intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiếp nhận Gogol ở Việt Nam qua bản dịch "Những linh hồn chết"

Chia sẻ: Trần Lê Kim Yến | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

91
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Dịch theo quan niệm nêu trên, ngoài việc sử dụng điêu luyện ngôn ngữ gốc và ngôn ngữ đích, còn đòi hỏi sự hiểu biết về nền văn hoá dân tộc sản sinh ra tác phẩm và bằng cách này hay cách khác luôn được thể hiện trong sáng tác của nhà văn, và một điều thiết yếu nữa là phải nắm được đặc trưng thi pháp của tác giả và tác phẩm chọn dịch.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiếp nhận Gogol ở Việt Nam qua bản dịch "Những linh hồn chết"

  1. Tiếp nhận Gogol ở Việt Nam qua bản dịch "Những linh hồn chết"
  2. Dịch theo quan niệm nêu trên, ngoài việc sử dụng điêu luyện ngôn ngữ gốc và ngôn ngữ đích, còn đòi hỏi sự hiểu biết về nền văn hoá dân tộc sản sinh ra tác phẩm và bằng cách này hay cách khác luôn được thể hiện trong sáng tác của nhà văn, và một điều thiết yếu nữa là phải nắm được đặc trưng thi pháp của tác giả và tác phẩm chọn dịch. Thiếu một trong những điều kiện trên sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng bản dịch, tức ảnh hưởng tới sự tiếp nhận tác phẩm, tác giả. Dưới đây chúng tôi muốn làm sáng tỏ điều này dựa trên sự phân tích cụ thể một một số điểm trong bản dịch Những linh hồn chết. * Trước hết, chúng tôi muốn đề cập tới một lĩnh vực rộng lớn trong thiên trường ca này. Đó là lĩnh vực văn hoá, phong tục tập quán mà Gogol dầy công nghiên cứu, sưu tầm trong sách vở, trong những chuyến du hành của ông khắp nước Nga và mô tả tài tình trong tác phẩm của mình(10). Chỉ cần nói về “văn hoá ẩm thực” của người Nga trong Những linh hồn chết cũng đủ thấy rõ điều này. Trong tập 1, có hai buổi dạ tiệc lớn ở nhà quan tỉnh trưởng với bao nhiêu chi tiết bên trong: ăn uống, nhảy múa, chơi bài... và rất nhiều những bữa ăn phong phú, đa dạng khác được mô tả một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng. Trong cuộc phưu lưu mua bán những linh hồn chết, tới bất cứ nơi nào, ngoại trừ điền trang của Pluskin - kẻ keo kiệt đã trở thành thành ngữ, Tsitsikov cũng được khoản đãi. Trong tác phẩm, tính hiếu khách, hào phóng “đốt nến cả hai đầu”, kiểu “ăn to nói lớn”, “ăn thùng uống vại” của người Nga, qua ngòi bút đầy chất tạo hình của Gogol, đã trở thành một đặc tính dân tộc. Chính vì vậy, khi bước vào khu vực lắm rắc rối này, nếu không tra cứu kĩ, người dịch rất dễ bỏ chi tiết, dịch sai câu chữ, dẫn tới sự “xa nguyên tác” và sự vô lí của câu văn. Xin chỉ đưa ra đây một ví dụ nhỏ. Bữa tối đầu tiên của Tsitsikov ở khách sạn tỉnh lị N.N gồm toàn món thông thường. Song nếu dịch ngược thực đơn với “món súp bắp cải kèm theo một miếng patê xếp thành lá dành cho khách lữ hành đã để từ mấy tuần”, thì người Nga sẽ không công nhận đây là món ăn của họ, họ không ăn súp bắp cải với patê. Trong nguyên tác, món súp này được ăn với bánh mì, và chỉ có bánh mới để được vài tuần. Sự sai sót này xuất phát từ bản dịch tiếng Pháp, trong đó, không hiểu do lỗi người dịch hay lỗi của nhà xuất bản (nhà Gallimant nổi tiếng!?), thay vì pâte (patê - danh từ giống cái chỉ chiếc bánh) đã nhầm thành pâté (patê – danh từ giống đực). Những món ăn Nga trong tác phẩm bị dịch sai khá nhiều. Không chỉ vậy, ngay cách ăn uống của các nhân vật đôi khi cũng không được chú ý. Chẳng hạn, dịch Tsitsikov
  3. “ăn một mẩu thịt bò non nguội” (trong nguyên bản là “một xuất thịt bê nguội”) là không đúng với thói phàm ăn của y. Ăn “mẩu” thịt bê chỉ có thể là lão già keo kiệt “vá chằng vá đụp” Pluskin, chứ không thể là Tsitsikov, càng không thể là “con gấu” Sobakaevich hay “con gà” Petux (Tsitsikov có thể chỉ ăn một xuất, chứ hai gã này phải đánh cả đùi, thậm chí nửa con bê...). Tính thân xác, nhục thể là một trong những điểm nhấn quan trọng trong chân dung những nhân vật của Gogol. Gien ăn uống vô tư khoẻ mạnh của tổ tiên, ở các nhân vật của Gogol đã phát triển thành “tâm hồn ăn uống” thuần tuý. Mô tả cái “tâm hồn” này đầy đủ và kĩ lưỡng bao nhiêu, Gogol càng cho ta thấy cái thế giới tinh thần của các nhân vật của ông trống rỗng khủng khiếp bấy nhiêu. Nếu không hiểu khía cạnh thi pháp này, người dịch rất dễ vi phạm ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Sự vi phạm tương tự cũng sẽ xẩy ra khi dịch các tục danh của người, vật, cũng như các thành ngữ tràn ngập trong tác phẩm. Nếu trong cái thế giới mà thân xác, vật chất lấn át tinh thần, khiến những kẻ sống chỉ còn là “những linh hồn chết”, thì ngược lại, tên đặt, tục danh người, vật, vốn là một phần của ngôn ngữ dân gian ngập tràn sự sống, thứ ngôn ngữ theo Gogol, chảy từ “những chốn sâu thẳm của nước Nga mà ra... nơi ngự trị của trí tuệ Nga linh hoạt, táo bạo, tươi như mới ra đời; cái trí tuệ không có sẵn lời nói trong túi, không ấp ủ từng tiếng nói như gà mái ấp con; mà đem gán cho anh một chữ, chỉ một lần thôi, nhưng mà anh sẽ phải mang như một tấm hộ chiếu suốt cả đời; không cần phải thêm vào hình dạng của mũi hay của môi anh; vì chỉ một nét là đã vẽ xong chân dung anh toàn vẹn từ đầu đến chân rồi!”. Thứ ngôn ngữ này được sử dụng điêu luyện và sáng tạo trong tác phẩm, chỉ bằng vài từ nó khắc hoạ sinh động, hồn nhiên, hóm hỉnh hình ảnh những nông phu đã chết. Chính vì thế, việc không dịch chính xác nghĩa các tục danh sẽ dẫn tới những cái tên nghe ngô nghê, vô lí và hiệu quả nghệ thuật hiển nhiên sẽ bị giảm bớt. Tuy nhiên, dịch những tục danh rất khó, có những lắp ghép từ quá lạ khiến các dịch giả bó tay và đành dịch theo kiểu “từ ốp từ”. Chẳng hạn, tục danh của một nông phu nghe rất lạ tai “Gạch cho bò cái” (bản tiếng Pháp - “Brique-à-vache”). Trong nguyên bản, từ này là “Korovyi kirpist”. Khi tra đại từ điển tiếng Nga của Dal, chúng tôi mới vỡ lẽ, ở nước Nga thủa ấy, nhiều nơi lấy phân bò đánh nhuyễn, đóng thành bánh như những viên gạch, không phải để xây, mà phơi khô dùng để đốt.“Korovyi kirpist” là tục danh của một nông phu chuyên làm việc này. Do đó, thay vì “gạch cho bò cái” (không hiểu tại sao lại là“bò cái”?), cần phải là “gạch phân bò”, thậm chí “than phân bò” (như kiểu than tổ ong của ta) và có chú thích ở dưới.
  4. Một bộ phận quan trọng khác của ngôn ngữ dân gian được sử dụng nhiều và tài tình trong Những linh hồn chết, đó là những thành ngữ. Dùng thành ngữ của ngôn ngữ đích để dịch thành ngữ trong nguyên tác là rất khó, vì ít khi thành ngữ ở các thứ tiếng khác nhau lại trùng hợp hoàn toàn. Do vậy thành ngữ thường được dịch nghĩa kèm theo chú thích. Trong bản dịch của Hoàng Thiếu Sơn, phần lớn các thành ngữ được dịch nghĩa khá chuẩn, song ở những chỗ ông cố công chuyển thành ngữ Nga sang thành ngữ Việt Nam, thì sự thiếu chính xác của nghĩa đã dẫn tới sự vô nghĩa của câu. Chẳng hạn đoạn sau đây: “Kết thúc ngày hôm ấy, hình như khách ăn một mẩu thịt bò non nguội, điểm một chai kvax sủi bọt rồi đi ngủ, “cửa đóng then cài cẩn thận” như người ta thường nói ở một số miền trong đế quốc Nga rộng lớn”. Dịch giả Pháp hiểu thành ngữ “vo vsiu nasosnuiu zavertku” (“cái bơm chạy hết tốc lực”), có nghĩa ngủ ngáy rất to, đã dùng một thành ngữ khác để chuyển nghĩa: “ngáy như sấm”. Song thành ngữ “cái bơm chạy hết tốc lực” chỉ tiếng ngáy to, nhưng dồn dập, vậy nên dịch một cách chính xác phải là “ngáy như kéo bễ”. Thành ngữ “cửa đóng then cài” trong bản dịch tiếng Việt hoàn toàn không liên quan đến kiểu ngáy của Tsitsikov trong nguyên tác. Tính thân xác của nhân vật, vì vậy, cũng trở nên mờ nhạt (Gogol hay mô tả cách đi đứng, ăn ngủ và những kiểu ngáy của các nhân vật). Khi viết về đặc thù thi pháp Gogol, Belyu nhận xét: “Chủ đề của Gogol có một đặc điểm nổi bật: nó không thu gọn mình trong những đường biên thường được đo đạc cho nó; nó phình ra bên ngoài; nó hà tiện, giản đơn, thô sơ trong cốt truyện, bởi vì được vẽ kẻ tận tường, được đẽo sâu trong các chi tiết tạo hình, trong các sắc màu, bố cục, nước đi âm vi, tiết điệu của sự tạo hình ấy. Trong nội dung, như nó thông thường được hiểu, không nhiều “nội dung” lắm; nơi mà người ta chỉ thấy những chi tiết trình bầy, những sắc thái được tô đậm - ở đấy chủ đề của Gogol biểu hiện sức mạnh đặc biệt của nó; bố cục, màu sắc, từ ngữ tựa hồ như chìa khoá mở ra trong nội dung giả cái nội dung thật...”(11). Chi tiết và thủ pháp mô tả chi tiết, móc nối chi tiết quan trọng như thế, nên chỉ cần bỏ một chi tiết, hoặc dịch sai, là câu văn sẽ sộc sệch, nhiều khi phi lí, làm mất đi tiếng cười vốn ẩn sâu trong từng chi tiết, thậm chí là những chi tiết nhỏ nhất. Chẳng hạn, ở đoạn Tsitsikov nhận được bức thư tỏ tình của một quý bà giấu tên, hắn hăm hở tới buổi dạ tiệc ở nhà tỉnh trưởng với hi vọng sẽ tìm ra được người đó. Khi đám đông các bà đổ sô ra đón hắn (lúc này hắn đã là đối tượng săn đón của phái nữ, vì sau khi mua hàng vạn nông phu (trên thực tế là những người đã chết), họ tưởng hắn là một mỏ vàng), Tsitsikov, hoa mắt trước một làn sóng “mặt hoa da phấn”, lẩm bẩm: “Uí chà, có đến cả tỉnh viết cái thư này chắc!”. Tuy nhiên, trong cả
  5. hai bản Pháp văn và Việt văn đều dịch là: “Này, này, làm gì mà cả tỉnh xôn xao lên thế!” và câu này hoàn toàn không ăn nhập gì với tình tiết trước đó, cũng như chi tiết tiếp theo: “Khi các bà đã trở lại chỗ cũ, y lại nhìn chòng chọc vào họ, với hi vọng dối trá là đoán ra được người biên thư cho y qua vẻ nhìn hay nét mặt của họ”. Trong văn bản Gogol có những chi tiết tưởng là vô tình, chỉ để gây cười, song đến những chương sau nó lại được lặp lại, lần này nhằm vào mục đích khác, khắc hoạ một nét mới nào đó trong tâm trạng hoặc tính cách của nhân vật. Thí dụ, trong chương 1, ở bữa tiệc đầu tiên tại nhà tỉnh trưởng, Tsitsikov ngắm nhìn các quý ông và phân họ thành hai loại: loại gầy thì chuyên tán gái, còn hạng béo hay không béo, không gầy như hắn thì chỉ thích chơi bài và bàn chuyện làm ăn. Cho tới tận gần cuối phần 1 (chương VIII), chi tiết “phân loại” này mới được lặp lại, và được lặp lại cũng trong văn cảnh dạ tiệc nhà tỉnh trưởng, song được tác giả sử dụng với một dụng ý khác. Sau khi lượn giữa đám khách nhảy để tìm tác giả bức thư tỏ tình mùi mẫn không được, hắn tìm đến tán tỉnh bà tỉnh trưởng và cô con gái. Ở đoạn này Hoàng Thiếu Sơn, dựa trên bản tiếng Pháp, đã dịch như sau: “Ta cũng không thể khẳng định rằng nhân vật của chúng ta đâm ra si tình; vả lại cũng đáng ngờ là những hạng người như thế lại có thể biết yêu. Nhưng mà y có một cảm giác lạ lùng. Về sau y thú thật là trong mấy phút, y tưởng như cả vũ hội, cùng sự huyên náo và vẻ nhộn nhịp của nó, mờ dần trong cõi xa xăm...”. Một đoạn dịch cực thoát ý, và hay, nhưng nếu dịch sát nguyên bản thì câu này sẽ là: “Có lẽ không nên nói rằng, trong nhân vật chúng ta cái tình cảm yêu đương đã thức dậy, - vả lại cũng đáng ngờ rằng hạng quý ông như thế, tức là hạng không béo, cũng không gầy, lại có được khả năng yêu đương...”. Bỏ đi mệnh đề đóng vai trò bổ ngữ “không béo, cũng không gầy” mà chúng tôi nhấn mạnh phía trên, sắc thái hài hước của đoạn văn bị nhạt đi, và nhạt luôn cả sự cố gắng (nhưng không thành) của tác giả muốn Tsitsikov “tái sinh” bằng tình yêu chân thực. Nội dung chủ đề bị ảnh hưởng không chỉ bởi sự bỏ sót hoặc dịch sai chi tiết, mà đôi khi là bỏ sót hoặc dịch sai chỉ một từ, nhưng là từ “đinh” của câu, hoặc của đoạn. Chẳng hạn, trong nội dung “phúc đáp” đơn xin mua những nông phu chết của Tsitsikov do viên quản lí “thiên tài” của tay điền chủ Koskariov sính phương Tây thảo ra, chỉ cần dịch sai một từ, câu văn bị “là phẳng”. Chúng tôi trích ra đây nội dung bản phúc đáp toàn những lời cầu kì rởm rít rất hề này: “Một là đơn thỉnh cầu của quan tư vấn bộ Paven Ivanovich Tsitsikov có một điều làm người ta hiểu lầm, vì do một sự sơ xuất, những nông phu đăng kí sổ đinh trong đơn lại gọi là linh hồn chết. Có lẽ ý quan tư vấn muốn nói rằng đó là những linh hồn đã gần cõi chết, chứ không phải đã chết rồi. Chỉ
  6. cách gọi đó đủ chứng tỏ một vốn học thức kinh nghiệm chủ nghĩa, có lẽ chỉ đóng khung trong khuôn khổ một trường xã; vì linh hồn vốn bất diệt...”. Từ “trường xã”, trong nguyên bản đúng ra là “trường xứ” (prixodnyoe utsilise), vì thời Gogol nhà thờ ở các xứ đạo thường tổ chức trường cho con em trong xứ học không mất tiền. Trong câu cuối, ba khái niệm “học thức kinh nghiệm chủ nghĩa”, “trường xứ”, “linh hồn vốn bất tử” mâu thuẫn, đối nghịch nhau chỉ sự dốt nát nhưng sính nói chữ loè người của tên thư lại nhà quê, qua đó giễu cợt cái Hội đồng kiểm duyệt nhà nước đưa ra phán quyết theo kiểu “không cho chúng nó thoát”: Gogol, nếu không can tội báng bổ nhà thờ, thì cũng mắc tội chống lại đạo luật nông nô(12) . Việc dịch sai từ ngữ trong bản dịch Những linh hồn chết đôi khi làm tổn hại đến tính khái quát nghệ thuật trong nguyên bản, nhất là ở những đoạn trữ tình - một bộ phận kết cấu quan trọng của tác phẩm. Chúng tôi dẫn ra đây đoạn Tsitsikov nghĩ về những “Korobotska” của nước Nga trong bản dịch: “... Này, nhưng mà cái mụ Korobotska ấy lại ở một địa vị thấp kém đến thế trên các bậc thang xã hội kia à? Một cái hố sâu đến thế ngăn mụ ta với người em mụ, đang ngự ở chốn thâm nghiêm sau những bức tường của một toà nhà quý tộc...?”. Ngoài những từ dịch không được chính xác trong cả đoạn, riêng câu này cần phải dịch là “...Có thể ta sẽ nghĩ rằng: chẳng lẽ mụ Korobotska lại ở cái nấc thang thấp kém đến thế trên những nấc thang vô tận của sự hoàn thiện? Lẽ nào lại có một hố sâu đến thế ngăn cách mụ với những người chị em mụ sống trong chốn thâm nghiêm đằng sau tường rào của những dinh thự quý tộc?...”. Tính khái quát của câu “những nấc thang vô tận của sự hoàn thiện” lớn hơn câu “các bậc thang xã hội”; và mặc dù trong nguyên bản từ “sestra” (chị, hoặc em) chỉ số ít và dinh thự quý tộc cũng là số ít, song khi dịch phải chuyển sang số nhiều cho phù hợp với văn cảnh và ý đồ tác giả: Korobotska - điền chủ nông thôn hay Korobotska – quý tộc thành phố, đều cùng một duộc, cùng thiển cận như nhau, cùng ở những nấc thang cuối của sự hoàn thiện tinh thần. Chỉ có điều Korobotska quý tộc thành phố thì nhàn rỗi, trưng diện và khoe mẽ nhiều hơn. Dùng danh từ số ít, người đọc lầm tưởng là Korobotska có một cô em gái và người đó là quý tộc sống ở thành thị, tính khái quát của đoạn văn trữ tình vì thế mà bị phá vỡ và câu văn trở thành khó hiểu. Nhấn mạnh tầm quan trọng của những thủ pháp nghệ thuật của Gogol, cũng Belyi nhận xét “nội dung chủ đề trong Những linh hồn chết “mọc sâu” vào sự tô màu; “cái gì” đến ba phần tư chìm vào cái “thế nào”, bên ngoài cái “thế nào” là cái cốt truyện không chân”. Chỉ xin dẫn ra đây thủ pháp liên tưởng – phóng đại hai chiều trái ngược: vật cách hoá con người và nhân cách
  7. hoá vật và đồ vật được sử dụng rất nhiều trong tác phẩm. Như đã biết, các nhân vật của Gogol nổi tiếng nhờ nghệ thuật tạo hình đặc biệt của ông. Chúng bị “vật hoá” từ cách đặt tên, tới những miêu tả chi tiết về tính cách, thói ăn, nết uống... Ngược lại, thiên nhiên, giống vật lại được “nhân hoá” tài tình, chủ yếu nhờ những liên tưởng theo kiểu “dây leo” – liên tưởng kéo theo liên tưởng, thường được bắt đầu bằng chi tiết hiện thực cụ thể. Những liên tưởng này vẽ nên những bức tranh sinh động, rộn rã âm thanh, màu sắc, khiến cho những vùng quê Tsitsikov đi qua bớt đi vẻ ảm đạm: đó là cảnh chú gà trống chiến đấu với tình địch, bị mổ thủng óc “vẫn cất tiếng gáy oang oang và lại còn vỗ đôi cánh tả tơi như chiếu rách nữa”; đó là khu rừng đẹp mê hồn như một bức tranh của hội hoạ siêu thực đối lập lại vẻ hoang tàn, thê thảm của điền trang và chủ của nó là Pluskin; và đây, dàn giao hưởng chó ở nhà Korobotska, mà chỉ cần sửa lại câu đầu mang tính “phóng tác” của bản dịch - “Trong lúc ấy thì bầy chó tiến hành một cuộc biểu diễn thanh nhạc đón chào tân khách”, lấy lại một số từ ngữ đã bị bỏ, sửa một số khác, bám sát nguyên bản, tuân theo nguyên tắc kết cấu và thủ pháp “liên tưởng dây leo”, tài nghệ Gogol sẽ hiển hiện thật rõ nét: “Trong lúc ấy bọn chó sủa bằng tất cả mọi loại giọng có thể: một con ngẩng đầu tru kéo dài, gắng sức tới mức tưởng như vì việc đó, có trời hiểu được, nó được thưởng cái gì; một con giật giọng vội vã như thể người hát thánh kinh trong nhà thờ; hoà vào những giọng này vút lên như tiếng lục lạc trên xe bưu điện, một giọng non trẻ, hẳn là của một chú cún con; và tất cả, cuối cùng bị điều khiển bởi một giọng bát trầm hùng, có thể là của một lão già được trời phú cho sự lực lưỡng của giống chó, vì cái giọng ồ ồ của lão giống tiếng ồ ồ của chiếc côngtrôbat cất lên khi dàn hợp xướng lên tới cao trào; những giọng nam cao kiễng gót để đạt tới một nốt cao, và tất cả, không trừ một ai, đều vươn mình, ngẩng đầu, chỉ có một kẻ gục cái cằm râu không cạo vào chiếc cà vạt, cúi mình sát đất và từ đó phát ra một nốt làm rung chuyển các cửa kính”. Những bức tranh sống động tươi vui, cùng với những đoạn trữ tình thống thiết và tiếng cười dân gian rộn rã, đó là nhân vật chính, nhân vật trung tâm của thiên trường ca, chúng phải được chuyển tải sang văn bản dịch bằng một sức mạnh và sự chính xác ngang bằng với sự chuyển tải hình tượng “những linh hồn chết” cùng cái thế giới tăm tối, u sầu của chúng, để bạn đọc có thể cảm nhận đầy đủ thế giới nghệ thuật tuyệt vời của Gogol.
  8. Để kết thúc, chúng tôi mong bạn đọc hiểu rằng bài viết này không làm công việc so sánh, hiệu đính bản dịch Những linh hồn chết. Đó là công việc rất lớn. Những gì chúng tôi trình bầy phía trên chỉ nhắm tới một mục đích và một ước vọng: trên những nấc thang vô tận tiến tới sự hoàn thiện, sẽ sớm xuất hiện thêm những bản dịch tiếng Việt thiên trường ca bất hủ này. Bởi chiếm lĩnh những đỉnh cao luôn là khát vọng của con người
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2