Tiếp nhận trường hợp Người thứ 41 của Boris Lavrenjov tại Việt Nam
lượt xem 4
download
Tác phẩm Người thứ 41 được nhà văn Boris Lavrenjov - một cựu chiến binh Vệ Quốc, viết và hoàn thành vào tháng 3/1924. Tác phẩm lấy bối cảnh là cuộc Nội chiến gay gắt ở Nga. Vì vậy, người đọc có thể dễ dàng cảm nhận được một không khí gay gắt, căng thẳng được tạo nên bởi những mâu thuẫn giai cấp trong tác phẩm. Bài viết này trình bày nghiên cứu của tác giả về tác phẩm "Người thứ 41" với mong muốn góp phần tái hiện một quá trình tiếp nhận, sự giao lưu văn hóa giữa hai quốc gia trong bối cảnh mới, đồng thời khẳng định lại một lần nữa giá trị của nền nghệ thuật Nga. Mời các bạn cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiếp nhận trường hợp Người thứ 41 của Boris Lavrenjov tại Việt Nam
- Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH TIẾP NHẬN TRƯỜNG HỢP NGƯỜI THỨ 41 CỦA BORIS LAVRENJOV TẠI VIỆT NAM Hà Thị Hồng Sang, Lê Minh Tú (Sinh viên năm 3, Khoa Ngữ văn) GVHD: PGS TS Phạm Thị Phương 1. Đặt vấn đề 1.1. Năm 1989, phong trào Perestroika ở nước Nga phát triển tới đỉnh cao và lan rộng khắp mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Văn học Nga, vốn phân hoá thành nhiều thành phần, khuynh hướng, bước vào giai đoạn này đã bộc lộ sự khủng hoảng sâu sắc. Một nền văn học vang động trong lịch sử, nay đứng trước nguy cơ đánh mất độc giả vì không còn theo kịp bước chân thời đại và trình độ nghệ thuật nhân loại. Thời điểm đó nhà văn V. Erofiev đã viết bài Lời ai điếu cho văn học Xô viết1, như một tuyên bố sự cáo chung của một thời kì văn học từng lừng lẫy. Tuy nhiên thời gian đã khẳng định những giá trị nghệ thuật đích thực, sau gần hai mươi năm, nhiều sáng tác văn học Xô viết đang dần khởi sinh và tìm lại chỗ đứng trong lòng bạn đọc. Như một quy luật, văn học Nga – Xô viết lại tiếp tục được nâng niu trên tay của những thế hệ độc giả mới Việt Nam. Xu hướng toàn cầu hóa cùng những tương đồng tương hợp trong văn hóa, tình hình đất nước đã tạo cơ hội để các tác phẩm “vang bóng một thời” quay trở lại ngự trị trong lòng độc giả. Nhận thấy được bước ngoặt này trong tình hình tiếp nhận văn học, chúng tôi quyết định tìm đến tác phẩm Người thứ 41 làm đối tượng khảo sát, với mong muốn góp phần tái hiện một quá trình tiếp nhận, sự giao lưu văn hóa giữa hai quốc gia trong bối cảnh mới, đồng thời khẳng định lại một lần nữa giá trị của nền nghệ thuật Nga. 1.2. Xã hội ngày càng phát triển, cùng với sự lên ngôi của khoa học công nghệ, những tiếp xúc giao lưu bên ngoài biên giới không còn là một rào cản quá khó khăn. Điều này cho phép du nhập nhiều lí thuyết tiếp nhận văn học mới, trong đó có nhánh Xã hội học văn học và nhánh Phê bình hồi ứng-độc giả. Ở Việt Nam, nghiên cứu và thực nghiệm theo các nhánh này còn hạn chế: tài liệu lí thuyết chưa nhiều, chủ yếu là các bài dịch thuật, cung cấp những kiến thức cơ bản; nghiên cứu chuyên sâu, đặc biệt về mặt ứng dụng còn hiếm hoi. Riêng trường hợp Người thứ 41 chưa từng được chọn làm đối tượng khảo sát. Việc lựa chọn phương thức và đối tượng nghiên cứu này giúp chúng tôi hiểu biết hơn về tiến trình văn học Việt Nam hiện đại, trong mối giao lưu văn hóa với bên ngoài. 1 V. Erofiev – Lời ai điếu cho văn học Xô viết, xem tại : http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10352&rb=0103. (truy cập 1/4/2017) 124
- Năm học 2016 - 2017 1.3. Trong những năm gần đây, cùng với việc đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn luôn là một vấn đề sôi nổi, tâm điểm chú ý của dư luận xã hội. Các nhà giáo dục nỗ lực xác lập một hệ thống lí thuyết cụ thể để thực thi tư tưởng lấy người học làm trung tâm, hướng tới phát triển năng lực học sinh. Mặt khác, thực tế giảng dạy văn học ở nhà trường phổ thông hiện nay còn nhiều bất cập, còn sự rập khuôn, máy móc trong việc tiếp nhận văn bản. Do vậy, xét từ yêu cầu thực tiễn, cần sửa chửa bổ sung những phương pháp mới, chúng tôi muốn mở rộng đề xuất thực nghiệm hai lí thuyết này trong giảng dạy và tiếp nhận văn học. Những nguyên cớ trên đây đã thôi thúc chúng tôi thực hiện đề tài này, với hi vọng sẽ đóng góp một phần khiêm tốn vào ứng dụng lí luận tiếp nhận văn học, nghiên cứu văn học Nga và thực tiễn giảng dạy văn học. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Vài nét về Người thứ 41 của Boris Lavrenjov Tác phẩm Người thứ 41 được nhà văn Boris Lavrenjov - một cựu chiến binh Vệ Quốc, viết và hoàn thành vào tháng 3/1924. Tác phẩm lấy bối cảnh là cuộc Nội chiến gay gắt ở Nga. Vì vậy, người đọc có thể dễ dàng cảm nhận được một không khí gay gắt, căng thẳng được tạo nên bởi những mâu thuẫn giai cấp trong tác phẩm. Và ở đó, con người đối xử với nhau bằng bạo lực, một mất một còn. Trong một cuộc đối đầu với quân Bạch vệ, Chính ủy đỏ đã bắt được chàng vệ sĩ Vadim. Chàng cũng là người duy nhất đã thoát khỏi nòng súng của nữ Hồng quân Marjutka. Nhận thấy đây là một tên tù nhân “quan trọng” nên Chính ủy quyết định giữ mạng kẻ tù nhân và giao cho Marrutka giám sát. Hoàn cảnh trớ trêu đã khiến cho hai con người tưởng chừng rất đối nghịch này với nhau đem lòng thấu hiểu, yêu thương và quyến luyến lẫn nhau. Tuy nhiên câu chuyện có một kết thúc rất bi thảm. Sau nhiều ngày lạc trên hoang đảo, hai người phát hiện ra chiếc thuyền của Bạch vệ. Ngay lập tức, Marjutka đã bắn chết Vadim. Và bây giờ anh ta cũng chính là nạn nhân thứ 41 của Marjutka. Người thứ 41 là một tác phẩm đặc biệt khi có cả những điểm đáp ứng, nằm trong khuôn khổ lẫn vượt khung của dòng văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Chính những điểm đáp ứng cũng như vượt khung này mà Người thứ 41 có sự thăng trầm trong các nền văn học thuộc phe xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Về những điểm đáp ứng, nhân vật trung tâm là những nhân vật chính diện tích cực, giác ngộ lí tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tác phẩm mang cốt truyện phiêu lưu của những người anh hùng, khẳng định cá tính anh hùng vì lợi ích chung của tập thể, kết thúc là chiến thắng của phe xã hội chủ nghĩa, bên cạnh đó, sử dụng phương thức điển hình và tượng trưng quen thuộc của dòng văn học sử thi lãng mạn. Về những điểm vượt khung, tác phẩm có thêm đặc tính bi kịch chua chát của đời sống. Nhà văn khá khéo léo khi bố trí sắp xếp nhân vật ban đầu dường như đáp ứng hoàn toàn khuôn mẫu chính trị giai cấp trong các tác phẩm anh hùng ca lúc đó, nhưng 125
- Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH càng về sau càng thấy tác giả đã phá hủy khuôn mẫu. Vadim là tuyến kẻ thù, nhưng được xây dựng có những vẻ đẹp đạo đức. Thêm nữa, giữa hai nhân vật có sự đối kháng giai cấp, là Vadim và Marjutca lại có thể hiểu và yêu nhau. Mặt khác, tác phẩm có giọng điệu hài hước, nhẹ nhàng, đôi khi giễu nhại, một khuynh hướng ít gặp trong văn học những năm 20. 2.2. Tiếp nhận trường hợp Người thứ 41 tại Việt Nam dưới góc độ xã hội học văn học 2.2.1. Giới thuyết về Lí thuyết trường của Pierre Boudieu Lí thuyết trường là một thuật ngữ dùng để chỉ hướng nghiên cứu các vấn đề xã hội trong mối liên quan đến văn học, được xây dựng bởi nhà xã hội học người Pháp Pierre Bourdieu (1930 - 2003) vào những năm 80 - 90 (tk XX). Theo hướng nghiên cứu này, Bourdieu đề xuất nghiên cứu tác phẩm nghệ thuật và người nghệ sĩ “như những sản phẩm xã hội trong hoàn cảnh lịch sử xã hội cụ thể, vừa có những đặc tính nội tại riêng, vừa có liên hệ mật thiết với các tác phẩm và nghệ sĩ khác, cũng như các lĩnh vực xã hội khác”2. Theo cách thức này, nhà nghiên cứu lấy tác phẩm/ hiện tượng văn học làm đối tượng nghiên cứu, coi nó là một thành quả của điều kiện xã hội, được hình thành trong một tổng thể các điều kiện có liên quan đến nhau, như điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, triết học… Dưới sự định hình cơ sở lí thuyết từ lí thuyết trường của Pierre Bourdieu, chúng tôi xác định, việc nghiên cứu trường văn học Việt Nam giai đoạn tiếp nhận Người thứ 41, là: Một, khảo sát vị thế và sự vận động của hiện tượng trong trường, từ vị thế trường nghệ thuật tương đối độc lập sang phụ thuộc và lí do cho phép sự vận động đó; Hai, xác định trường văn học và sự chi phối của các trường chính trị, tư tưởng/triết học đối với nó (thông qua tiêu chí chọn dịch tác phẩm văn học nước ngoài, cách chọn tác phẩm/vấn đề nghiên cứu, các giải thưởng, các ý kiến phê bình sách báo, phê duyệt, kiểm duyệt phim ảnh, sân khấu, sách báo và các chiến lược khác); Ba, tìm hiểu các hình thức tồn tại ngầm của trường văn học phi chính thống (thông qua cảm thụ văn chương “tự phát”, “vốn xã hội” (capital social), tập tính (habitus) mà có thể được lưu giữ trong kí ức…). 2.2.2. Trường hợp Người thứ 41 nhìn từ lí thuyết trường a. Người thứ 41 và trường văn hóa - xã hội trước 1986 * Giai đoạn 1955 - 1960: Trường nghệ thuật và trường chính trị còn tương đối độc lập 2 Lộc Phương Thủy, Nguyễn Phương Ngọc, Phùng Ngọc Kiên (2014), sđd, tr.108 126
- Năm học 2016 - 2017 Tình hình chính trị - xã hội thế giới và trong nước giai đoạn từ giữa những năm 50 đến đầu những năm 60 đã tạo điều kiện cho trường văn học Việt Nam có được tầm kiểm soát, tự chủ và Người thứ 41 được tiếp nhận như một tác phẩm hợp pháp, dòng chính thống. Tại Nga, Stalin qua đời (3/1953), gây một sự thay đổi lớn trong đường lối lãnh đạo không chỉ đối với nước Nga cùng các quốc gia cùng khối xã hội chủ nghĩa. Ngày 25/2/1956, tại Đại hội đại biểu lần thứ XX Đảng Cộng sản Liên Xô, thông qua báo cáo Về tệ sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó, BCH Trung ương đã hạ bệ tư tưởng Stalin. Báo cáo này cùng những Quyết định tại Đại hội đã đưa nước Nga bước vào thời kì “băng rã”. Nhiều biện pháp nới lỏng tự do được đề ra và thi hành trên nhiều lĩnh vực, trong đó có văn học. Các sáng tác trước đây bị coi là “không hợp pháp”, cấm lưu hành như Đàn sếu bay qua, Hai người lính, Người thứ 41, Không thể sống bằng bánh mì, Một ngày trong đời của Ivan Denisovich… có cơ hội được “phục sinh” đời sống thật của mình. Tại Trung Quốc, tháng 5/1956, phong trào “Trăm hoa đua nở” được Chính phủ phát động nhằm kêu gọi, ủng hộ tự do sáng tác, thúc đẩy phong trào văn nghệ nước nhà phát triển. Sự kiện này đã tạo nên một tâm trạng hồ hởi cho các nhà văn Trung Quốc bắt tay vào công việc văn chương một cách tích cực hơn, thoải mái hơn. Nhìn chung hoạt động văn học đã được cho phép đề cập những vấn đề tự do, dân chủ mà giai đoạn trước ở các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa vốn không có. Hay nói cách khác văn học có cơ hội phát triển một cách tương đối độc lập đối với chính trị. Tại Việt Nam, tháng 7/1956 công cuộc cải cách ruộng với nhiều sai lầm kết thúc, xuất hiện nhiều ý kiến đệ trình phản hồi, phê bình sai lầm của cuộc cải cách. Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam có những động thái thay đổi trong đường lối quản lí nhằm làm nguôi lòng dân, nới lỏng tự do. Phong trào Nhân văn - Giai phẩm phát triển mạnh mẽ qua việc hàng loạt các tờ báo, tạp chí được xuất bản hàng tuần, hàng ngày với nội dung chủ yếu nói về các sáng tác văn chương của giới văn nghệ sĩ, bài phỏng vấn đối với những người ủng hộ tinh thần Nhân văn Giai phẩm, ủng hộ cho sự tự do sáng tác. Một trường văn học được xác lập với những hệ giá trị của riêng mình, độc lập với các trường khác. Từ những biến động của tình hình thế giới và sự phát triển phong trào Nhân văn - Giai phẩm của nước nhà, Cục Điện ảnh Việt Nam đã có những thay đổi trong quan điểm quản lí, kiểm soát các sản phẩm phim ảnh. Các nhà quản lí truyền thông bắt đầu có sự quan tâm nhiều hơn cho tính sáng tạo, tính nghệ thuật của một bộ phim sao cho gây hứng thú với khán giả. Trong bầu không khí ấy, Người thứ 41 xuất hiện trong chương trình Tuần lễ phim Liên Xô tại Hà Nội, gây một cơn dư chấn bởi những yếu tố mới mẻ chưa từng thấy ở một bộ phim nào của điện ảnh Xô viết: tính phi giai cấp tạo cho bộ phim một không khí thoải mái, không còn áp lực dù bối cảnh là cuộc nội chiến vô cùng gay gắt; cách xây 127
- Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH dựng nhân vật hấp dẫn mới mẻ; những phân cảnh đẹp mắt, nóng bỏng,… tất cả đã cho khán giả có cơ hội thoát khỏi những khung hình cứng nhắc của những bộ phim trước kia với đề tài chiến tranh lặp đi lặp lại mà khán giả Việt Nam đang hồi “bội thực” * Giai đoạn 1958 – những năm 60: Trường nghệ thuật và trường chính trị sáp nhập làm một Tại Nga, vào giữa những năm 60, nhà cầm quyền do quan ngại trước những biểu hiện “lệch lạc”, “những chệch hướng trong văn chương, nghệ thuật” siết chặt trở lại văn nghệ ở Liên Xô. Tại Trung Quốc, Mao Trạch Đông đã đề ra những chính sách, sử dụng văn nghệ là một công cụ phục vụ chính trị. Tại Việt Nam, chính sách trên có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến chính trị Việt Nam. Trường Chinh đã học tập đường lối chính sách của Trung Quốc và đưa ra đường lối quản lí văn nghệ nước nhà. Ông đưa chính trị lên làm mục tiêu hàng đầu cho văn nghệ, là kim chỉ nam định hướng cho sự phát triển của văn học. Như vậy, thông qua những sự kiện trên, chúng ta có thể nhìn nhận sự lên ngôi của trường chính trị. Trường chính trị đã ra sức nắm “luật chơi” trong cuộc đấu tranh giành vị thế, ra sức “lật đổ thế cờ” trong bàn cờ văn hóa xã hội Việt Nam. Trong cấu trúc trường văn hóa - xã hội Việt Nam giai đoạn 1958 - 1986, nếu như coi Nhân văn – Giai phẩm là phe đại diện cho trường văn học, với phương châm “nghệ thuật thuần túy”, thì giai đoạn này, những phản ứng của phe này bị phe “văn học chính trị” lần lượt dập tắt, cho thấy yếu tố trường chính trị đang tái thiết lập cấu trúc, hạ thấp trường văn học xuống một bậc thấp hơn biểu hiện qua 2 sự kiện: Đợt tập huấn văn nghệ ở Thái Hà (2-4/1958) và tổng kết phong trào chống Nhân văn Giai phẩm (6/1958). Tuy nhiên, để nói một cách bao quát nhất, thì trước đó, các cuộc tranh luận về hai tập thơ Không vần (của Nguyễn Đình Thi) và thơ Việt Bắc (của Tố Hữu) cũng đã cho thấy sự vận động vươn lên tái thiết lập cấu trúc trường văn hóa - xã hội Việt Nam của các thành tố thuộc trường chính trị. Bên cạnh đó, để bảo vệ cấu trúc trường lực, trường chính trị đã xây dựng cho mình một thiết chế quản lí “cuộc chơi” vô cùng vững chắc. Thiết chế đó là sự quản lí gay gắt của nhà cầm quyền đối với 4 nội phương diện: chế độ kiểm duyệt, độc giả, hoạt động quản bá và hoạt động xuất bản. Trong tầm ảnh hưởng mạnh mẽ của chính trị như thế thì số phận Người thứ 41 ra sao? Đối với bộ phim, ngay sau khi các chính sách chấn chỉnh được đưa ra, bộ phim bị giới hạn phạm vi chiếu (với nhãn 18+) và sau đó là bị ngưng chiếu hoàn toàn. Nếu như giai đoạn trước các “yếu tố vượt khung” được đón nhận như một sự cách tân nghệ thuật thì đến giai đoạn này, chính chúng là nguyên cớ khiến bộ phim bị cấm chiếu. Nhưng ngược lại ở bản dịch của Vũ Lê, bản dịch này được cho phép xuất bản với số lượng 12.070. Có thể lí giải bởi hai lí do: bởi bản dịch đầu tiên của tác phẩm Người thứ 41 là 128
- Năm học 2016 - 2017 một bản dịch từ bản trung gian tiếng Pháp làm cho giữa nguyên tác và bản dịch có một độ chênh nhất định. Điều này kéo theo những thông điệp cốt lõi của tác phẩm có thể bị lược bớt hoặc hiểu sai. Đồng thời, lời giới thiệu của dịch giả Vũ Lê đã cho thấy cách hiểu của người đọc, của Nhà xuất bản và hơn hết là Cục kiểm duyệt lúc bấy giờ đối với Người thứ 41 hoàn toàn là một sản phảm của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tư tưởng trong tác phẩm vẫn là tư tưởng hướng về tập thể quần chúng. Người dịch chỉ tập trung giới thiệu những yếu tố liên quan đến Cách mạng: như nhân vật Ma-ri-út-ka, cách xây dựng nhân vật,… với sự khen ngợi. Nhân vật Va-đim bị coi là nhân vật phản diện và bị lên án kịch liệt. b. Người thứ 41 và trường văn hóa - xã hội những năm sau 1986 * Giai đoạn 1986 - 1988: Thời kì mở cửa Trước thời kì mở cửa, năm 1979, Hoàng Ngọc Hiến trong báo Văn nghệ số 23 đã mạnh dạn phê bình về giai đoạn văn học minh họa. Ông gọi đó là “văn học hiện thực phải đạo”. Từ sau Đại hội Đảng lần VI, giới báo chí đã được Nhà nước “bật đèn xanh”, cho phép nhìn nhận và viết về những sự thật lịch sử, về những mặt trái của cuộc sống. Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã từng có một bài viết mang tên “Những việc cần làm ngay” nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm xã hội của các nhà báo. Năm 1987 xảy ra hai sự kiện đáng nói: các nhà văn phong trào Nhân văn - Giai phẩm được phục hồi hội tịch dường như báo hiệu tự do sáng tạo đang hé mở. Một số sáng tác bị cấm đoán được công bố. Cũng trong năm đó, Nguyễn Minh Châu viết“Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa”, cho thấy sự cấp bách một cuộc đổi mới văn học, quản lí văn học, khả năng tiếp cận với các lí thuyết mĩ học hiện đại, từ đó rút ngắn khoảng cách tụt hậu của nền văn học nước nhà so với văn chương nhân loại. Mối quan hệ giữa trường chính trị và trường văn học, sau một khoảng thời gian đạt cực điểm của trạng thái hợp nhất, đến thời điểm này (từ sau 1986) đã bắt đầu giãn dần. Chính bước ngoặt này đã tạo cơ hội cho những tác phẩm “sống trong bóng tối” như Người thứ 41 có cơ hội quay trở lại với độc giả Việt Nam. Năm 1986, một phiên bản dịch thuật thứ hai Người thứ 41 được ra đời. Đặc biệt, đây là bản được dịch lại từ nguyên tác tiếng Nga. Bản dịch của Phạm Hồng Chi được đón nhận trên tinh thần đổi mới và đến tay một lớp độc giả mới, có tầm đón đợi cao hơn, có cái nhìn cởi mở hơn. Người thứ 41 được Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản 50.300 bản. * Giai đoạn sau 1989: Thời kì thắt chặt trở lại Những biến cố lịch sử hai thập niên cuối thế kỉ XX đã khiến cho quá trình cởi trói, phát triển tự do của văn nghệ Việt Nam trở nên thập thõm. Khoảng cuối những năm 80, xảy ra nhiều cuộc cách mạng, khối cộng sản Đông Âu sụp đổ. Tiếp theo là cuộc biểu tình Thiên An Môn ở Trung Quốc đã làm chấn động tình hình chính trị thế giới nói chung và các nhà nước cộng sản nói riêng. Các Đảng Cộng sản phải nhìn nhận lại tình hình xã hội, có những biện pháp phòng chống nguy cơ suy sụp. Tháng 3/1989, 129
- Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH tại cuộc họp lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã đề nghị và thông qua quyết định tạm dừng quá trình “cởi mở” đã thực hiện trong thời gian qua. Di chứng cụ thể cho việc siết chặt kiểm soát hoạt động văn nghệ sau quyết định dừng quá trình mở cửa đất nước là việc hàng loạt các tác phẩm văn nghệ bị đình chỉ lưu hành, cấm xuất bản hoặc yêu cầu thay đổi để đảm yêu cầu chính trị, ví dụ trường hợp Nỗi buốn chiến tranh của Bảo Ninh, Những ngã tư và những cột đèn của Trần Dần,… Trong không khí đó, Người thứ 41 cũng chịu sự theo dõi sát sao, việc tái kiểm duyệt liên tục được thực hiện đối với những văn bản có tiền án “bị cấm” ở giai đoạn trước. Để có thể vượt qua vòng kiểm duyết, vấn đề “Lời giới thiệu” được đặc biệt lưu tâm. Quan sát, chúng tôi cho rằng Người thứ 41 là một trong những trường hợp như thế, vì có sự bất nhất giữa lời giới thiệu và văn bản dịch. Nếu như văn bản dịch được tác giả tiến hành dịch thuật trên tinh thần giữ đúng nguyên tác thì ở lời giới thiệu tác giả thường né tránh những vấn đề “phạm quy” của giai đoạn. Thậm chí, Lời giới thiệu còn cố tình có sai lệch với thông điệp của tác phẩm để làm “hài lòng” những nhà quản lí. Trong Lời giới thiệu, dịch giả Phạm Hồng Chi, ngoại trừ những thông tin về tác giả, nhân vật trong tác phẩm, kết cấu truyện chỉ ca ngợi “qua loa” về chủ nghĩa anh hùng mà văn bản dịch rõ ràng không hàm chứa. Qua những diễn biến nêu trên, ta có thể thấy, trường văn hóa - xã hội Việt Nam sau năm 1986 dù không còn bị ý thức hệ chi phối gay gắt như trước nhưng vẫn có những thời đoạn cao trào biểu hiện qua mối quan hệ đối chọi trở lại giữa văn học và chính trị. Chính điều đó đã sản sinh ra những thay đổi nội tại văn bản Người thứ 41 và ở sự tiếp nhận không đồng nhất của xã hội đối với tác phẩm. c. Dư âm của một hiện tượng Qua dư âm của các lớp độc giả nhiều thế hệ, chúng tôi nhận thấy, mặc dù những yếu tố về trường lực có thể quy định những điều kiện khách quan, chi phối ít nhiều cách tiếp nhận văn bản của người đọc, nhưng không thể quyết định hoàn toàn. Người đọc, với tầm đón đợi và khả năng khác nhau trong cảm thụ văn chương, sẽ hình thành những cách đọc, cách cảm nhận khác nhau về giá trị của tác phẩm. Và cứ như thế, những lớp nghĩa của văn bản sẽ lần lượt được người đọc lần giở. Những quan điểm hời hợt, phiến diện có thể coi Người thứ 41 là câu chuyện phi lí, không hợp pháp khi nó ca ngợi Bạch vệ - phe đối lập của cách mạng. Nhưng với những người tinh tế trong cảm thụ văn học, thì đó, lại là một phương diện khác của cuộc sống đầy phức tạp mà chúng ta phải tìm hiểu. Hẳn nhiên, với tư cách một người đọc, chúng tôi cho rằng, khi viết tác phẩm này, Lavrenjov cũng muốn hướng đến điều này, đó là phơi bày hiện thực đa chiều, từ đó khái quát lên những giá trị nhân văn nhất định. Như vậy, có thể nhận định rằng, sự tiếp nhận bộ phim/ truyện vừa Người thứ 41 không phải chỉ trên tiền cảnh sân khấu mới sôi nổi, mà đằng sau cánh gà sân khấu, trong kí ức khán giả/ độc giả, tác phẩm vẫn luôn giữ một chỗ đứng quan trọng. Và có thể, dưới sự tác động của một 130
- Năm học 2016 - 2017 trường lực nào đó, tác phẩm có thể tạm thời vắng bóng, không có cơ hội công khai trước công chúng độc giả, thì bằng cách này hay cách khác, đến một thời điểm thích hợp, chính những giá trị nội tại của nó sẽ thu hút bạn đọc. 2.3. Tiếp nhận Người thứ 41 tại Việt Nam dưới góc độ phê bình hồi ứng-độc giả 2.3.1. Một số luận điểm chính của lí thuyết phê bình hồi ứng-độc giả Về khái niệm, đây là hệ thống lí luận và phê bình văn học hiện đại tập trung nghiên cứu phản hồi của người đọc đối với tác phẩm văn học. Về đối tượng nghiên cứu, lí thuyết này lấy người đọc làm trung tâm, đối tượng này được nhìn nhận ở thế chủ động trong quá trình tiếp thu văn bản, ở sự vận động của tri thức và sự trưởng thành trong cảm xúc, mở rộng tầm đón nhận – nghĩa là quá trình đọc làm thay đổi chính bản thân người đọc. Cũng phải lưu ý thêm, khái niệm người đọc ở đây khác với nghĩa chung chung, nghĩa số đông ở mĩ học tiếp nhận, người đọc ở đây mang ý nghĩa cụ thể, tại một hoàn cảnh xác định. Về mục tiêu nghiên cứu, phê bình hồi ứng độc giả đi tìm mối quan hệ giữa người đọc với văn bản, trả lời cho các câu hỏi: Người đọc có quan hệ như thế nào với văn bản? Người đọc tạo ra ý nghĩa văn bản bằng cách nào? Những yếu tố nào ảnh hưởng đến kết quả đọc, đến quá trình kiến tạo nghĩa? Từ kết quả đọc, ta thấy gì về quá trình đọc, về sự đọc, thấy gì thêm về văn bản, về người đọc, về quá trình văn học? Về phân loại, lí thuyết này được chia làm 5 phân nhánh: Phản hồi về văn bản, phản hồi về trải nghiệm, phản hồi về tâm lí, phản hồi về xã hội và phản hồi về văn hóa. Trong đề tài của mình, chúng tôi chỉ lựa chọn hai trên năm phân nhánh: đó là phản hồi về văn bản và phản hồi về trải nghiệm để làm rõ đề tài. 2.3.2. Quy trình ứng dụng lí thuyết phê bình hồi ứng độc giả vào tiếp nhận Người thứ 41 Dựa trên những luận điểm của lí thuyết phê bình hồi ứng-độc giả, chúng tôi đã thiết lập một quy trình ứng dụng phương pháp như sau: Bước 1: Nghiên cứu tài liệu Bước 2: Chọn cộng tác viên (CTV) và văn bản tiếp nhận (có tiêu chí chọn kèm theo) Bước 3: Xây dựng hệ thống câu hỏi khảo sát (Ba bảng câu hỏi tương ứng với ba lần đọc của CTV, có sự tăng dần về độ khó và độ sâu qua từng bảng câu hỏi khảo sát) Bước 4: Khảo sát Bước 5: Thu thập, xử lí thông tin phản hồi Bước 6: Tổng hợp, rút ra kết luận Ở đây, chúng tôi chỉ xin trình bày thêm về bước 4, cụ thể là quy trình khảo sát, diễn ra như sau: Bước 1: Trước hết, chúng tôi tạo điều kiện cho CTV tiếp xúc một cách thoải mái với văn bản Người thứ 41. Đây là lần đọc đầu tiên. Sau đó, chúng tôi có những trao 131
- Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH đổi thảo luận sơ bộ những vấn đề mà CTV hứng thú sau khi đọc tác phẩm, nhằm tạo cơ hội cho họ làm quen với tác phẩm nhiều hơn. Cùng thời gian này, chúng tôi tiến hành yêu cầu họ trả lời bảng câu hỏi khảo sát thứ nhất. Đây là hệ thống câu hỏi khái quát, đơn giản, nhằm giúp CTV nắm được những vấn đề cơ bản của tác phẩm. Bước 2: Sau khi CTV đã có những nhận xét bước đầu về tác phẩm, chúng tôi tiến hành yêu cầu họ đọc lần thứ hai, lần này thời gian rút ngắn hơn lần đầu tiên. Sau đó, chúng tôi yêu cầu họ trả lời bảng câu hỏi khảo sát lần 2. Hệ thống câu hỏi này đi vào những vấn đề sâu hơn: kết cấu, sắp xếp chương, trình tự trần thuật... Bước 3: Kết thúc bước 2, chúng tôi thu thập, xử lí kết quả khảo sát và tiến hành khảo sát lần 3. Tương tự, chúng tôi để cho các CTV có một khoảng thời gian đọc lại tác phẩm, sau đó, yêu cầu họ trả lời bảng câu hỏi khảo sát cuối cùng. Ở bước này, hệ thống câu hỏi phức tạp hơn, buộc CTV phải suy nghĩ thật thấu đáo. Bước 4: Tổng hợp toàn bộ phần phản hồi của từng CTV đối với từng bảng khảo sát, thu thập thông tin, xử lí và dựa vào đó, chúng tôi đưa ra những nhận xét lí giải về hai phân nhánh chính mà chúng tôi đã lựa chọn để ứng dụng vào Người thứ 41. 2.3.3. Kết quả nghiên cứu Thứ nhất, việc ứng dụng phương pháp đã mở ra một hướng tiếp cận mới trong tiếp nhận văn học, theo đó: Giá trị của tác phẩm là sự dung hòa tổng hợp quá trình giao tiếp thẩm mĩ giữa người đọc và văn bản. Trong quá trình thực hiện đề tài, quá trình bốn CTV tiếp xúc và đọc văn bản, thực chất chính là sự giao tiếp thẩm mĩ này. Như vậy, Người thứ 41 có thể nói là hệ quả tất yếu của sự giao tiếp giữa văn bản với người đọc. Vị thế giữa văn bản và người đọc trong việc kiến tạo nghĩa là ngang hàng nhau. Văn bản có những độ mở, khoảng trống nhất định. Và người đọc, với những tri thức và trải nghiệm của mình sẽ tham gia vào quá trình tìm hiểu những khoảng trống, độ mở đó. Ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến việc người đọc vận dụng những tri thức về văn bản cũng như những cá tính, lập trường tư tưởng, kinh nghiệm xã hội,... vào việc tìm hiểu văn bản. Có thể chứng minh như sau: Trong tác phẩm, không gian biển Aral được nhắc đến khá nhiều. Chúng tôi đã cung cấp thông tin để các CTV có thể điểm lại những đoạn văn miêu tả nó và yêu cầu họ đưa ra suy nghĩ của mình, đặc biệt chỉ ra vai trò của chúng trong xây dựng kết cấu và ngụ ý nội dung tác phẩm. Thì chính các CTV là người đã nhận thấy: Biển Aral là hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, sự đối lập của biển, khi phẳng lặng khi dữ dội cũng như bản chất của nhiều sự việc, ẩn sâu trong sự bình yên thường ngày là sự hủy diệt, ghê sợ. Thời tiết khắc nghiệt biểu hiện cho xung đột gay gắt giữa hồng quân và bạch vệ. Ngược lại, Aral những lúc êm đềm ngụ ý tình yêu tươi đẹp và chân thành của hai nhân vật chính. Thứ hai, phương pháp này cho phép người đọc phản hồi suy nghĩ, chiêm nghiệm, chia sẻ xúc cảm của mình khi đọc một văn bản. Sau khi thực hiện đề tài, các CTV đều 132
- Năm học 2016 - 2017 đồng ý rằng phương pháp này cho phép họ thoải mái trình bày quan điểm cá nhân và liên hệ những kiến thức của mình về thực tiễn, không bị gò bó bởi hệ quy chiếu nào. Từ đó, định hình xu hướng tiếp nhận của một cộng đồng diễn giải và trở thành những tiêu chuẩn định giá giá trị văn chương. Cụ thể: Khi chúng tôi đặt ra một câu hỏi mang tính lựa chọn: Giữa Marjutca và Vadim bạn có thiện cảm với nhân vật nào hơn? Trong khi ba cộng tác viên B, C và D (chúng tôi quy ước gọi bốn cộng tác viên là A, B, C, D) cho rằng có thiện cảm với Vadim hơn vì anh là người sống tình cảm, biết lắng nghe, phát hiện và cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của M, biết quan tâm chân thành, thì A lại thấy M có phần thiện cảm hơn vì tuy M có phần thô lỗ nhưng suy cho cùng vẫn là một phụ nữ yếu đuối. Khi được hỏi thêm, A cho rằng việc theo học trường Luật, cho cô tiếp xúc với khá nhiều vụ án mà trong đó người phụ nữ thường là nạn nhân, do đó cô thường có cái nhìn đồng cảm hơn về người phụ nữ kể cả trong đời thực, văn chương lẫn điện ảnh. Có thể thấy, phê bình hồi ứng độc giả đã cởi trói, cho phép người đọc tự do trong suy nghĩ, trình bày vấn đề, thậm chí, đưa ra những ý kiến, lí giải khác nhau, miễn sao có một luận giải thỏa đáng. 3. Kết luận và đề xuất Xuất phát từ mục tiêu của đề tài và những kết quả nghiên cứu, chúng tôi đưa ra một số kết luận như sau: (1) Về hai lí thuyết tiếp nhận mà chúng tôi đã ứng dụng: Ưu điểm Hạn chế - Việc ứng dụng lí thuyết trường vào nghiên cứu - Yêu cầu khá cao của nó tác phẩm là cơ sở cho việc nghiên cứu đối tượng đối với người thực hiện vừa như hiện tượng nghệ thuật, vừa như một nghiên cứu: người nghiên hiện tượng xã hội trong những hoàn cảnh lịch sử cứu cần một sự tư duy rõ xã hội và ở các quốc gia khác nhau ràng và lập luận chặt chẽ, Lí - Cho phép vận dụng các tri thức liên ngành, đặc phải có vốn tri thức rộng về thuyết biệt là xã hội học và lịch sử, qua đó, mở ra một vấn đề mình tìm hiểu và trường góc độ mới trong tìm hiểu văn học phải có khả năng sàng lọc, - Tạo điều kiện cho người nghiên cứu đặt văn tập hợp và hệ thống lại học trong mối tương quan, đối sánh với các những vấn đề khám phá phạm trù khác (như lịch sử, văn hóa, chính trị...), được từ đó, làm rõ những tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng Lí - Đã chú ý đến một nhân tố quan trọng trong việc - Có giới hạn về đối tượng thuyết tiếp nhận văn học, đó chính là người đọc khảo sát và thời gian khảo phê - Cho phép người nghiên cứu thu thập những sát, do vậy chỉ đưa ra kết bình phản hồi của độc giả, từ đó, có những góc nhìn quả của một giai đoạn, một hồi mới, kĩ lưỡng và đa chiều hơn về tác phẩm, nhận nhóm độc giả 133
- Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH ứng- diện được “tầm đón đợi” của người đọc đối với - Khi người thực hiện đề độc văn học tài đặt ra hệ thống câu hỏi giả - Những câu hỏi định hướng giúp người đọc tập có định hướng, đã phần trung vào vần đề, trọng tâm của tác phẩm mà nào tác động đến quá trình không bị đánh lừa bởi những yếu tố ngoài lề đọc của độc giả, tức là làm - Tạo điều kiện để người đọc có cơ hội hiếm hoi mất đi một phần khả năng được trình bày ý kiến, tình cảm của mình một người đọc có thể tự do cách có hệ thống về một tác phẩm trình bày quan điểm của mình về vấn đề mà họ quan tâm (2) Về tác phẩm Người thứ 41 Người thứ 41 là một tác phẩm giàu giá trị. Một chỗ đứng vững chắc trên văn đàn sau những thăng trầm trong lịch sử, cùng những ấn tượng tích cực của người đọc mà chúng tôi đã trình bày ở trước, đã minh chứng cho điều này. Phải nói rằng, đây là một tác phẩm có tính mở, nhiều tầng ý nghĩa và thu hút người đọc. Câu chuyện của một đôi trai gái được khái quát lên thành câu chuyện của giai cấp, của nhân loại vì vậy sức chứa nội dung không hề giới hạn trong một thiên truyện vừa, mà vượt qua đó, đến nay vẫn khẳng định tính cấp thiết của nó. Có thể xem, Người thứ 41 là một đại diện tiêu biểu cho bút pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa đã chiếm lĩnh giới văn học trong những năm 20 của thế kỉ XX. Điều này cũng cho thấy tài năng và tâm huyết rất lớn của Boris Lavrenjov đối với đứa con tinh thần của mình. Mặt khác, qua quá trình tiếp nhận Người thứ 41, chúng tôi hi vọng rằng mình đã thực hiện được một trong những mục tiêu ban đầu đề ra, đó là tìm thấy những giá trị đích thực của nền nghệ thuật Nga, đồng thời, cho thấy trong cuộc giao lưu văn hóa giữa hai đất nước Nga – Việt chúng ta có biết bao trải nghiệm quý giá, để chúng ta hiểu nhau hơn, gắn bó hơn, cùng nhau đi tiếp trong những chặng đường trước mặt. (3) Từ những gì đã làm được khi thực hiện đề tài, cùng những khả năng mà chúng tôi đã làm rõ từ lí thuyết trường và lí thuyết phê bình hồi ứng-độc giả, chúng tôi đưa ra những đề xuất như sau: Thứ nhất, cần nhìn nhận tính khả thi của hai lí thuyết trên, từ đó tiến hành vận dụng một cách khoa học và có hệ thống. Thay vì những nghiên cứu về luận điểm lí thuyết đơn thuần, nên bổ sung những nghiên cứu về quy trình thực nghiệm, các thao tác tiến hành, tức là những hướng dẫn đáp ứng cho việc ứng dụng thực tế của các lí thuyết này. Thứ hai, đây là những phương pháp đắc lợi cho giảng dạy tác phẩm văn chương trong nhà trường. Đối với lí thuyết trường, nhà giáo dục cần vận dụng những cơ sở mà lí thuyết này đề cập, để lí giải cho học sinh những vấn đề gây tranh luận hoặc diễn biến của văn học. Đối với lí thuyết phê bình hồi ứng-độc giả, các nhà sư phạm cần quan tâm xây dựng những mô hình và quy trình tìm hiểu văn bản và trong quá trình giảng dạy, 134
- Năm học 2016 - 2017 luôn chú ý nhấn tới phát huy năng lực học sinh, ghi nhận những ứng đáp tích cực của học sinh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chris Baldick (2001), The Concise Oxford Dictionary of Literary Terms, Oxford Universiry Express. 2. Richard Beach (1993), A teacher’s introduction to reader-response theories, National Council of Teachers of English, Urbana, Illinois. 3. Trường Chinh (1972), Về một số vấn đề văn nghệ Việt Nam hiện nay, Sách Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Về văn hóa văn nghệ, Nxb Văn học, Hà Nội. 4. Antoine Compagnon (2006), Bản mệnh của lí thuyết văn chương và cảm nghĩ thông thường, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội. 5. Charles R. Cooper (1989), Researching response to literature and the teaching of literature: Points of departure, Ablex Publishing Corporation, New Jersey. 6. Điều lệ Hội nhà văn Liên xô, Mátxcơva, 1934, tr.5. 7. Lê Bá Hán (chủ biên) (1992), Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục. 8. Hoàng Văn Hoan (1987), My Memoir, Beijing: People's Liberation Army Press 9. Đặng Văn Hưng (2003), “Hoàng Cát và Cây táo ông Lành”, Báo An ninh Thế giới, số 23, tháng 7/2003. 10. Bô-rít La-vrê-nép, Vũ Lê dịch (1961), Người thứ 41, Nxb Văn học 11. Boris Lavrenjov (1986), Phạm Hồng Chi dịch, Người thứ 41, Nxb Văn nghệ TP Hồ Chí Minh. 12. Lê Thị Kim Loan (2015), “Người phàm” của Philip Roth dưới góc nhìn phê bình phản hồi-độc giả, luận văn Thạc sĩ, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh. 13. Phương Lựu (chủ biên) (2004), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục. 14. Hoàng Thị Mai (2013), “Lí thuyết ứng đáp của người đọc và việc đổi mới phương pháp dạy đọc văn ở nhà trường phổ thông”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội. 15. Vương Trí Nhàn (2014), “Mấy cảm nhận về sự khác biệt giữa giáo dục miền Nam và giáo dục miền Bắc”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7-8. 16. Lục Đinh Nhất (1956), “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”, Báo Văn nghệ, Hà Nội. 17. Cao Nhị (1956), “Nửa tháng Liên hoan phim Liên Xô: Mấy bộ phim dở”, Nửa tháng Liên hoan phim Liên xô số 5 ngày 20/11/1956. 18. Nguyễn Đình Thi (1992), “Phút nói thật về vở kịch vạch trần sự nói dối”, Tạp chí Bông trang, số 2, 4. 19. Lộc Phương Thủy, Nguyễn Phương Ngọc, Phùng Ngọc Kiên (2014), Xã hội học văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 135
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giao tiếp hiệu quả trong môi trường kinh doanh hiện đại
47 p | 348 | 123
-
Chính sách hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam
10 p | 234 | 48
-
Dạy học hợp tác – Một xu hướng mới của giáo dục thế kỉ XXI
6 p | 148 | 18
-
Di sản văn hóa thế giới Hội An - trường hợp điển hình trong giao thoa và tiếp biến văn hóa
7 p | 82 | 10
-
Tiền công của người lao động làm thuê phi chính thức - so sánh với tiền lương tối thiểu vùng và lương đủ sống
10 p | 40 | 8
-
Chính sách hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam - Hoàng Triều Hoa
10 p | 76 | 8
-
Giao tiếp của bác sĩ và bệnh nhân tại phòng khám tư vấn một nghiên cứu trường hợp tại Australia
24 p | 63 | 7
-
Blended learning và khả năng áp dụng tại trường Đại học Hùng Vương
6 p | 51 | 6
-
Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa qua hôn nhân của người Mường (Nghiên cứu trường hợp người Mường ở Hòa Bình và Đắk Lắk)
8 p | 90 | 6
-
Tiếp nhận “Truyện Kiều” ở Nam Bộ qua khảo sát trường hợp phó phẩm “Kim Vân Kiều ca”
8 p | 18 | 5
-
Tuyển sinh, đào tạo phi chính quy trong bối cảnh xây dựng xã hội học tập gắn với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4
4 p | 45 | 4
-
Khái niệm chuyển đổi số và chuyển đổi số trong giáo dục đại học (Tài liệu tham khảo) - Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam
45 p | 15 | 4
-
NHẬN THỨC KHOA HỌC 3
11 p | 50 | 3
-
Đề xuất một số phương pháp giảng dạy chủ động theo tiếp cận CDIO nhằm nâng cao chất lượng đào tạo cử nhân ngành Công tác xã hội, Trường Đại học Thủ đô Hà Nội
11 p | 18 | 3
-
Nhu cầu thụ hưởng văn hóa của người dân trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (nghiên cứu trường hợp người dân tham gia các hoạt động tại các trung tâm văn hóa)
11 p | 7 | 3
-
Người thu gom rác dân lập ở thành phố Hồ Chí Minh: Nguy cơ rủi ro sức khoẻ và bảo đảm an sinh xã hội
9 p | 74 | 2
-
Bạo lực giới – nghiên cứu trường hợp người chuyển giới nữ ở thành phố Hồ Chí Minh
10 p | 23 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn