không xuất thân trong một gia đình có truyền thống về âm nhạc. Cậu bé vốn dĩ không hiểu, không biết chơi đàn. Nhưng hàng ngày được nghe tiếng đàn, thấy mọi người chơi đàn, tình yêu đối với âm nhạc cứ thế lớn dần lên. Trong bối cảnh hiện nay khi mà thị trường âm nhạc ngày càng trở nên sôi động, nhạc hiện đại được nhiều người yêu thích, những thể loại nhạc truyền thống ít được chú ý đến. Vậy mà Khánh Hưng lại say mê. “Vậy mà có một cậu bé sáu tuổi đàn những bản vắn bằng tiếng đàn sến thật điệu nghệ”. Làm sao mà một cậu bé Tám tuổi có thể say mê, yêu thích và biết đánh đàn sến điêu luyện đến vậy? Qua lời tự kể của Khánh Hưng - nhân vật chính của tác phẩm, nhà văn đặt ra vấn đề về cách nhìn nhận, đánh giá lại những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Liệu trong tương lai đờn ca tài tử có bị thất truyền khi mà xã hội dường như đang dần lãng quên nó. Làm gì để thắp lên tình yêu của mọi người với loại hình nghệ thuật này khi những người theo học đờn ca tài tử ngày càng ít. Lời của ông Sáu nói với Khánh Hưng cũng là tiếng nói đối thoại mà nhà văn muốn gửi gắm: “Cuộc đời một con người chọn sống theo hướng tốt, chọn nghề phù hợp với cơ địa mình chớ không cần phải chọn nghề tốt. Nghề nào cũng không phải là vô loại. Chỉ cần bản thân mình không vô loại là được” (Võ Diệu Thanh, 2021, tr. 80). 2.3. Đối thoại trong truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh nhìn từ bình diện nghệ thuật Tìm hiểu tính đối thoại trong truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh từ bình diện nghệ thuật chúng tôi nhận thấy việc đa dạng ngôi kể, điểm nhìn, sử dụng hình thức đối thoại, độc thoại với giọng điều hoài nghi, triết lí đã góp phần lầm cho những vấn đề đối thoại mà tác giả đặt ra trong tác phẩm có sức thuyết phục hơn. 2.3.1. Ngôi kể, điểm nhìn Khảo sát các truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh, chúng tôi nhận thấy tác giả rất linh hoạt trong việc đa dạng hóa ngôi kể, điểm nhìn. Chính điều này đã góp phần tạo nên tính đối thoại cho tác phẩm. Trong những truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh, chúng tôi thấy ngôi kể truyện linh hoạt, có truyện kể theo ngôi kể thứ nhất, có truyện được kể theo ngôi thứ ba. Người kể chuyện có khi là nhân vật trẻ em, có khi là tác giả. Khảo sát sáu truyện ngắn trong tập Những cậu bé mặt trời, chúng tôi thấy ngôi kể thứ ba chiếm tỉ lệ rất cao (5/6 truyện ngắn), ngôi kể thứ nhất chiếm tỉ lệ thấp -chỉ riêng truyện ngắn Cáp treo cho những mặt trời người kể chuyện là nhân vật xưng “tôi” ngôi thứ nhất). Các truyện khác như: Quà tặng của ngày mai, Bảng đỏ cho xứ Bìm Bìm được kể theo ngôi thứ nhất. Các truyện kể theo ngôi thứ ba là: Tiền của thần cây, Siêu nhân cua. Riêng tiểu thuyết Lần đầu thấy trăng, ngôi kể, điểm nhìn có sự kết hợp cả ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba, giữa điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài. Truyện được kể theo lời kể đan xen của hai nhân vật “tôi” – Dẫu và “mình” – Hậu. Lời kể của Dẫu chiếm 28/37 chương. Cả chương 12 là lời kể của Hậu. Ở chín chương còn lại của tác phẩm, lời kể chuyện có sự đan xen, đảo ngôi liên tục giữa Hậu và Dẫu. Việc luân phiên ngôi kể tôi – mình, đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật bên trong – bên ngoài, đã tạo nên tính chân thật của tác phẩm và sự khách quan trong việc phản ánh hiện thực của tác giả. Các vấn đề mà tác giả đặt ra trong tác phẩm như: vai trò và vị trí của người thầy trong xã hội hiện nay, các phương pháp giáo dục, quyền của trẻ em được soi chiếu dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Tính đối thoại trong tác phẩm vì thế trở nên sâu sắc, toàn diện hơn. 428
- 2.3.2. Ngôn ngữ trần thuật Nét đặc săc trong truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh là ngôn ngữ trần thuật. Để làm rõ tính chất đối thoại về các vấn đề giáo dục, quyền trẻ em, tác giả sử dụng rất nhiều câu hỏi, những lời đối thoại, độc thoại nội tâm. Trong truyện Quà tặng của ngày mai, Võ Diệu Thanh đặt ra rất nhiều câu hỏi. Những vấn đề mà tác giả đặt ra trong tác phẩm như: trẻ con làm sao để học đàn sến? Song loan có thực sự bất trị ? Có phải sướng ca vô loại? “Nếu một ai đó ép trẻ em học đàn ca tài tử, người đó bị chê là cổ hủ. Đàn ca tài tử làm gì? Nó có hái ra tiền không? Nó có trở thành ngôi sao không? (Võ Diệu Thanh, 2021, tr.62). Không chỉ sử dụng câu hỏi trong văn bản, nhà văn còn sử dụng câu hỏi trong việc đặt tên các phần của truyện như. Truyện Quà tặng của ngày mai có 30 mục thì có tới 6 mục tác giả sử dụng hình thức câu hỏi để đặt tên mục: Tôi ở lại cuộc đời này bao lâu? Mẹ tôi giao tôi như thế nào? Mẹ tôi giao chị Hai như thế nào? Tôi có thương mẹ không? Vì sao má không nuôi nổi chúng tôi? Ông Sáu có lo lắng gì không? Từ việc đặt ra những câu hỏi như vậy, nhà văn gợi mở câu trả lời cho người đọc thông qua lời kể của chính nhân vật. Bên cạnh việc sử dụng kiểu câu hỏi, nhiều kiểu câu khẳng định được tác giả sử dụng nhằm bộc lộ quan điểm, thái độ của mình về các vấn đề giáo dục, quyền trẻ em và văn hóa. Trong truyện Quà tặng của ngày mai, có nhiều mục được tác giả đặt tên theo kiểu câu khẳng định như: Làm việc tốt chớ không làm từ thiện, Song loan không bất trị, Không phải xướng ca vô loại, Mỗi con người là một thế giới. Trong tác phẩm, nhiều đoạn tác giả bộc lộ quan điểm thông qua lời của kể của nhân vật Khánh Hưng “Ngay cả những ngôi sao cải lương đoạt giải cao ở thành phố vẫn đi hát nhạc đi tấu hài để kiếm tiền. Không có một tương lai cho đứa trẻ đàn ca tài tử”, “Người ta cảm thấy đàn ca tài tử chỉ hư hỏng, chỉ để chơi như đúng cái chất tài tử” (Võ Diệu Thanh, 2021, tr.62). Đặc biệt, tính đối thoại thể hiện rõ qua ngôn ngữ đối thoại và độc thoại. Những đoạn đối thoại gay gắt thể hiện quan niệm khác nhau về cách nhìn người, cách nhìn đời như cách đối đáp giữ Già Hai và Thầy Độ trong tiểu thuyết Lần đầu thấy trăng. Và cũng có những lời độc thoại nội tâm đầy chua chát khi nhận ra mình đã đi quá xa để có thể trở về. Lời của Dẫu trong Lần đầu thấy trăng thể hiện rõ điều đó: “Tôi bắt đầu khóc khi nghĩ tới Nhiều. Phải chi … Hồi trước tôi nào biết, cỡ tôi cũng có người thương. Nhưng tôi không biết làm sao lấy lại cái thứ đã bán cho ông già. Làm sao để xóa sạch những ngày kiếm tiền dễ dàng”. (Võ Diệu Thanh, 2015, tr. 200). Lời tự vấn của Dẫu nghe thật xót xa. “Làm sao để xóa sạch những ngày kiếm tiền dễ dàng”. Câu nói đó cho thấy sự tự nhận thức của Dẫu sau những ngày tháng trượt dài lún sâu khi trở thành lái làng chơi. Qua lời độc thoại nội tâm của nhân vật, tác giả đối thoại với người đọc và phẩm giá của con người. Đó là thứ thiêng liêng cao quý con người cần phải gìn giữ như giữ gìn mạng sống của mình. Bởi khi đã mất thì không thể lấy lại được nữa. 2.3.3. Giọng điệu trần thuật Đối thoại về những tiêu cực trong giáo dục, về những giá trị văn hóa truyền thống đang dần mai một, nhà văn sử dụng giọng điệu suy tư, triết lí. Đó là những triết lí bình dị về cuộc đời về con người. Đó có thể là lời của cô bé cậu bé tiểu học, có khi là lời của người lớn tuổi từng trải. Quà tặng của ngày mai là tác phẩm thể hiện rõ tính đối thoại với giọng điệu suy tư triết lí. 429
- Triết lí “thay máu” mà Khánh Hưng đề cập đến trong tác phẩm đó là “tắm âm nhạc” đắm mình trong âm nhạc. Những giai điệu du dương của âm nhạc sẽ len lỏi vào trái tim và cả khối óc. Tình yêu âm nhạc vì thế lớn dần lên mỗi ngày. Nếu muốn trở thành nhạc sĩ, ca sĩ thì hãy “thay máu” cho mình bằng cách mỗi ngày thả hồn mình vào âm nhạc. Nhà văn gián tiếp khẳng định nếu bạn muốn giỏi về lĩnh vực nào đó thì hãy đắm mình trong môi trường đó để tài năng và niềm đam mê trong bạn có đất để nảy mầm và phát triển. Mỗi người khi đọc được triết lí của cậu bé Khánh Hưng sẽ tự rút ra cho mình những kinh nghiệm, những bài học để vận dụng phù hợp với bản thân mình một cách hiệu quả nhất. Những lời dạy của ông Sáu dạy đối với Khánh Hưng nhẹ nhàng mà thật sâu sắc: “Con thấy không, từ một khúc gỗ đã bỏ đi để dành chụm bánh tét, nếu mình chịu cực đục đẽo mài giũa, nó lại trở thành một nhạc cụ đẹp và tốt, ai cũng thích. Làm con người cũng vậy” (Võ Diệu Thanh, 2021, tr.72). Lời ông Sáu dạy, Khánh Hưng ghi nhớ rất rõ. Từng câu nói đều chứa đựng những triết lí sâu sắc về cuộc sống: “Cuộc đời một con người chọn sống theo hướng tốt, chọn nghề phù hợp với cơ địa mình chớ không cần phải chọn nghề tốt. Nghề nào cũng không phải là vô loại. Chỉ cần bản thân mình không vô loại là được”. (Võ Diệu Thanh, 2021, tr.72). Qua lời kể của Khánh Hưng, ta thấy được dù còn nhỏ cậu bé đã ý thức được hướng chọn nghề trong tương lai của mình. Đây là kĩ năng sống cần thiết không phải học sinh nào cũng có được. Lời độc thoại nội tâm của nhân vật Khánh Hưng trong truyện Quà tặng của ngày mai thể hiện rõ tính đối thoại về giáo dục: “Con người ta không phải là cái cây. Nếu là cây, thì chỉ cần người làm vườn giỏi, tất cả những cái cây đủ ánh sáng giống nhau, đủ phân phướng giống nhau, đủ nước giống nhau sẽ cùng cho ra những mùa màng giống nhau” (Võ Diệu Thanh, 2021, tr.72). Câu nói trên khẳng định: mỗi con người là một cá thể riêng biệt. Mỗi đứa trẻ có những khả năng, sở trường khác nhau, có cách tư duy khác nhau vì thế không thể áp dụng một phương pháp lên mọi đứa trẻ. Phương pháp dẫu hay, dẫu tốt như thế nào nhưng nếu không phù hợp thì cũng sẽ không mang lại kết quả. “Cùng một cha mẹ, cùng một bàn tay chăm sóc dạy dỗ thì rồi cuối cùng chị Hai tôi vẫn là chị Hai tôi, nhát nhít và thích ăn bánh, tôi vẫn là tôi hay hỏi, dễ nhớ và dễ lơ đãng, và Út Tiền vẫn là Út Tiền “miệng lưỡi” và rất tình cảm” (Võ Diệu Thanh, 2021, tr.87). Trong Lần đầu thấy trăng, Hậu nhận ra rằng: “Sống là phải trải qua buồn vui thương giận mới thỏa kiếp người” (Võ Diệu Thanh, 2021, tr.72). Hiểu ra điều đó, cô bình thản đón nhận tất cả. Trong truyện Khi hai vua về một nhà (in trong tập Những cậu bé mặt trời), nhà văn đề cập đến hiện tượng trẻ em chán học, bỏ học chơi game và đặt ra những vấn đề về phương pháp giáo dục đối với trẻ em. Lời của cô Mai khiến người đọc nhận ra cách yêu thương một đứa trẻ đúng cách. Không phải bất cứ cái gì người lớn thấy tốt, thấy quý mang cho trẻ cũng khiến trẻ cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc. Những cuốn tập tặng cho Ngàn – một đứa trẻ mồ côi, ham học sẽ trở thành món quà quý giá nhưng tặng cho Hà – một đứa trẻ coi việc học là cực hình thì chỉ là đồ bỏ đi “Không phải ai cũng thấy sướng khi nhận chục vở đâu nhóc” (Võ Diệu Thanh, 2017, tr.11). Qua ngôn ngữ trần thuật linh hoạt, giọng điệu suy tư, triết lí, cùng với việc đa dạng ngôi kể, điểm nhìn, tác giả đã gửi gắm những trăn trở của mình về việc nhận thức lại các phương pháp giáo dục, nhận thức lại về quyền của trẻ em, về các giá trị văn hóa truyền thống đang dần bị mai một. 430
- 3. KẾT LUẬN Với mong muốn nhận thức lại thực tại, nhận thức lại những vấn đề có ý nghĩa đối với xã hội ngày nay như: giáo dục, trẻ em, văn hóa, Võ Diệu Thanh đã đi sâu phản ánh những góc tối của giáo dục, những thân phận trẻ em bất hạnh để rồi đặt ra những câu hỏi. Tiếng nói đối thoại của nhà văn được thể hiện trên cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Các vấn đề mà nhà văn đối thoại được thể hiện qua việc đa dạng ngôi kể, điểm nhìn, linh hoạt ngôn ngữ trần thuật cùng giọng điệu triết lí suy tư. Tiếng nói đối thoại giúp người đọc được đồng sáng tạo cùng nhà văn. Chính điều này đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn cho các tác phẩm viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh. Đề cập đến những góc khuất của giáo dục, quyền trẻ em, và loại hình nghệ thuật truyền thống của dân tộc – đờn ca tài tử đang có nguy cơ bị mai một, Võ Diệu Thanh đã cho thấy những đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người của mình. Điều đó cho thấy đóng góp quan trong của nhà văn trong việc cách tân truyện viết cho thiếu nhi. Đến với truyện viết cho thiếu nhi của Võ Diệu Thanh, độc giả sẽ tự rút ra được những bài học quý giá cho riêng mình, đặc biệt là bài học về việc giáo dục và tự giáo dục. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trịnh Bá Đĩnh (2017). Nguyên lí đối thoại của M.Bakhtin trong hệ hình lí luận đương đại. khai thác từ: báo Văn nghệ quân đội online http://vannghequandoi.com.vn/binh-luan-van-nghe/nguyen-li- doi-thoai-cua-m-bakhtin-trong-he-hinh-li-luan-duong-dai-11142_4405.html 2. Lê Thị Thúy Hằng (2016). Nguyên lý đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010. luận án tiến sĩ. Trường Đại học Huế, Đại học khoa học. 3. Võ Diệu Thanh (2014). Lần đầu thấy trăng. Hà Nội: Nhà xuất bản Phụ nữ. 4. Võ Diệu Thanh (2015). Siêu nhân cua. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Kim Đồng. 5. Võ Diệu Thanh (2016). Chúng mình bay đầy trời. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Kim Đồng. 6. Võ Diệu Thanh (2016). Tiền của thần cây. Hà Nội: Nhà xuất bản Phụ nữ. 7. Võ Diệu Thanh (2017). Những cậu bé mặt trời. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Kim Đồng. 8. Võ Diệu Thanh (2021). Quà tặng của ngày mai. Quảng Nam: Nhà xuất bản Đà Nẵng. 431
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn