intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Asian equity markets: growth, opportunities, and challenges

Chia sẻ: Dfvcx Dfvcx | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:30

52
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài Asian equity markets: growth, opportunities, and challenges nêu tổng quan về thị trường chứng khoán châu Á, hoạt động của thị trường chứng khoán mới nổi châu Á, liên hệ với thị trường chứng khoán Việt Nam. Thị Trường Mới Nổi Thị trường chứng khoán châu Á đang phát triển khá qui mô và nhanh chóng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Asian equity markets: growth, opportunities, and challenges

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP Đề tài: ASIAN EQUITY MARKETS: GROWTH, OPPORTUNITIES, and CHALLENGES GIÁO VIÊN: TS . HỒ VIẾT TIẾN SVTH : NHÓM 3 và NHỎM 14 - NGUYỄN THỊ TƯỜNG VI ( Nhóm 14) - LÊ NGUYỄN VĨNH HẰNG( Nhóm 14) - NGUYỄN THỊ HÀO( Nhóm 14) - LÊ TRUNG HIẾU( Nhóm 14) - NGUYỄN THỊ DIỂM( Nhóm 14) - PHAN HỒ HOÀNG BẢO ( Nhóm 3 cũ) - LAI DƯỠNG NAM ( Nhóm 3 cũ) LỚP : TCDN ĐÊM 3 – K22 TPHCM, 2013 1
  2. PHỤ LỤC CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN CHÂU Á ........... 3 1.1 Thị Trường Mới Nổi ........................................................................................................ 3 1.2 Những Nhân Tố Dẫn Đến Sự Phát Triển.................................................................... 7 CHƯƠNG II: HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN MỚI NỔI CHÂU Á...................................................................................................................................... 17 2.1 Sự Biến Động Về Giá ..................................................................................................... 17 2.2 Những Hoạt Động Kinh Tế .......................................................................................... 18 2.3 Mối Tương Quan Với Thị Trường Vùng và Thế Giới ........................................... 21 2.4 Những Chính Sách Cần Thiết ..................................................................................... 25 CHƯƠNG III: LIÊN HỆ VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM ....... 27 2
  3. CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN CHÂU Á 1.1 Thị Trường Mới Nổi Thị trường chứng khoán châu Á đang phát triển khá qui mô và nhanh chóng. Từ năm 1990 đến 2005, vốn hóa của châu Á đã tăng hơn gấp đôi tương đương 13.7 nghìn USD , chiếm 30 phần trăm vốn hóa thế giới. Ngoại trừ Nhật Bản và Úc, đã tăng gần mười lần. Các trung tâm tài chính của Hồng Kông SAR, Singapore và Nhật Bản thống trị khu vực, chiếm hai phần ba tài sản vốn Châu Á lúc bấy giờ. Thị trường ở một số nước khác, chẳng hạn như Malaysia và Đài Loan cũng khá lớn. Tuy nhiên, đối với hầu hết các nơi, vốn hóa thị trường vẫn còn thấp hơn mức các nước công nghiệp. Sự tăng trưởng tại các thị trường châu Á đã dẫn theo thanh khoản và độ rộng thị trường được cải thiện.Từ năm 1990, thanh khoản thị trường (đo bằng vòng quay cổ phiếu) đã tăng gấp đôi so với GDP, trong khi tốc độ chu chuyển (vòng quay cổ phiếu / vốn hóa thị trường) đã tăng lên gần gấp bốn lần. Độ rộng thị trường (tỷ lệ vốn hóa thị trường và số lượng chiếm bởi 10 công ty lớn nhất-chiếm phần lớn thị trường) ở châu Á giờ đã lớn hơn trong thị trường mới nổi khác, mặc dù ít hơn so với các nước công nghiệp. Thị trường mới nổi trong bài viết đề cập đến chỉ bao gồm: Trung Quốc, Hồng Kông, Ấn Độ, Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines, Singapore, và Thái Lan. Tuy nhiên, có sự đa dạng đáng kể trong bức tranh toàn cảnh này. Thị trường chứng khoán ở Trung Quốc và Indonesia vẫn không thanh khoản tốt và ít tác động tới quy mô của nền kinh tế trong nước, so với mức tăng trưởng của phần còn lại của khu vực. Ở Trung Quốc, thị trường cổ phiếu sơ khai phản ánh sự hoạt động yếu kém công ty nhà nước, khi mà các công ty này chiếm khoảng một nửa tổng vốn hóa thị trường (theo Viện McKins ey Global, 2006a). Phần lớn các công ty thành công của Trung Quốc chọn niêm yết ở nước ngoài, chủ yếu ở Hồng Kông. Tại Indonesia, sự phát triển của thị trường chứng khoán đã bị cản trở bởi những yếu kém trong minh bạch thông tin, chính sách 3
  4. công bố thông tin và quản trị doanh nghiệp. Thị trường ở Philippines và Hồng Kông bị chi phối bởi một số ít các công ty này. Thị trường như Bhutan, nằm ngoài thị trường mới nổi, tập trung vào các nhà đầu tư quốc tế, phải đối mặt với thách thức duy nhất. Trong khi tài chính châu Á vẫn duy trì sự thống trị của các ngân hàng, thị trường chứng khoán cũng là một nguồn quan trọng của tài chính doanh nghiệp. Trong năm 2005, các công ty mới nổi châu Á khai thác thị trường cổ phiếu khoản 814 tỷ đô la bằng cách phát hành mới cổ phiếu thông qua các thị trường sơ cấp và thứ cấp (Table 1). Tuy nhiên, hoạt động phát hành được tập trung cao độ trong khu vực: Hồng Kông chiếm gần một nửa tổng số phát hành Châu Á, với thị trường lớn nhất tiếp theo (Ấn Độ) chiếm chỉ hơn một phần năm tổng số. Nhìn chung, cổ phiếu chiếm khoảng 10 phần trăm tài chính doanh nghiệp tại các thị trường mới nổi Châu Á, nhưng điều này khá cao so với 3,7 phần trăm trong thị trường mới nổi bên ngoài Châu Á. Cổ phiếu cũng là một phần lớn các tài sản tài chính trong khu vực, chiếm khoảng một nửa tài sản (tiền gửi, cổ phiếu, trái phiếu) (Figure 3 và 4). Tuy nhiên, cổ phiếu nói chung vẫn chưa phục hồi đến mức trước khủng hoảng châu Á. Sự phát triển của thị trưởng phái sinh cô phiếu Các phái sinh cổ phiếu, như các chứng khoán phái sinh nói chung, có thể chuyển nhượng những lợi ích nhưng cũng kéo theo những rủi ro được kiểm soát. Các chứng khoán phái sinh là một lựa chọn khác cho các nhà đầu tư kinh doanh trên thị trường chứng khoán cơ sở và thị trường tiền bổ sung bằng cách cung cấp các chứng khoán phòng chống rủi ro và cơ hội kinh doanh chênh lệch giá thấp. Phái sinh cổ phiếu như cổ phiếu đơn lẻ hoặc chỉ số tăng cường tính thanh khoản trong thị trường vốn tiền mặt, cải thiện giá bán và giảm chi phí danh mục đầu tư cho các doanh nghiệp. Đồng thời, sự dịch chuyển nhỏ về giá có thể có một tác động rất lớn trên tình hình tài chính của người tham gia trong các thị trường này, bởi vì các chứng khoán phái sinh thường thể hiện đòn bẩy đáng kể. 4
  5. Các phái sinh cổ phiếu đã phát triển mạnh trong một số thị trường ở châu Á. Trên sàn giao dịch châu Á, các phái sinh cổ phiếu đã chứng kiến sự tăng trưởng nhanh nhất của tất cả các sản phẩm phái sinh giao dịch. Chứng khoán phái sinh trong thị trường mới nổi châu Á đã mọc lên như nấm từ 16.5 nghìn tỷ đô la năm 2002 lên 40.3 nghìn tỷ đô la năm 2005 (tương đương 35,3 phần trăm giao dịch toàn cầu). Vào cuối tháng 8 năm 2006, các giao dịch chiếm thậm chí 38,6-43,9 phần trăm của giá trị trên toàn thế giới tính theo giá trị danh nghĩa và số lượng giao dịch tương ứng. Hầu hết các phái sinh cổ phiếu đều được giao dịch trên sàn (ETD), trái ngược với sàn giao dịch phái sinh ngoại hối và phái sinh lãi suất, chủ yếu được giao dịch ở OTC. Những sàn giao dịch chính thức ổn định đang dẫn đầu sự tăng trưởng tại các thị trường phái sinh châu Á, có thể được chia thành ba nhóm: (i) sàn giao dịch cổ phần hóa hoàn toàn (Hồng Kông SAR và Singapore), trong đó cung cấp một loạt các sản phẩm phái sinh, (ii) sàn giao dịch cổ phần hóa không hoàn toàn (Hàn Quốc, Ấn Độ và Malaysia), trong đó chuyên về các sản phẩm cổ phiếu giao sau và các sản phẩm chỉ số , và (iii) thị trường phái sinh không hoặc có giới hạn giao dịch trên sàn và giao dịch phái sinh OTC (Trung Quốc, Indonesia, Philippines, và Thái Lan). 5
  6. Sự phát triển rất nhanh tại thị trường Hàn Quốc nhờ vào những điều khoản hợp đồng rõ ràng và một môi trường kinh doanh thân thiện với các nhà đầu tư bán lẻ, tổ chức thị trường phái sinh năng động nhất trên thế giới. Trong năm 2005, giá trị giao dịch hàng ngày của nó đạt khoản 151 tỷ đô la, gần 34 phần trăm giao dịch trên toàn thế giới (83 phần trăm giao dịch trong tất cả các khu vực châu Á). Từ năm 2000, tăng trưởng giao dịch phái sinh nhìn chung ở Hàn Quốc, Hồng Kông, và Đài Loan POC đã vượt xa tốc độ tăng trưởng của cả hai vốn hóa thị trường trong nước và giao dịch tiền mặt trong thị trường cổ phiếu. Thị trường chứng khoán phái sinh của Ấn Độ cũng có quy mô đáng kể và thống trị giao dịch toàn cầu trong giao dịch giao sau. Thị trường chứng khoán phái sinh được ít nhiều được phát triển tốt ở các nước châu Á khác, ngay cả những nơi có thị trường tiền hoạt động mạnh mẽ. Biến thể trong sự phát triển thị trường phái sinh liên quan chủ yếu đến sự khác biệt về cơ sở hạ tầng trong hoạt động và pháp lý (Fratzscher, 2006). Điển hình như sự phát triển mạnh mẽ của các phái sinh cổ phiếu tại Hàn Quốc và Ấn Độ phản ánh một cơ sở hạ tầng và hoạt động pháp lý vững chắc. Trong khi đó, các quốc gia đang bị tụt hậu có cơ sở hạ tầng giao dịch yếu kém, bất cập trong luật tạo ra sự 6
  7. không chắc chắn về việc liệu các hợp đồng phái sinh có thể được thực thi (hoặc thậm chí cho dù các giao dịch phái sinh được cấp phép), quy định về thuế không thân thiện với các phái sinh, cấm bán khống, và những hạn chế về đầu tư nước ngoài. Để đạt được đầy đủ những lợi ích của thị trường phái sinh cổ phiếu nhằm thúc đẩy sự phát triển rộng lớn hơn thì cần sự quản lý chặt chẽ rủi ro đối với sự ổn định tài chính. Trong các nước châu Á mà không có các sàn giao dịch phái sinh chính thức, sự phổ biến của OTC phái sinh đòi hỏi phải chú trọng nhiều hơn về công bố và minh bạch, quản lý tốt và quản lý rủi ro. Rủi ro hệ thống có thể giảm được khi giao dịch xảy ra trong những sàn giao dịch được tổ chức và quản lý tốt , cần phải yêu cầu ký quỹ và giới hạn phù hợp , quản lý thanh toán bù trừ tập trung, giải quyết, tham gia vào giám sát thị trường, thực hiện đầy đủ công khai, và hỗ trợ rủi ro thông qua các thỏa thuận chia sẻ tổn thất, vốn tiền gửi của các thành viên, và tái bảo hiểm quá mức tổn thất quốc tế. Ngoài ra, cần người giám sát và cơ quan quản lý có thể xác định sự ảnh hưởng của các tổ chức tài chính có hệ thống quan trọng đối với thị trường phái sinh. Các giao dịch bán lẻ lớn các phái sinh có thể gây ra những thách thức riêng và có thể (về nguyên tắc) đòi hỏi đáng kể hiệu ứng phụ trên các lĩnh vực thực tế, ví dụ, một thị trường suy thoái mà gây thiệt hại trên diện rộng hộ gia đình có thể ảnh hưởng đến lòng tin và chi tiêu. Các quan chức các nước cần phải hiểu rõ vấn đề này đối với sự bảo vệ ổn định tài chính. 1.2 Những Nhân Tố Dẫn Đến Sự Phát Triển Đa dạng hóa các nhà đầu tư quốc tế Dòng vốn vào thị trường châu Á mới nổi đã tăng mạnh (Figure 6 và 7). Dòng vốn bơm vào đặc biệt mạnh mẽ trong những năm gần đây, mặc dù thỉnh thoảng cũng không tốt(đối với hầu hết các nước, chỉ có một phần của dòng vốn bơm những tháng đầu năm 2006 đã bị rút ra trong đợt bán tháo tháng 6.) Tính đến cuối năm 2004, các nhà đầu tư quốc tế đã đầu tư khoản 638 tỷ đô la trong thị trường cổ phiếu Châu Á mới nổi làm tăng gấp 12 lần so với những năm 1990. 7
  8. Theo đó, thị trường châu Á mới nổi nắm bắt ba phần tư các khoản đầu tư cổ phiếu toàn cầu trong thị trường mới nổi, tăng từ khoảng một nửa trong năm 1992. Một yếu tố cơ bản là sự bùng nổ của dòng chảy từ các quỹ cổ phần của thị trường mới nổi chuyên dụng, có tài sản đã tăng với tỉ lệ vượt quá 54 phần trăm mỗi năm kể từ năm 2000 (Figure 8). Với tài sản khoản 125 tỷ đô la, đây là các nhà đầu tư quan trọng trong khu vực. Nhưng con số này phản ánh thấp hơn sự hiện diện của các nhà đầu tư toàn cầu, kể từ khi thị trường châu Á có khả năng nắm bắt được một phần tài sản lớn hơn đáng kể được quản lý bởi các quỹ đầu tư toàn cầu. 8
  9. Các nhà đầu tư quốc tế hiện nay đóng một vai trò quan trọng trong nhiều thị trường châu Á. Các nhà đầu tư tập trung ở các thị trường như Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan-Trung Quốc, Ấn Độ và Singapore, với phân bổ danh mục đầu tư sang các nước ASEAN tương đối nhỏ. Tuy nhiên, ngay cả ở các quốc gia, trong đó cổ phần nước ngoài là tương đối nhỏ (Table 4), họ vẫn có thể sở hữu một phần lớn của cổ phiếu giao dịch (số tiền sẵn có cho giao dịch). Ví dụ, tại Ấn Độ, người nước ngoài sở hữu 20 phần trăm cổ phiếu của Morgan Stanley Capital International (MSCI), và ít hơn của toàn bộ thị trường, họ nắm giữ trên 80 phần trăm của cổ phiếu giao dịch tự do MSCI. Hội nhập tài chính: Việc kiểm soát các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán đã được nới lỏng theo thời gian. Kể từ đầu những năm 1990, những nền kinh tế như Tỉnh Đài Loan của Trung Quốc, Thái Lan và Hàn Quốc danh mục vốn đầu tư của người không cư trú tăng dần; Tỉnh Đài Loan đã loại bỏ hoàn toàn loại hình này trong năm 2003. Úc, Hồng Kông, Nhật Bản và Singapore thì mở cửa tương đối cho dòng vốn xuyên biên giới của người nước ngoài. Ngược lại, quyền hạn thường bị hạn chế đối với các tổ chức đầu tư nước ngoài hoặc nhà đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc và Ấn Độ, mức độ tham gia bị giới hạn bởi 9
  10. số lượng vốn hóa. Tuy nhiên, nhìn chung tỷ lệ vốn hóa thị trường châu Á được đầu tư theo S&P/IFC (một thước đo của Edison và Warnock đề xuất (2003) để đo lường sự mở cửa thị trường) có xu hướng tăng từ đầu những năm 1990, phù hợp với cổ phiếu tự do hóa thị trường. Nhà đầu tư nước ngoài đủ điều kiện hoặc là những người được đăng ký và được cấp phép của cơ quan quản lý để đầu tư vào thị trường chứng khoán của một quốc gia. Họ thường được giám sát bởi cơ quan quản lý quốc gia đó, bao gồm lương hưu, bảo hiểm và các quỹ tương hỗ, các ngân hàng, và ủy thác đầu tư. Bảng 5. Hạn chế về Danh mục đầu tư xuyên biên giới ở châu Á năm 2005 Luật định thoáng hơn Luật định hạn chế hơn Úc Thái Lan Trung Quốc Không hạn chế Đầu tư cổ phiếu của thành Những nhà đầu tư đạt chuẩn phần nước ngoài có nhiều được đầu tư cổ phiếu loại A hạn chế khác nhau. theo hạn ngạch-không quá 10% cô phần 1 công ty niêm yêt. Năm 2005, tổng hạn ngạch là 10 tỷ USD Bangladesh Indonesia Ấn Độ Những người không cư trú Những người không cư trú Nhà đầu tư nước ngoài bị tự do mua chứng khoán cổ tự do mua chứng khoán cổ mức giới hạn đầu tư như sau phiếu. phiếu, ngoại trừ những công : 24%( bảo hiểm), 49%( ty tài chính. Người không hàng không), 74%( ngân cư trú không thể năm giữ hàng). Không một nhà đầu hơn 1% trong bất kỳ quỹ tư nước ngoài nào được đầu tư nào. năm giữ hơn 10% cổ phần 1 công ty niêm yết. Hồng Kông Malaysia Sri Lanka Những người không cư trú Những người không cư trú Những người không cư chú tự do mua chứng khoán cổ tự do mua chứng khoán cổ có thể đầu tư 100% cổ phiếu phiếu. Đầu tư vào ngân phiếu. Mức giới hạn đầu tư vào những công ty đại hang trên mức giới hạn thì vào ngân hàng là 30% chúng và không đại chúng phải được phê duyệt. mà không cần phê duyệt, nhưng có những hạn chế và loại trừ nhất định. Nhật Việt Nam Những người không cư trú Mỗi tổ chức và cá nhân tự do mua chứng khoán cổ nước ngoải được phép là phiếu. 30% cổ phần niêm yết hiện hành. 10
  11. Hàn Quốc Những người không cư trú do mua chứng khoán cổ phiếu nhưng đầu tư vào ngân hàng nếu vượt quá 10% thì phải được phê duyệt. Singapore Không hạn chế Phillipines Những người không cư trú tự do mua chứng khoán cổ phiếu. Nguồn: Asia Bond monitor 2005; và Báo cáo thường niên IMF, 2005 Các luồng Danh mục đầu tư cổ phiếu trong nước tăng gần gấp ba so với 2001- 2004 đến 113,6 tỉ. Ngày nay, dòng mậu dịch trong khu vực chiếm hơn 15 phần trăm của tổng dòng vốn bên ngoài đổ vào, tăng từ dưới 10 phần trăm vào năm 2001 (Table 6). Tuy nhiên, các luồng vốn có nguồn gốc từ một vài quốc gia (chủ yếu là các trung tâm tài chính của Hồng Kông, Singapore và Nhật Bản). Hơn nữa, dòng mậu dịch nhận đượcvẫn còn nhỏ so với các luồng từ châu Á và các khu vực khác thế giới. Ví dụ, Nhật Bản, một trong những nguồn lớn nhất của danh mục đầu tư trong khu vực, đầu tư khoảng 7 phần trăm cho châu Á. Ngoài ra, qua các danh sách trong khu vực và lớn vẫn còn khiêm tốn (Bo x 1). 11
  12. Box 1: Danh sách và vốn chủ sở hữu nội nhập thị trường ở châu Á Niêm yết chéo có thể được coi như một kênh cho các công ty cá nhân hội nhập với thị trường cổ phiếu toàn cầu. Nhà đầu tư có cổ phần nước ngoài có thể dễ dàng giao dịch trong nước. Tổ chức phát hành có thể được hưởng lợi từ một cơ sở cổ đông mở rộng và phí bảo hiểm rủ i ro thấp hơn, tiếp cận thị trường nguồn vốn phát triển hơn và chi phí thấp hơn vốn, khả năng thanh toán tăng; tiết lộ thông tin tốt hơn và vùng phủ sóng của các nhà phân tích và quản trị doanh nghiệp tốt hơn. Các công ty trong một số quốc gia lớn nhất châu Á sở hữu những danh mục chéo quan trọng. Ví dụ, các công ty từ lục địa Trung Quốc trong vấn đề thị trường SAR Hồng Kông. Các công ty từ Ấn Độ thường niêm yết trên sàn giao dịch London và châu Âu khác. Nền kinh tế với các nhà xuất khẩu lớn và các công ty đa quốc gia (Hàn Quốc và Đài Loan POC) niêm yết chéo một cách tích cực trên thị trường chứng khoán Mỹ và châu Âu. 12
  13. Hầu hết các niêm yết chéo của các công ty châu Á xảy ra thông qua trao đổi phát triển tại Hoa Kỳ và Châu Âu. Thực tế này chỉ đơn giản là có thể phản ánh sự thống trị của thị trường chứng khoán được thành lập, mà gần đây được tăng cường do sáp nhập và liên minh. Nó có thể phần nào phản ánh những hạn chế của việc niêm yết chéo ở một số nước châu Á, ví dụ, công ty nước ngoài (ngoại trừ những người từ Trung Quốc đại lục) phải được kết hợp tại địa phương để được niêm yết tại Hồng Kông Phát triển tổ chức đầu tư cơ sở trong nước Các nhà đầu tư tổ chức trong nước đã nổi lên như một lực lượng tương đối mới trong thị trường chứng khoán châu Á. Giữa năm 2000 và 2004, trong thị trường nội địa, quỹ hưu trí và tài sản công ty bảo hiểm tăng gấp đôi lên hơn 36 phần trăm GDP từ sự mới nổi ở châu Á . Ở một số nước, một phần lớn tài sản công ty này không được đầu tư vào chứng khoán. Tuy nhiên, lĩnh vực này vẫn có tiềm năng lớn để phát triển, vì nó vẫn còn tương đối nhỏ để phát triển ở các quốc gia. (Tài sản tổ chức đầu tư Mỹ "bao gồm 160 phần trăm của GDP; Viện nghiên cứu McKinsey Global, 2006a và 2006b). Trong khi các nhà tổ chức đầu tư đóng vai trò lớn trong một số thị trường, thì trong một số trường hợp rào cản cơ cấu có thể cản trở sự tham gia của họ. Ở Trung Quốc, Indonesia, Philippines, Ấn Độ và Thái Lan, tài sản tổ chức đầu tư chiếm trung bình dưới 15 phần trăm của GDP (Năm 2004, con số này không bao gồm tài sản đầu tư tại Hồng Kông bởi các quỹ đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, tài liệu cho các khoản đầu tư của quỹ đầu tư tại Hồng Kông vào năm 2000 là không có sẵn), ít hơn một phần ba so với ở các thị trường phát triển hơn. Sự phát triển của tổ chức đầu tư dường như đã bị hạn chế bởi một số yếu tố (Ghosh, 2006) như sau: 1. Hạn chế về loại đầu tư có thể được thực hiện bởi các công ty bảo hiểm và trợ cấp (Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, và Philippines yêu cầu tổ chức tài sản được đầu tư vào chứng khoán của chính phủ hoặc tiền gửi ngân hàng). 2. Cạnh tranh từ các kế hoạch tiết kiệm được chính phủ đảm bảo (ví dụ, kế hoạch tiết kiệm nhỏ của Ấn Độ). 3. Sự giảm bớt chi tiêu bởi các kế hoạch trợ cấp lợi ích công cộng xác định (Hàn Quốc, Philippines, và Thái Lan). 4. Những rào cản pháp lý (ví dụ, luật lệ lỗi thời cản trở phát triển quỹ tương tế ở Philippines); và 13
  14. 5. Sự thống trị của nhà đầu tư nhỏ (ví dụ, ở Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan, yêu cầu về vốn thấp đã để lại ngành công nghiệp bảo hiểm bị phân mảnh). Theo đó, tại các thị trường các nhà đầu tư bán lẻ lại chiếm phần lớn lượng ngoại tệ giao dịch (khoảng hai phần ba ở Trung Quốc, khoảng 85 phần trăm ở Ấn Độ, Viện McKins ey Global, 2006a, b). Tuy nhiên, các xu hướng dưới cách này chưa thúc đẩy tăng trưởng của tổ chức đầu tư ở châu Á. Ví dụ, một số nước đã bắt đầu xây dựng hệ thống trợ cấp mới. Trong tháng 12 nă m 2005, Hàn Quốc cho phép công ty tư nhân thành lập xác định rõ lợi ích hoặc các hệ thống đóng góp, trong khi vào Tháng 7 năm 2005 t ỉnh Đài Loan của Trung Quốc giới thiệu một Quỹ trợ cấp lao động mới đã tích lũy được 7 tỷ nhân dân tệ. Tương lai, Thái Lan và Ấn Độ cũng có kế hoạch thiết lập hệ thống trợ cấp mới. Kiểm soát phân bổ tài sản của các tổ chức công cộng cũng đang được dần dần nới lỏng, trong một nỗ lực để thúc đẩy sự sụt giảm giá cả trở lại. Năm 2005, Trung Quốc đã cho phép Quỹ An Sinh Xã Hội quốc gia bắt đầu đầu tư vào chứng khoán, trong khi Ấn Độ cho phép quỹ ủy thác tư nhân dự liệu đầu tư lên đến 5 phần trăm tài sản của họ. Từ năm 2004, Quỹ Tiết Kiệm quốc gia của Hàn Quốc đã tăng lên và nắm giữ các cổ phiếu địa phương với mục đích đạt 10,7 phần trăm tài sản năm 2009. Sự phân phối cho thị trường chứng khoán lớn hơn trong một số quốc gia, 45 phần trăm tại Hồng Kông (Vittas, 2005) và 29 phần trăm ở Philippines. Loại bỏ kiểm soát về hoạt động quỹ đầu tư cũng đã hỗ trợ phát triển thị trường. Tại Ấn Độ, cạnh tranh tư nhân đã được đưa ra vào thị trường trong năm 1987, nhập cảnh nước ngoài lần đầu tiên được phép vào năm 1993. Ở Nhật Bản, Bưu điện Nhật Bản và ngân hàng tư nhân gần đây đã được phép bán ủy thác đầu tư cho công chúng, và Hàn Quốc đã công bố tầm nhìn dài hạn là trở thành một trung tâm tài chính khu vực có chuyên môn đặc biệt trong quản lý tài sản. Cải tiến trong cơ sở hạ tầng thị trường và quản trị 14
  15. Nỗ lực trong thập kỷ qua đã dẫn đến việc trong khu vực có một số thị trường kỹ thuật hiệu quả nhất trên thế giới (Bảng 7) và cũng đã được cải thiện quản trị doanh nghiệp. Về mặt kỹ thuật, hầu hết các nước trong khu vực đã phát triển hệ thống thanh toán bù trừ điện tử. Bước này cũng đã được tiến hành để tăng cường tính minh bạch của công ty và thông qua kế toán toàn cầu và công bố các tiêu chuẩn –việc này là quan trọng bởi vì con số quản trị doanh nghiệp nổi bật trong quyết định đầu tư. Quan trọng hơn, các quy tắc và các quy định về quản trị doanh nghiệp trên khu vực là tương đối mạnh. Điều đó nói rằng, khi có sự thay đổi nhỏ trên khắp các nền kinh tế châu Á (ví dụ) quyền hợp pháp của cổ đông, có sự khác biệt trong các yêu cầu về công bố thông tin và tính minh bạch và trách nhiệm của hội đồng quản trị (Cheung và Jang, 2005). Ví dụ, tỉnh Đài Loan của Trung Quốc không yêu cầu công bố cổ đông nắm giữ 5 phần trăm cổ phần của một công ty, nhưng Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Singapore, và Thái Lan yêu cầu công bố thông tin của 10 cổ đông hàng đầu và ngoài ra bất kỳ cổ phần nào nhiều hơn 5 phần trăm. Hồng Kông, Indonesia, Malaysia, và Singapore không yêu cầu công bố thông tin quản lý cổ phần. Ở Châu Á, chỉ có Trung Quốc, Malaysia, và Philippines yêu cầu tiếp tục đào tạo giám đốc hội đồng quản trị. Khảo sát về nhận thức của nhà đầu tư cho rằng vẫn còn sự khác biệt đáng kể trong việc thực hiện luật quản trị doanh nghiệp (Cheung and Jang 2005).Việc thực hiện này được xem là yếu nhất ở Trung Quốc và Philippines và mạnh nhất ở Singapore và Hồng Kông. Ngoài ra, trong khi tiêu chuẩn kế toán ở hầu hết các nước đã được cải thiện, có một số bằng chứng cho thấy có những cải tiến về tính minh bạch đã bị kìm lại ( IMF, 2006 WEO, Bo x 2.2; and De Nicolo, Laeven, and Ueda, 2006). 15
  16. 16
  17. CHƯƠNG II: HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN MỚI NỔI CHÂU Á 2.1 Sự Biến Động Về Giá Trong 5 năm qua, thị trường châu Á mới nổi đã vượt trội so với các thị trường trưởng thành nhưng bị tụt hậu so với thị trường mới nổi khác. Nhìn chung, giá cổ phiếu vẫn thấp hơn so với thời điểm đỉnh điểm trước khủng hoảng châu Á, trong khi chỉ số cổ phiếu ở châu Mỹ Latinh, châu Âu đang nổi lên, và Trung Đông vượt quá mức cao nhất năm 1990 của họ (có thể tăng lên nhờ giá hàng hóa tăng cao hoặc kỳ vọng sẽ gia nhập EU trong tương lai). Giá chứng khoán châu Á đã phản ánh một sự chuẩn bị cho một tiền đề nền tảng của nền tảng kinh tế tốt trong khu vực. Tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong một số quốc gia, trong bối cảnh của một toàn cầu mở rộng mạnh mẽ, mặc dù có sự tăng đột biến định kỳ trong giá dầu. Hơn nữa, lợi nhuận của công ty đã được vững chắc. Giá chứng khoán châu Á tăng trong khi đó lãi suất Mỹ đang thấp. Lãi suất của Mỹ ảnh hưởng đến chứng khoán châu Á thông qua sự lựa chọn danh mục đầu tư của các nhà đầu tư toàn cầu; cung cấp 1 công cụ đo lường tỷ lệ hồi vốn an toàn cho nhà đầu tư toàn cầu và được sử dụng để chiết khấu dòng tiền trong tương lai của thị trường chứng khoán. Ngoài ra, lãi suất của Mỹ cao hơn đôi khi trùng với động thái của các nhà đầu tư toàn cầu đối với tư thế phòng thủ nhiều hơn, chuyển đổi những tài sản rủi ro cao như các chứng khoán châu Á mới nổi thành những chứng khóan rủi ro thấp hơn. Như một kênh thứ ba, những thay đổi trong chính sách tiền tệ của Mỹ có thể báo hiệu một bước ngoặt trong nền kinh tế Mỹ, với những tác động tiềm năng tăng trưởng trong đối tác thương mại. Thật vậy, bước ngoặt trong giá cổ phiếu châu Á dường như để tương ứng với những thay đổi trong lãi suất ngắn hạn của Mỹ, mặc dù khá lỏng lẻo. Trong bối cảnh sự bùng nổ thị trường chứng khoán, biến động thị trường cổ phiếu châu Á mới nổi vẫn là một vài điểm phần trăm so với mức đạt được trong nửa đầu của năm 1990 (mặc dù nó là dưới mức cuối những năm 1990). Xem xét dữ liệu một số quốc 17
  18. gia cụ thể, tuy nhiên, mức tăng có vẻ là chủ yếu giới hạn ở Indonesia và Đài Loan tỉnh của Trung Quốc, và thấp hơn Hàn Quốc, thực sự, biến động dưới mức trước khủng hoảng trong một số thị trường khác. Biến động ở một số nước cao hơn so với đầu những năm 1990 có thể phản ánh việc mở cửa các thị trường châu Á cho nhà đầu tư nước ngoài, nhưng bằng chứng này thì còn ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Về nguyên tắc, sự gia tăng đầu tư trong sự mở cửa có nghĩa là thị trường châu Á được tiếp xúc nhiều hơn với sự bất ổn toàn cầu và những thay đổi trong tâm lý nhà đầu tư, và do đó có thể dễ biến động theo diễn biến tòan cầu hơn. Tuy nhiên, khi mở rộng sang thị trường, nơi mà có nhiều biến động hơn, có thể thị trường hiện tại cũng biến động theo. Nhưng nghiên cứu thực nghiệm đã không tìm thấy bằng chứng rõ ràng rằng tự do hóa làm tăng biến động. Bekaert và Harvey (2000) tìm thấy một sự gia tăng nhỏ nhưng thường không đáng kể trong biến động thị trường chứng khoán sau khi tự do hóa thị trường cổ phiếu. Sử dụng dữ liệu trước năm 1996, Holmes và Wong (2001) phát hiện ra rằng tự do hóa giảm biến động, hoặc không tăng lên, tại Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan-Trung Quốc. Hargis (2002), De Santis và Imrohoroglu (1997), và Claes sens (1995) báo cáo tương tự cho các thị trường mới nổi ở châu Mỹ Latinh và châu Á. Nhìn chung, không có xu hướng biến động một cách hệ thống liên quan đến việc mở cửa thị trường là đúng. Điều đó nói rằng, những thay đổi trong biến động trong thị trường châu Á, cũng như sự tương phản với sự phát triển của các thị trường mới nổi khác, vẫn đang nghiên cứu. 2.2 Những Hoạt Động Kinh Tế Nguồn dữ liệu có sẵn cho thấy rằng số lượng hộ gia định nắm giữ trực tiếp cổ phiếu vẫn còn nhỏ so với tiêu chuẩn quốc tế, nhưng đang trên đà gia tăng với nỗ lực thúc đẩy tiết kiệm tổ chức tư nhân. Tổng giá trị thuần của các hộ gia đình nằm trong khoảng 10% GDP ở những nước thu nhập thấp đến trên 300% GDP tại những nước có thu nhập 18
  19. cao. Như là một nguyên tắc, chỉ một phần nhỏ trong tài sản trực tiếp nắm giữ cổ phiếu, bởi vì các hộ gia đình nhìn chung ưa thích nắm giữ các công cụ tài chính an toàn như gởi tiết kiệm ngân hàng và trái phiếu chính phủ. Tại Ấn Độ, gần như ¾ tài chính hộ gia đình được nắm giữ dưới dạng tiền mặt, tiền gởi tiết kiệm và trái phiếu chính phủ (nguồn dữ liệu có sẵn bỏ sót việc nắm giữ các tài sản phi tài chính như vàng); tại Nhật khoảng 60% và tại Hàn Quốc khoảng 1/3. Ngược lại, tỉ lệ nắm giữ cổ phiếu trực tiếp của các hộ gia đình chiếm ít hơn 10% tài chính của họ. Cách giữ gián tiếp thông qua các tổ chức đầu tư được chú ý, từ đó gia tăng tỉ lệ năm giữ cổ phiếu của các hộ gia đình tăng 1/5 lên mức chiếm hơn ½ tổng tài chính hộ gia đình, là một chỉ tiêu lớn liên quan đến GDP tại một số quốc gia. Với một mức độ vừa phải, gia tăng nắm giữ cổ phiếu làm cho tài chính hộ gia đình nhạy cảm hơn với cái biến động của thị trường. Nắm giữ cổ phiếu trực tiếp có tính không ổn định hơn hai lần so với nắm giữ các khoản tiền gởi, phản ảnh thay đổi trong giá trị thị trường. Điều này có nghĩa là nắm giữ gián tiếp thông qua các tổ chức đầu tư ổn định hơn so với nắm giữa cổ phiếu trực tiếp, có thể phản ảnh hạn chế đầu tư đối với các tổ chức đầu tư như là quỹ hưu trí. Tác động trực tiếp của các tổ chức tài chính liên quan đến thị trường cổ phiếu khá giới hạn tại Châu Á. Ngoại trừ tỉnh Đài Loan - Trung Quốc, nơi các tổ chức tài chính trong nước là nơi phát hành các cổ phiếu, nắm giữ cổ phiếu trực tiếp bởi các tổ chức tài chính chiếm tỉ lệ rất nhỏ, nhìn chung là dưới 1% GDP và dưới 1% tổng tài sản thuần. Vì vậy các tổ chức tài chính quá dễ dàng bị tổn thương bởi mất mát trực tiếp từ giảm giá trị trái phiếu mà họ đang nắm giữ. 19
  20. Về danh mục đầu tư, các tổ chức tài chính đầu tư chủ yếu vào cổ phiếu, ngoại trừ thị trường Singapore các tổ chức tài chính có danh mục đầu tư đa dạng hơn đó là: cổ phiếu, bảo hiểm và các danh mục đầu tư bên ngoài khác. Đối với hộ gia đình tỉ trọng nắm giữ chứng khoán so với tổng tài sản thấp hơn 50% ngoại trừ thị trường Hàn Quốc là chiếm 55%. Các hộ gia đình đầu tư hơn 50% tổng đầu tư vào chứng khoán vào bảo hiểm và quỹ hưu trí, ngoại trừ thị trường Hàn Quốc đầu tư 66% vào cổ phiếu) Tóm lại, bản thân việc điều chỉnh thị trường cổ phiếu không tạo ra ảnh hưởng vi mô đến nền kinh tế Châu Á. Ngoài ra định giá tại một vài thị trường không quá cao. Hơn nữa, nguồn dữ liệu có sẵn chỉ ra rằng rủi ro đầu tư trực tiếp của các hộ gia đình và các tổ chức tài chính nhìn chung là khiêm tốn. Trong khi thị trường cổ phiếu đang trên đà tăng trưởng, hệ thống tài chính Châu Á vẫn phần lớn đầu tư vào ngân hàng. Điều đó có nghĩa, điều chỉnh thị trường cổ phiếu tạo ra ảnh hưởng lớn nếu nó xuất phát từ kinh tế vĩ mô rộng lớn hay từ sự ép tài chính – như, sự phát triển chậm của toàn cầu, hay tài chính suy yếu rộng khắp – và ngược lại nó sẽ làm tăng ảnh hưởng của những sức ép này lên các nước Châu Á. Dữ liệu về rủi rỏ thường rời rạc nên kết luận rút ra chỉ mang tính tạm thời. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1