
Tiểu luận: Các công cụ tài chính mà Chính phủ sử dụng sau khủng hoảng tài chính 2008
lượt xem 27
download

Đề tài Các công cụ tài chính mà Chính phủ sử dụng sau khủng hoảng tài chính 2008 nêu khủng hoảng tài chính 2008 và các công cụ tài chính của chính phủ, khái niệm chung, cuộc khủng hoảng thế giới năm 2008, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính đối với nền kinh tế Việt Nam, các công cụ tài chính chính phủ sử dụng sau khủng hoảng, chính sách tiền tệ. Đánh giá những tác động và kết quả đạt được sau khi thực hiện các chính sách trên.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Các công cụ tài chính mà Chính phủ sử dụng sau khủng hoảng tài chính 2008
- Các công cụ tài chính mà Chính phủ sử dụng sau khủng hoảng tài chính 2008 B môn TÀI CHÍNH CÔNG BÀI TẬP NHÓM 6 Lớp: VB2- Ngân Hàng 4/11/2013
- [CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013 Mục lục I. LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 3 II. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 2008 VÀ CÁC CÔNG CỤ TÀI CHÍNH CỦA CHÍNH PHỦ....................................................................................................................................... 5 1. Khái niệm chung ......................................................................................................... 5 2. Cuộc khủng hoảng thế giới năm 2008 .......................................................................... 7 3. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính đối với nền kinh tế Việt Nam .................... 14 4. Các công cụ tài chính chính phủ sử dụng sau khủng hoảng . ...................................... 19 4.1. Chính sách tiền tệ. .............................................................................................. 19 4.2. Đánh giá những tác động và kết quả đạt được sau khi thực hiện các chính sách trên: 24 5. Kết luận..................................................................................................................... 25 Tài chính Công- Nhóm 6 Page 2
- [CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013 I. LỜI MỞ ĐẦU Sự kiện khủng hoảng tài chính Mỹ diễn ra từ giữa năm 2007 kéo dài cho đến nay đã tác động nghiêm trọng tới nền kinh tế của hàng loạt quốc gia trên thế giới. Phạm vi ảnh hưởng và mức độ thiệt hại về kinh tế của cuộc khủng hoảng này là rất lớn, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày một sâu rộng như hiện nay. Nền kinh tế Việt Nam nói chung cũng không thể tránh khỏi những ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của nó. Vậy, khủng hoảng tài chính là gì? Cuộc khủng hoảng tại Mỹ bắt nguồn từ đâu? Tại sao một cuộc khủng hoảng tại Mỹ lại có thể tạo ra làn sóng ảnh hưởng lớn như vậy và như các quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam đã ứng phó với cuộc khủng hoảng ấy như thế nào? Những vấn đề này đã được nhóm 6 thực hiện nghiên cứu trong quá trình học tập bộ môn Tài chính công. Trong khuôn khổ của tiểu luận, nhóm sẽ chú trọng tìm hiểu bản chất của cuộc khủng hoảng tài chính, tác động của nó tới một số quốc gia trên thế giới và những hành động nhằm ứng phó với cuộc khủng hoảng này của Chính phủ Việt Nam. Tiểu luận được kết cấu với các phần: Khái niệm chung Cuộc khủng hoảng thế giới năm 2008 Tác động cuộc khủng hoảng tài chính đối với nền kinh tế Việt Nam Các công cụ tài chính chính phủ sử dụng sau khủng hoảng Kết luận Các thành viên nhóm 6 bao gồm: Dương Thị Ngọc Điệp- MSSV: 12120066 Vũ Thị Hiền- MSSV: 12120171 Nguyễn Thị Hoa- MSSV: 12120186 Bùi Thị Lê- MSSV: 12120294 Phạm Thị Thu Phương- MSSV: 12120419 Phạm Thị Phượng- MSSV: 12120426 Vũ Hoài Thu- MSSV: 12120530 Nguyễn Thị Hào- MSSV: 12120151 Tài chính Công- Nhóm 6 Page 3
- [CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013 Do đề tài trên đây là một lĩnh vực rộng lớn và phức tạp nhưng thời gian nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn còn nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy nhóm rất mong nhận được ý kiến đóng góp của cô giáo để đề tài được hoàn thiện hơn Trân trọng và cảm ơn, Nhóm 6 Tài chính Công- Nhóm 6 Page 4
- [CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013 II. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 2008 VÀ CÁC CÔNG CỤ TÀI CHÍNH CỦA CHÍNH PHỦ 1. Khái niệm chung Khủng hoảng tài chính là sự mất khả năng thanh khoản của các tập đoàn tài chính, dẫn tới sự sụp đổ và phá sản dây chuyền trong hệ thống tài chính. Các loại khủng hoảng tài chính. Khủng hoảng ngân hàng Đây là tình trạng diễn ra khi các khách hàng đồng loạt rút tiền ồ ạt khỏi ngân hàng. Vì ngân hàng cho vay phần lớn số tiền gửi vào nên khi khách hàng đồng loạt rút tiền, sẽ rất khó để các ngân hàng có khả năng hoàn trả các khoản nợ. Sự rút tiền ồ ạt có thể dẫn tới sự phá sản của ngân hàng, khiến nhiều khách hàng mất đi khoản tiền gửi của mình, trừ phi họ được bồi thường nhờ bảo hiểm tiền gửi. Nếu việc rút tiền ồ ạt lan rộng sẽ gây ra khủng hoảng ngân hàng mang tính hệ thống. Cũng có thể hiện tượng trên không lan rộng, nhưng lãi suất tín dụng được tăng lên (để huy động vốn) do lo ngại về sự thiếu hụt trong ngân sách. Lúc này, chính các ngân hàng sẽ trở thành nhân tố gây ra khủng hoảng tài chính. Khủng hoảng trên thị trường tài chính Khủng hoảng trên thị trường tài chính thường xảy ra do hai nguyên nhân chính: do các chính sách của Nhà nước và do sự tồn tại của các bong bóng đầu cơ. Yếu tố đầu tiên phải nói đến, đó chính là các chính sách của Nhà nước. Khi nhà nước phát hành tiền nhằm trang trải cho các khoản thâm hụt ngân sách, điều này sẽ gây ảnh hưởng tới tỷ giá cố định. Người dân sẽ mất lòng tin vào nội tệ và chuyển sang tích trữ bằng các loại ngoại tệ. Khi đó dự trữ ngoại tệ của Nhà nước sẽ cạn dần, Nhà nước buộc phải từ bỏ tỷ giá cố định và tỷ giá sẽ tăng. Thêm vào đó, trên thị trường lại luôn tồn tại những “bong bóng” đầu cơ, ẩn chứa nguy cơ đổ vỡ. Khi hầu hết những người tham gia thị trường đều đổ xô đi mua một loại hàng hóa nào đó trên thị trường tài chính (chẳng hạn như cổ phiếu, bất động sản), nhưng không nhằm mục đích đầu tư lâu dài, mà chỉ mua với mục đích đầu cơ, với hi vọng sẽ bán ra với giá cao hơn và thu lợi nhuận, điều này đẩy giá trị của các hàng hóa này lên cao, vượt quá giá trị thực của nó. Tình trạng này xảy ra sẽ kéo theo những nguy cơ đổ vỡ trên thị trường tài chính, do các nhà đầu tư ngắn hạn kiểu trên luôn mua và bán theo xu hướng chung trên thị trường: họ mua vào khi thấy nhiều người cùng mua, tạo những cơn sốt ảo trên thị trường và bán ra khi có nhiều người cùng Tài chính Công- Nhóm 6 Page 5
- [CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013 bán, gây tình trạng rớt giá, họ không cần hiểu biết nguyên do khi nào cần mua vào, khi nào cần bán ra nên gọi là “tâm lý bầy, đàn”. Khủng hoảng tài chính thế giới Khi một quốc gia có đồng tiền mạnh đột ngột phá giá đồng tiền của mình hoặc khi một nước mất đi khả năng hoàn trả các khoản nợ quốc gia, gây khủng hoảng tiền tệ. Khủng hoảng tài chính trong các tập đoàn Kinh tế: Các tập đoàn thường vướng vào khủng hoảng tài chính do 2 lý do chủ yếu: do các kế hoạch đầu tư không đúng đắn, không thu hồi được vốn đầu tư, dẫn tới việc không thanh toán được các khoản vay để đầu tư dẫn tới phá sản. Do bị hiệu ứng dây chuyền từ khủng hoảng chung, khi đó các doanh nghiệp không vay được vốn để đầu tư hoặc các dự án đầu tư không thu hồi được vốn do tình trạng khủng hoảng. Một số hướng giải quyết Giải toả được những hoảng sợ về thanh khoản, về tính lỏng bằng 2 chiến lược là cung cấp thanh khoản cho thị trường và thuyết phục các thành viên thị trường rằng họ không cần phải ngay lập tức bán đi các tài sản của mình. Để thị trường yên tâm thì cần có một cơ chế bảo hiểm tiền gửi hoạt động tốt. Người đóng vai trò là cho vay cuối cùng là Ngân hàng trung ương sẽ cung cấp thanh khoản cho thị trường và để thị trường tự phân bổ, điều tiết lượng thanh khoản đó. Khi đó, côn cụ chính sách tiền tệ gián tiếp hữu hiệu giúp NHTW cho vay là nghiệp vụ thị trường mở với các giao dịch mua bán lại tín phiếu Kho bạc do Chính phủ phát hành. Ngoài công cụ chính sách tiền tệ gián tiếp là cho vay trên nghiệp vụ thị trường mở, cho vay trực tiếp với lãi suất phạt. NHTW ở tình thế rất khó khăn do phải bảo vệ tỷ giá trong khi thị trường cho rằng cuối cùng thì việc bảo vệ tỷ giá không quan trọng bằng các mục tiêu vĩ mô và đến một lúc nào đó thì đồng tiền sẽ giảm giá. Thuế và các hạn chế khác có thể không khuyến khích các nhà đầu tư dài hạn và có khi còn làm trầm trọng thêm tình hình.Việc cần làm là giải quyết khủng hoảng thanh toán để hạn chế thiệt hại bằng cách: loại bỏ những không chắc chắn của nhà đầu tư về tính trong sạch của các thể chế cá nhân. Thêm vào đó, buộc các thể chế này phải xử lý những vấn đề về tài sản của mình như định giá thấp… và bán cho cơ quan cơ cấu lại nợ của Chính phủ. Điều này làm tăng tính lỏng và giảm bớt khó khăn cho người cho vay – ngân hàng. Tuy nhiên, để giải quyết khủng hoảng tài chính triệt để thì cần phải ngăn chặn nó bằng cơ chế giám sát, thanh tra và các công cụ, kỹ thuật thích hợp. Tài chính Công- Nhóm 6 Page 6
- [CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013 2. Cuộc khủng hoảng thế giới năm 2008 Năm 2008 được coi như là một năm tồi tệ nhất của nền kinh tế thế giới trong nhiều thập niên qua. Khởi đầu từ một sự suy giảm nhẹ của nền kinh tế Mỹ rồi gia tốc thành một cuộc khủng hoảng tín dụng và tài chánh lan rộng trên toàn thế giới. Năm 2008 bắt đầu bằng dấu hiệu là nền kinh tế Hoa Kỳ chậm lại nhưng không có một dấu hiệu cảnh báo nào về một sư tan rã của nền tài chánh sẽ đến. Vào tháng 2 năm nay, Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua một số biện pháp thúc đẩy nền kinh tế bằng những ngân phiếu trả lại bớt tiền thuế cho dân để giảm bớt ảnh hưởng của điều mà các kinh tế gia cho là sự đi xuống không đáng kể của nền kinh tế Mỹ. Nhưng đến tháng Ba thì người ta bắt đầu chứng kiến một chuỗi sự sụp đổ hoặc bị mua lại của các Công ty đầu tư địa ốc lớn nhất nước Mỹ, các định chế tài chánh, các công ty cho vay, các ngân hàng và các công ty bảo hiểm. Tất cả những công ty này đã có liên hệ đến chuyện đầu tư vào ngành tín dụng địa ốc từng có lúc đã phát đạt tột bực. Các khoản đầu tư kinh doanh này đã xuống dốc khi giá nhà bắt đầu hạ giảm và khi con số người vay tiền mua nhà không trả nổi nợ cho ngân hàng tăng vọt . Giá dầu thô trên thế giới cao đến mức kỷ lục cũng góp phần vào cuộc khủng hoảng kinh tế. Khi cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu diễn ra, dường như nó chỉ là một đốm lửa trên đỉnh núi. Nhưng trong thế giới kết nối mà chúng ta đang sống, đốm lửa nhỏ ấy đã mở đầu cho một đám cháy lớn. Cơn chấn động trên Phố Wall đã tác động đến tất cả những ai có liên quan đến tài chính. Dưới đây là một số câu chuyện ghi lại từ những thị trường tài chính Âu, Á nơi ngọn lửa đã bùng cháy và tiếp tục lan xa. Hồng Kông, Trung Quốc Sự gặm nhấm tiền bạc Cách đây không lâu, các doanh nhân Mỹ đổ xô tới các hội chợ thương mại tại Quảng Châu, Trung Quốc để tìm kiếm những thoả thuận mua bán từ những nhà máy ở miền nam nước này. "Người Mỹ nổi tiếng vì một việc," Ken Melwani, giám đốc công ty thương mại Nikita có trụ sở tại Hồng Kông, chủ sở hữu 10 nhà máy sản xuất đồ lót phụ nữ tại Trung Quốc để xuất khẩu sang Mỹ Latinh và châu Phi nói: "Họ không quan tâm tới số lượng. Họ chỉ muốn biết: "Giá bao nhiêu?". Năm nay, Melwani nhận thấy rằng những người mua hàng Mỹ đã không đến nữa. Và còn có một điều gì đó khác nữa. Ngân hàng của ông cũng đã ngừng thúc đẩy các khoản cho Tài chính Công- Nhóm 6 Page 7
- [CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013 vay. Melwani nhận định: "Chắc chắn mọi việc đã thay đổi vào đầu năm nay. Họ không còn sẵn lòng khuyến khích sự vay mượn". Hồng Kông, trung tâm tài chính và đầu não quản lý của khu vực Trung Quốc thường được gọi là nhà máy của thế giới, là một thành phố giàu có. Tuy nhiên, ngay cả tại đây, sự túng quẫn tín dụng toàn cầu đang gây khó khăn hơn cho các doanh nghiệp trong việc vay tiền để trang trải các nhu cầu ngắn hạn. "Hiện tại, chúng tôi đang đối mặt với rắc rối. Chúng tôi không nhận được các đơn đặt hàng lặp lại như đáng lẽ phải được nhận. Và các ngân hàng cũng đang cảnh báo rằng họ có thể cắt giảm tín dụng của chúng tôi trong tương lai", Tommy Lam, chủ một nhà máy may mặc ở Dongguan, một trung tâm sản xuất của Trung Quốc gần Hồng Kông, cho biết. Lam nói công ty của ông hiện trong tình trạng tài chính tốt và sẽ vượt qua cơn bão tài chính. Tuy nhiên, các công ty Hồng Kông khác - đặc biệt những công ty đã đầu tư một số vốn của họ vào bất động sản và chứng khoán - đang đối mặt với tình trạng thiếu tiền mặt ngày càng nghiêm trọng. Vào ngày 9/10, một nhà bán lẻ quần áo, với khoảng 100 đại lý ở Hồng Kông và 500 đại lý khác ở Trung Quốc, đã buộc phải đóng cửa sau khi không thể đáp ứng các yêu cầu của ngân hàng về việc hoàn trả những khoản nợ. Các chuyên gia phân tích cho rằng công ty đã vay quá nhiều và mở rộng quá nhanh chóng nhằm vội vàng bắt kịp làn sóng kinh tế của Trung Quốc. Khi kinh tế toàn cầu phát triển chậm lại, điều đó dường như trở thành một điệp khúc quen thuộc - và kết quả là những người cho vay đang ngày càng xem xét kĩ lưỡng các tờ quyết toán cũng như các báo cáo lưu chuyển tiền của khách hàng để tìm những dấu hiệu căng thẳng có thể dẫn tới sự vỡ nợ. Một nữ doanh nhân Hồng Kông, người yêu cầu không được nêu tên vì sợ gây hoang mang cho chủ nợ vốn đã dễ bị kích động, tiết lộ các chủ ngân hàng của bà mới đây đã tới văn phòng của bà để kiểm tra sổ sách kế toán. "Năm tới sẽ là một cuộc sát hạch thực sự đối với nhiều công ty. Nếu không có thêm tiền mặt mới thì sẽ không còn lựa chọn nào khác là thu hẹp quy mô kinh doanh. Nếu điều đó xảy ra, sẽ có rất nhiều người mất việc làm", bà dự đoán. New Delhi, Ấn Độ Giấc mơ tan vỡ Tài chính Công- Nhóm 6 Page 8
- [CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013 Sandeep Goyal, một kĩ sư phần mềm ở New Delhi thì thầm: "Không ai dám đề cập tới từ cổ phiếu trong ngôi nhà của chúng tôi hiện giờ, đặc biệt khi cha đang quanh quẩn đâu đây". Điều đó nhanh chóng được chứng minh tại sao. Cha của Goyal, một giám đốc ngân hàng về hưu, đang theo dõi một bài thuyết pháp tôn giáo trên truyền hình qua một chiếc TV màn hình phẳng hiệu Sony, đặt bên cạnh một máy tính xách tay HP mới, sáng bóng của anh. Đây là một dấu hiệu dễ thấy về sự giàu có sung túc mới trong phòng khách ngôi nhà khiêm tốn của gia đình Goyal. Cựu giám đốc ngân hàng nói một cách buồn bã: "Tôi đã cảnh báo con rằng không bao giờ được đặt cược mọi thứ vào một kế hoạch. Nó đáng lẽ phải đầu tư vào trái phiếu chính phủ và các tài khoản tiết kiệm ngoài cổ phiếu".Giống như hàng triệu người Ấn Độ khác được nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ tiếp thêm sự gan dạ, Goyal, 28 tuổi, đã đầu tư vào cổ phiếu và tin tưởng rằng các khoản lợi nhuận có vẻ chắc chắn sẽ giúp mang tới một phong cách sống sung túc. Anh cảm thấy rất khó khăn để chấp nhận sự sụp đổ trong các thị trường tài chính toàn cầu. Chỉ số Sensex của Ấn Độ đã giảm 45% từ đỉnh điểm hồi tháng 1, giá trị tài sản ròng của gia đình Goyal, vốn được gây dựng qua nhiều năm, đã bị hao hụt trong vài tuần. Từ 12.000 USD, danh mục đầu tư của họ đã giảm xuống tới 4.000 USD - tổng cộng tổn thất cao hơn một nửa số lương hàng năm mà Goyal nhận được từ công việc của anh cho một công ty có trụ sở ở Mỹ. Trước khi rời phòng khách, cha của Sandeep đưa ra một câu bình luận đanh thép: "Tham lam chẳng tốt một chút nào". Lại có thêm nhiều tin tức tồi tệ đổ dồn về qua chiếc Sony của gia đình Goyal suốt mấy tuần vừa qua: tỉ lệ tăng trưởng của nền kinh tế Ấn Độ dự kiến sẽ giảm từ 9% xuống còn 8% hoặc thấp hơn nữa; những lời đồn đại vô căn cứ rằng ngân hàng tư nhân lớn nhất nước này - ICICI, đã bị mắc kẹt trong sự rối loạn của thị trường cho vay dưới tiêu chuẩn, gần như đã gây ra một vụ rất tiền ồ ạt của các khách hàng; Jet Airways, hãng hàng không nội địa lớn nhất, đang sa thải hàng trăm nhân viên. Không có bầu không khí vui vẻ nhất của một đám cưới. Goyal sẽ cưới vợ trong hai tháng nữa. Anh nói vẻ đầy nuối tiếc: "Tôi từng muốn đi Singapore hưởng tuần trăng mật và mua một chiếc xe ôtô mới nhưng bây giờ khó có thể thực hiện những giấc mơ như vậy. Chúng tôi đã chứng kiến một vài năm thật tuyệt vời. Chúng khiến bạn tin rằng nếu bạn làm việc chăm chỉ bạn có thể lớn mạnh nhanh chóng". Tài chính Công- Nhóm 6 Page 9
- [CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013 Tuy nhiên, niềm tin của Goyal về tương lai đã bị chao đảo. "Tôi cảm thấy lo sợ rằng nếu mọi việc cứ tiến triển theo cách này, tôi có thể mất việc. Dẫu vậy, có một điều mà tôi chắc chắn là: tôi sẽ không bao giờ mua cổ phiếu một lần nào nữa". Reykjavík, Iceland Tài sản đóng băng Trong tiếng Iceland, các từ tiền bạc và con cừu là giống nhau. Tuy nhiên, trong những điều kiện kinh tế hiện tại của Iceland thì đùa cợt là một cách quan tâm, chỉ một người sẽ đặt thức ăn lên bàn và đặt áo lên lưng bạn (khi bạn ăn thịt cừu và mặc đồ len làm từ lông cừu). Với sự sụt giảm của tiền tệ và sự khốn đốn của ngành công nghiệp ngân hàng thì người dân Iceland đang nhanh chóng mất đi việc làm, các khoản tiết kiệm và công việc làm ăn. Chính phủ e ngại rằng một số người thậm chí sẽ đánh mất lý trí: cách đây vài ngày, Bộ Y tế Iceland đã thành lập một trung tâm sức cấp cứu sức khoẻ tâm thần ở trung tâm Reykjavík nhằm giúp các công dân bị khủng hoảng vì cuộc khủng hoảng kinh tế trong nước. Nằm trên tầng hai của một trạm y tế cũ, trung tâm sẵn sàng điều trị cho một số lượng lớn những người dân Icelander bị đau ốm về mặt tinh thần. Dẫu vậy, công việc cũng tiến triển rất chậm chạp. Tiến sĩ Ragnar Ólafsson, một trong hai chuyên gia tâm lý làm việc toàn thời gian cho trạm xá, đang nhấm nháp một chiếc sandwich một mình trong văn phòng của ông lúc 1:30 giờ chiều ngày 13/10. "Cho tới thời điểm hiện tại, chẳng có mấy người tìm đến đây", ông nói. Thoáng nhìn, có rất nhiều dấu hiệu của một cuộc sống tốt đẹp đã trở nên thân thuộc đối với một đất nước có 320.000 người này. Bãi đỗ xe của trung tâm mua sắm Kringlan thuộc Reykjavík tràn ngập những loại xe láng bóng như Audis, Range Rovers và Mercedes. Tuy nhiên, bên trong khu mua sắm, những người Iceland tóc vàng đang rảo bước với vẻ mệt mỏi. "Tôi có thể thư giãn như thế nào đây khi dễ dàng nhận thấy rằng mọi thứ mà tôi tích cóp cả đời đã mất hết", một nhà tư vấn quảng cáo mắt đỏ hoe diện áo len và dép lê nói khi ngồi trong một quán ăn. Vào tuổi 61, ông đã bị mất hầu hết các khoản tiết kiệm lương hưu trong cuộc suy thoái của ngành ngân hàng. "Đó là niềm hãnh diện của một con người, một người dân Iceland. Tôi đã bị tước đoạt nó". Bộ trưởng Y tế Gudlaugar Thór Thórdarson đồng ý rằng Iceland đang phải chống chịu một cú sốc tinh thần, "đặc biệt khi Gordon Brown áp dụng luật chống khủng bố chống lại Iceland", ông Thórdarson nói, ám chỉ tới động thái mới đây của Thủ tướng Anh nhằm viện Tài chính Công- Nhóm 6 Page 10
- [CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013 dẫn luật chống khủng bố để đóng băng các tài sản của các công ty Iceland tại đảo quốc sương mù. "Người dân đất nước tôi không chủ hứng chịu cơn bão tài chính mà điều đó còn khiến chúng tôi cảm thấy tồi tệ. Người Iceland luôn tự coi mình là một dân tộc độc lập và hiện tại chúng tôi đơn giản không thể độc lập". Các doanh nghiệp địa phương đang cố gắng động viên người dân bằng những hành động hào phóng. Một nhà hàng ở Reykjavík - Á naestum grösum, đã biến mình thành một bếp nấu súp, miễn phí cho người dân Iceland một bát súp lúa mạch kèm rau và một lát bánh mỳ, trong khi ở cuối con phố đó, một số ít quán bar đã bán "bia thời suy thoái" với gián 2,60 USD/ 1 cốc thay vì với giá thông thường là khoảng 6 USD. Tuy nhiên, trước việc có nhiều cuộc cắt giảm nhân công hơn và tình trạng lộn xộn ngày càng nghiêm trọng thì đất nước này cần hơn một cử chỉ hảo tâm và một vại bia giá rẻ để được giải cứu khỏi sự tuyệt vọng về kinh tế. Hitachi, Nhật Trung tâm buôn bán lớn đóng cửa Đối với Taira Kamoshida, người sáng lập và chỉ sở hữu chuỗi dịch vụ giặt khô ở thành phố nhỏ Hitachi (có khoảng 195.000 dân) thì tin tức tồi tệ xuất hiện như một tia sét giáng xuống từ trời xanh. Ngày 26/9, văn phòng quản lý báo với Kamoshida rằng trung tâm buôn bán chính của Hitachi đang đóng cửa và một trong những cửa hàng giặt khô tại đây đã ngay lập tức ngưng hoạt động. "Không hề có dấu hiệu nào về sự đóng cửa. Ngược lại, cửa hàng của tôi cuối cùng đã bắt đầu bứt phá và thậm chí bắt đầu hướng tới thời kỳ làm ăn dư giả. Tôi đã thực sự trông đợi điều đó". Kamoshida không phải là người duy nhất bị bất ngờ khi Nhật phải đối phó với những tác động dây chuyền của cuộc khủng hoảng. Trung tâm buôn bán lớn, Sakura City, khai trương hồi cuối năm 2006 với sự khuyếch trương ầm ĩ và ban đầu thu hút khoảng 60 gian hàng, kể cả một siêu thị duy nhất trong khu vực. Theo Tadayasu Yamamoto, Chủ tịch Hội đồng Thương mại và Công nghiệp của thành phố Hitachi, việc trung tâm này đóng cửa đã làm khoảng 400 người mất việc và hậu quả thì vượt ra khỏi cộng đồng. "Các chủ cửa hàng của những khu vực mua sắm lân cận cũng như khách hàng của họ đang gặp rắc rối. Chúng tôi không thể để niềm hy vọng của thành phố bị dập tắt", ông Yamamoto cho biết. Tài chính Công- Nhóm 6 Page 11
- [CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013 Tuy nhiên, ông Yamamoto không thể làm gì để duy trì các tia hy vọng. Những người điều hành trung tâm mua sắm đã phải trả các khoản chi phí hàng ngày thông qua nguồn vốn vay của một chi nhánh của Lehman Brothers, một ngân hàng đầu tư Mỹ hiện đã phá sản. Sau sự sụp đổ gây tác động lớn của ngân hàng Lehman, trung tâm đã mấy đi nguồn cung cấp tài chính, không thể chi trả các chi phí hoạt động và buộc phải đóng cửa. Những người thuê gian hàng phải rời khỏi trung tâm trong vòng vài ngày. Họ được thông báo rằng họ sẽ không được nhận lại tiền đặt cọc. Kamoshida không thể vượt qua cảm giác hoàn toàn bị tấn công bất ngờ. Ông bộc bạch: "Tôi không biết ngân hàng Lehman Brothers đã làm điều gì với nó. Khi tôi nghe thấy ngân hàng Lehman sụp đổ, tôi đã nghĩ rằng đó là một vấn đề của ai đó ở một nơi rất xa xôi. Tuy nhiên, rốt cuộc, tôi phải lo lắng về mọi thứ, phải không?". Paris, Pháp Thực đơn phá sản Quấn quanh mình bằng một cái tạp dề màu nâu khi đón khách bằng một chất giọng hồ hởi, trầm ấm, François Bonduel sở hữu một nhà hàng ở Paris thuộc loại được du khách và người dân địa phương ưa chuộng. Dẫu vậy, những ngày này, khi đồng euro vẫn còn mạnh và các nền kinh tế đột ngột ngừng trệ khắp toàn cầu thì các du khách ngoại quốc vốn chiếm 1/3 số thực khách thường xuyên của Bonduel đang ngày càng ít đi và chi tiêu ít hơn. Vấn đề càng tồi tệ hơn khi nhiều du khách Pháp tới nhà hàng của ông, Au Bon Saint- Pourçain, cách không xa nhà thờ Saint-Sulpice ở quận thứ 6 của thành phố Paris hoa lệ - cũng đang ăn ít hơn và uống ít hơn thường lệ. "Tôi đã kiểm tra sổ sách và tôi nhận thấy mình chẳng có đồng lãi nào trong tháng này", ông Bonduel nói. Với 20 năm làm việc và tích luỹ, ông Bonduel, 57 tuổi, cảm thấy ông sẽ có thể thoát khỏi cơn bĩ cực này. Tuy nhiên, ông thừa nhận rằng việc chi tiêu ngày càng khiêm tốn hơn của các thực khách đã buộc ông phải có một số thay đổi. "Lần đầu tiên, tôi đã đóng cửa nhà hàng hồi tháng 8 và đi nghỉ vì không ai tới ăn. Tôi tự mình làm việc giặt giũ. Chúng tôi đã ngừng gửi các khăn trải bàn tới hiệu giặt là và buộc phải tiết kiệm tiền. Tôi cũng buộc phải để một trong các đầu bếp ra đi... Chúng tôi sẽ ổn nhưng chúng tôi đang phải siết chặt tiền công". Không phải mọi người đều may mắn như vậy. Nghiên cứu mới đây cho thấy khả năng mua hàng giảm và nỗi sợ hãi của người tiêu dùng về sự suy sụp ngày càng tăng của nền kinh tế đã khiến việc chi tiêu cho các quán cà phê và nhà hàng ở Pháp đã sụt giảm khoảng 20% trong năm nay. Gần 3.000 nhà hàng ở nước này đã phải đóng cửa hoặc phá sản chỉ trong nửa đầu năm 2008. Tài chính Công- Nhóm 6 Page 12
- [CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013 Làn sóng thất bại đó có thể lan rộng khi những người mới trong lĩnh vực kinh doanh này, vốn dựa vào các khoản vay ngân hàng để khởi nghiệp bắt đầu cảm thấy họ bị kéo căng ra để trả nợ khi việc kinh doanh ế ẩm. "Nếu tôi 30 tuổi và bắt đầu với các khoản vay phải hoàn trả thì tôi đang gặp rắc rối lớn", Bonduel, người cảm thấy bớt căng thẳng vì phần lớn các khách hàng của ông là cư dân ở khu giàu có lân cận, thổ lộ. "Tôi thật may mắn. Mọi thứ đối với tôi chỉ khó khăn chứ không phải là không thể bảo vệ được". La Sagra, Tây Ban Nha Khủng hoảng gạch Người Tây Ban Nha ví sự sụp đổ của các ngành công nghiệp xây dựng và bất động sản một thời bùng nổ của họ là "một cuộc khủng hoảng gạch". Tại La Sagra, người ta hiểu cụm từ đó theo nghĩa đen. Toạ lạc ở khu vực cách Madrid khoảng 65km về phía nam, hạt giàu tài nguyên đất sét này sản xuất ra gần 30% lượng gạch ở Tây Ban Nha và tự hào về việc tập trung các công trình bằng gạch đồ sộ nhất ở châu Âu. Tuy nhiên, hiện giờ, các nhà máy của La Sagra không sản xuất ra nhiều thứ gì nữa. "Các kho hàng đều đầy ắp. Họ không biết bán gạch cho ai", Carlos Duque, tổng thư kí chi nhánh của công đoàn thợ xây dựng MCA-UGT ở Castilla-La Mancha cho hay. Cư dân của hạt này không phải tìm kiếm nguyên nhân ở đâu xa. Sự đổ vỡ của bong bóng phát triển trong ngành bất động sản Tây Ban Nha đã đẩy rất nhiều nhà kinh doanh bất động sản lớn vào tình cảnh phá sản và ngưng hoạt động xây dựng trên khắp cả nước. Số các ngôi nhà được xây dựng năm 2008 dự kiến sẽ giảm 70% so với năm 2007. Điều đó đã nuôi dưỡng nạn thất nghiệp, vốn đã tăng vọt thêm gần 1/3 trong tháng 9, đạt mức 11,3%, tỉ lệ thất nghiệp cao nhất ở Tây Ban Nha kể từ năm 1997. La Sagra đã cảm nhận được tình thế cam go cách đây vài tháng. "Hoạt động xây dựng bắt đầu thực sự xuống dốc hồi tháng 2 hợc tháng 3 cùng với cuộc khủng hoảng thị trường cho vay dưới tiêu chuẩn Mỹ và đó là thời điểm mà các kho chứa gạch bắt đầu đầy lên", ông Duque tiết lộ. Rất nhiều công trình xây bằng gạch trong vùng đã bị đóng cửa trong nhiều tháng qua mùa hè. Phần lớn các công trình ở La Sagra đã tạm thời ngừng thuê công nhân theo một chương trình đã đàm phán với các công đoàn, cho phép người lao động nhận các khoản trợ cấp thất nghiệp trong 3 tháng, và sau đó bảo đảm việc họ được trở lại làm việc. Tài chính Công- Nhóm 6 Page 13
- [CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013 Khi cơn suy thoái ngày càng lan rộng, ông Duque tỏ ra lo lắng về những lời nói dối phía trước. "Đó là khi chúng tôi sẽ bắt đầu chứng kiến các nhà máy đóng cửa mãi mãi. Và khi đó, chúng tôi sẽ phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng". Rafael Martín, thị trưởng thị trấn Alameda de la Sagra, tuyên bố ông rất quan tâm tới tác động của cuộc suy thoái tới những người hàng xóm. Một vài người trong số đó đã lâm vào những tình cảnh khó khăn vì số tiền thế chấp đã tăng vọt trong khi các nguồn tài chính của họ thì giảm xuống. "Nó không chỉ ảnh hưởng tới những người làm việc trong các nhà máy gạch mà tác động đến cả những tài xế xe tải chuyên chuyên chở gạch và thợ cơ khí chuyên bảo dưỡng các xe tải và cuối cùng là cả những quán bar, nơi công nhân thường xuyên tới uống rượu. Nó giống như việc con cá đã cắn vào đuôi của nó". Tóm lại khủng khoảng kinh tế thế giới năm 2008 là cuộc khủng khoảng kinh tế đầu tiên của thế kỷ 21 nhưng không giống các cuộc khủng khoảng kinh tế trước nó. Có thể gọi đây là cuộc khủng khoảng của các nhà băng, khủng khoảng tín dụng hay cuộc khủng khoảng "phi vật chất"...Có những ngày, những tuần, hàng loạt ngân hàng tuyên bố phá sản, bị mua lại hoặc bị kiểm soát đặc biệt. Thế giới đã thực sự chao đảo, nghiêng ngả bởi làn sóng sụp đổ của các nhà băng. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã và sẽ ảnh hưởng đến một số hoạt động của kinh tế nước ta, nhưng mức độ tác động không lớn như các nước đang phát triển khác. 3. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính đối với nền kinh tế Việt Nam Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã và sẽ ảnh hưởng đến một số hoạt động của kinh tế nước ta, nhưng mức độ tác động không lớn như các nước đang phát triển khác. Về thương mại Cuộc khủng hoảng đã và đang gây ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu Việt Nam sang thị trường Mỹ, Nhật Bản và châu Âu. Đây là những thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Ngay từ những tháng đầu năm 2008, đã xuất hiện xu hướng giảm tốc độ xuất khẩu sang Mỹ, thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Do cầu tiêu dùng tại Mỹ đang trên đà suy giảm mạnh bởi tác động của khủng hoảng tài chính, trong 9 tháng đầu năm, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ chỉ đạt 16,7%, thấp hơn khá nhiều so với mức 26,7% của năm Tài chính Công- Nhóm 6 Page 14
- [CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013 2007. Tỷ trọng của thị trường Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã giảm, từ 20,7% của năm 2007 xuống còn 17,7% trong 9 tháng đầu năm nay. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng nhất là may mặc, giày da, gạo, cá basa, cà phê... Cuộc khủng hoảng cũng tác động đến tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang EU và Nhật Bản - hai thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Phân tích của các chuyên gia kinh tế cho thấy, do bị tác động mạnh từ cuộc khủng hoảng, người tiêu dùng của các thị trường này cũng phải cắt giảm chi tiêu, nên nhu cầu nhập khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng sẽ có xu hướng giảm. Tỷ trọng của thị trường EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng đã giảm, chỉ còn 16,5%, trong khi năm 2007 là 18%. Xuất khẩu cả năm 2008 dự kiến chỉ đạt khoảng 64 tỉ USD, tăng 31,8% so với thực hiện năm 2007, thấp hơn so với dự báo của Chính phủ vào đầu tháng 10-2008 cả về kim ngạch và tốc độ tăng (tương ứng là 65 tỉ USD và 33,9%) do xuất khẩu giảm không chỉ về số lượng các đơn hàng, mà cả về giá bán của hàng hóa xuất khẩu. Năm 2009, dự kiến kim ngạch xuất khẩu là 64 tỉ USD, giảm cả về kim ngạch và tốc độ tăng kim ngạch so với con số đã được trình Quốc hội đầu tháng 10-2008 (số trình Quốc hội tháng 10-2008 tương ứng là 67,7 tỉ USD và 18%). Về hoạt động ngân hàng và thị trường tiền tệ Tuy cuộc khủng hoảng chưa có ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống ngân hàng, nhưng một số tác động gián tiếp là đáng kể. Trước hết, đó là diễn biến của tỷ giá và lãi suất USD. Tỷ giá USD với đồng Việt Nam trên thị trường có nhiều biến động do tâm lý của người dân. Trước tình hình đó, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có các biện pháp, chính sách để điều hành, ổn định tỷ giá, hạ lãi suất cơ bản, giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn để sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất - nhập khẩu, rà soát và kiểm soát nợ xấu của các ngân hàng thương mại. Về thị trường chứng khoán, luồng tiền đầu tư gián tiếp vào Việt Nam suy giảm và đã có hiện tượng các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn khỏi thị trường. Mặc dù tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong những tháng gần đây có những chuyển biến tích cực, nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục sụt giảm. VN-index giảm liên tục và lập đáy mới xuống dưới 350 điểm. Việc nhà đầu tư nước ngoài có biểu hiện rút khỏi thị trường chứng khoán Việt Nam đã gây tâm lý hoang mang cho các nhà đầu tư trong nước. Về đầu tư nước ngoài Tài chính Công- Nhóm 6 Page 15
- [CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013 Cuộc khủng hoảng đã bước đầu có ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và viện trợ phát triển chính thức (ODA). Số dự án FDI đăng ký mới có xu hướng chững lại, trong tháng 10-2008, tổng số dự án đăng ký mới là 68 dự án với tổng vốn đăng ký là 2,02 tỉ USD, thấp hơn nhiều so với các tháng đầu năm (9 tháng đầu năm có 885 dự án đăng ký với tổng số vốn đăng ký là 56,27 tỉ USD). Khả năng giải ngân vốn FDI và ODA trong năm 2008 cũng đang chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Tổng vốn FDI thực hiện trong 10 tháng năm 2008 so với tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm chỉ đạt khoảng 15%. Số vốn ODA giải ngân năm 2008 có thể không đạt được như dự báo trước là 2,3 tỉ USD. Trong những năm tới, khủng hoảng tài chính thế giới có thể khiến dòng đầu tư nước ngoài cả trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam suy giảm vì những lo ngại về bất ổn kinh tế và sự suy thoái kinh tế toàn cầu. Tác động lớn nhất của cuộc khủng hoảng này là làm thay đổi hoàn toàn và sâu sắc ngành công nghiệp tài chính Mỹ và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong những năm tới, dòng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam sẽ suy giảm, vì do bất ổn kinh tế và sự suy thoái kinh tế toàn cầu. Về ngắn hạn, khủng hoảng ở Mỹ chưa có tác động lớn đến Việt Nam do dòng vốn đầu tư vào Việt Nam hầu hết bắt nguồn từ các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực như Xin-ga- po, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan,... Mỹ chỉ đứng thứ 11 trong hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam với 419 dự án còn hiệu lực, tổng số vốn đăng ký 4,1 tỉ USD. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính đã không chỉ dừng lại ở Mỹ mà đã lan sang các nước phát triển khác, trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia có đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Các nước châu Á, nơi chiếm tới 80% dòng vốn đầu tư vào Việt Nam, cũng đang chịu tác động lớn của cuộc khủng hoảng. Việc huy động vốn trên thế giới sẽ gặp nhiều khó khăn do chi phí vốn trở nên đắt đỏ hơn. Hậu quả là các nhà đầu tư sẽ hạn chế tăng thêm đầu tư mới và thực hiện các dự án đã cam kết. Đã có xu hướng một số công ty mẹ ở chính quốc yêu cầu các chi nhánh tại Việt Nam phải giảm đầu tư để rút vốn về để tháo gỡ khó khăn cho các công ty mẹ. Do vậy, trong dài hạn, nếu khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới không bị chặn lại thì chắc chắn nó sẽ tác động tới đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Giải ngân vốn FDI cũng có thể sẽ giảm, khi mà trong tình hình khó khăn hiện nay, các công ty đầu tư vào Việt Nam sẽ thận trọng hơn trong kế hoạch tài chính và đầu tư. Thêm vào Tài chính Công- Nhóm 6 Page 16
- [CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013 đó, hầu hết các dự án đầu tư nói chung, dự án FDI nói riêng, phần nợ vay thường chiếm một tỷ phần rất lớn trong tổng vốn đầu tư, nên khi các tổ chức tài chính đang gặp khó khăn sẽ làm cho nhiều hợp đồng vay vốn sẽ không được ký kết hoặc không thể giải ngân. Ngay cả các dự án FDI đang triển khai cũng có thể bị chững lại, vì rất có thể, các công ty sẽ phải cân đối lại nguồn vốn, bảo đảm tài chính an toàn trong khủng hoảng. Riêng các dự án mới cấp phép, nếu chủ đầu tư bị tổn thương lớn từ cuộc khủng hoảng này, thì có thể bị tạm dừng triển khai, thậm chí rút bỏ. Do vậy, năm 2009 - 2010, tốc độ giải ngân vốn FDI được dự báo là sẽ theo xu hướng chậm lại. Những dự báo ban đầu cho thấy, số vốn ODA cam kết và giải ngân tại Việt Nam trong những năm tới sẽ có xu hướng giảm do nguồn vốn đầu tư của các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế và dự trữ cho vay của các nước phát triển được cân đối lại để bình ổn thị trường tài chính. Năm 2010 và các năm tiếp theo, kinh tế thế giới nói chung và kinh tế châu Á nói riêng được dự báo khả quan hơn, điều này sẽ tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Huy động vốn gián tiếp vào thị trường cổ phiếu Việt Nam trong thời gian tới sẽ rất khó khăn do các nhà đầu tư sẽ hướng tới các kênh đầu tư an toàn. Việc bán tháo chứng khoán khỏi thị trường Việt Nam là có thể, mặc dù xác suất không cao, do tính thanh khoản và quy mô của thị trường. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường chứng khoán và quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước lớn trong các năm tới. Việc huy động vốn thông qua thị trường vốn khó khăn trong khi thị trường tín dụng thắt chặt sẽ chặn dòng vốn và đẩy chi phí tài chính của các doanh nghiệp lên cao. Một khía cạnh khác của đầu tư gián tiếp là các giao dịch chênh lệch lãi suất nhằm hưởng chênh lệch lãi suất giữa 2 đồng tiền trong khi tỷ giá ổn định. Các giao dịch này thường mang tính đầu cơ ngắn hạn cao. Với lãi suất toàn cầu sụt giảm và chính sách tỷ giá neo VND vào USD của Việt Nam trong khi lãi suất VND vẫn ở mức cao, có thể dòng vốn này sẽ chảy vào trong một số giai đoạn nhất định nhằm khai thác cơ hội chênh lệch. Trong những trường hợp thoái vốn, dòng vốn này có thể tạo áp lực tỷ giá cho VND. Việc phát hành chứng khoán huy động vốn trên thị trường quốc tế cũng sẽ khó khăn và chi phí tăng cao. Chính phủ Việt Nam hiện có kế hoạch phát hành 1 tỉ USD và Vinashin có kế hoạch huy động 400 triệu USD Tài chính Công- Nhóm 6 Page 17
- [CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013 trên thị trường quốc tế vào năm 2009. Tuy nhiên, trong bối cảnh của khủng hoảng tài chính, việc thực hiện kế hoạch nêu trên sẽ gặp phải những trở ngại đáng kể trong thời gian tới. Dòng kiều hối từ trước đến nay vẫn là một dòng ngoại tệ tương đối ổn định, ngay cả trong thời kỳ kinh tế toàn cầu có khó khăn. Trong một vài năm trở lại đây, dòng kiều hối về Việt Nam tăng mạnh, với mức doanh số 8 tỉ - 10 tỉ USD/năm. Ngoài mục đích hỗ trợ thân nhân và đầu tư vào kinh doanh, một phần không nhỏ của dòng kiều hối này được đầu tư vào chứng khoán và bất động sản - những lĩnh vực hiện nay không còn "nóng" như trước. Hơn nữa, một phần lớn nguồn kiều hối về Việt Nam lại từ nước Mỹ, nơi tăng trưởng kinh tế đang sa sút và tình trạng thất nghiệp gia tăng. Điều này khiến cho dòng kiều hối trong các năm tới có thể cũng sẽ suy giảm. Tuy đầu tư nước ngoài được dự báo là sẽ khó khăn hơn trong những năm tới, nhưng Việt Nam có thể có những cơ hội nhất định qua cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Dòng vốn trên thế giới sẽ tập trung vào những nơi có môi trường chính trị và kinh doanh ổn định, mà Việt Nam lại đang có những lợi thế trong hai nhân tố này. Hiện tại, hầu hết các nhà đầu tư vẫn cam kết nhiều vì họ tin tưởng vào tương lai và triển vọng đi lên của nền kinh tế nước ta. Nhiều nhà đầu tư cho rằng, tác động của cuộc khủng hoảng tới nền kinh tế Việt Nam chỉ ở mức độ nhất định và sẽ được khắc phục trong thời gian tới. Một điểm thuận lợi nữa của chúng ta là các nhà đầu tư lớn như Nhật Bản, EU đã hướng vào khu vực Đông - Nam Á và có chiến lược đầu tư dài hạn trong 10 năm tới. Tại khu vực Đông - Nam Á, Nhật Bản hướng nhiều nhất vào Việt Nam với chiến lược đầu tư nhất quán từ Chính phủ cho đến các tập đoàn lớn. Các động thái gần đây của Nhật Bản đã rất rõ ràng và kiên quyết, cho dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, Việt Nam vẫn sẽ là nơi Nhật Bản phân bố lại sản xuất của họ. Nhật Bản cũng đã sáp nhập JICA và JBIC thành một quỹ viện trợ ODA khổng lồ. Mục tiêu của quỹ này cũng hướng vào Đông - Nam Á, trong đó có Việt Nam. Về tăng trưởng kinh tế Những tác động trực tiếp và gián tiếp nêu trên của khủng hoảng tài chính thế giới đang và sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế của nước ta trong năm 2008. Dự kiến tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2008 chỉ đạt khoảng 6,7%, thấp hơn chỉ tiêu đã được Quốc hội thông qua là 7%. Với những tác động ban đầu của khủng hoảng tài chính thế giới đến đầu tư nước ngoài, thương mại, tài chính tiền tệ,... trong thời gian vừa qua, cũng như Tài chính Công- Nhóm 6 Page 18
- [CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013 phạm vi ảnh hưởng của khủng hoảng đến kinh tế thế giới như đã phân tích ở trên, nền kinh tế nước ta cũng sẽ còn gặp khó khăn trong năm 2009 và các năm tiếp theo. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, biến động của kinh tế toàn cầu sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng GDP của Việt Nam. Khi kinh tế toàn cầu suy giảm trong năm 2009, những thị trường xuất khẩu lớn của chúng ta như Mỹ, Nhật Bản, EU và một số khu vực có nguy cơ bị thu hẹp, đồng thời thu hút đầu tư, cả gián tiếp và trực tiếp của chúng ta cũng sẽ bị giảm sút. Kim ngạch xuất khẩu năm 2009 dự báo sẽ tăng 13%, mức tăng thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây. Tổng mức đầu tư toàn xã hội năm 2009 dự báo bằng 39,5% GDP, thấp hơn so với dự báo trước đây là 40% GDP. Nhiều doanh nghiệp trong nước, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ gặp khó khăn do tiêu thụ hàng hóa giảm và thiếu vốn đầu tư. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, kinh tế của Việt Nam năm 2009, theo dự báo, sẽ đạt mức tăng trưởng thấp hơn so với năm 2008, với tốc tăng trưởng khoảng 6,5%. Giá trị gia tăng ngành công nghiệp và xây dựng dự kiến sẽ tăng trưởng khoảng 7,4%, ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản dự kiến sẽ tăng khoảng 2,8%, thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng trong năm 2008. Ngành dịch vụ sẽ đạt mức tăng trưởng xấp xỉ năm 2008. Năm 2010 và các năm tiếp theo, kinh tế thế giới và khu vực châu Á được dự báo khả quan hơn. Điều này sẽ tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Dự báo tăng trưởng kinh tế của nước ta sẽ phục hồi sau năm 2009, với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ và cao hơn năm 2008. 4. Các công cụ tài chính chính phủ sử dụng sau khủng hoảng 4.1. Chính sách tiền tệ (bao gồm: lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc…) Trước những tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, ngay từ quý I/2008 Chính phủ Việt Nam đưa ra một loạt giải pháp để ngăn chặn, phòng ngừa những hậu quả khôn lường của “cơn bão tài chính”. Rất may là Việt Nam đã kịp thời áp dụng các biện pháp hợp lý để phòng vệ, chống bão ngay từ đầu năm. Các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô đã phát huy tác dụng, lạm phát giảm, tính thanh khoản giữa các ngân hàng được tăng cường, thanh khoản của thị trường được đảm bảo, thu hẹp cán cân thương mại, tăng cường ngân sách nhà nước, thắt chặt chi tiêu công, tăng dự trữ ngoại tệ. Nhìn chung NHNN điều hành CSTT thận trọng, linh hoạt tùy vào diễn biến thị trường, có lúc thắt chặt có lúc mở rộng. Tài chính Công- Nhóm 6 Page 19
- [CÁC CÔNG Cụ TÀI CHÍNH MÀ CHÍNH PHủ Sử DụNG SAU KHủNG HOảNG TÀI CHÍNH 2008] April 11, 2013 Giai đoạn thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt (2007-2008): Giai đoạn 2007-2008 đánh dấu thời điểm lạm phát phi mã sau nhiều năm lạm phát ở mức vừa phải. Nguyên nhân của lạm phát có thể do cầu kéo (tổng cầu của nền kinh tế gia tăng), chi phí đẩy (giá các yếu tố đầu vào tăng), nguồn cung thiếu hụt (khi nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng hoặc vượt sản lượng tiềm năng), cung tiền tăng quá mức (việc tăng tổng lượng phương tiện thanh toán- m2) và yếu tố tâm lý (lạm phát kỳ vọng). Tuy nhiên, năm 2008 nước ta được coi là “nhập khẩu lạm phát”, tức là nguyên nhân gây ra lạm phát năm 2008 chủ yếu là do chi phí đẩy. Ngoài việc giá các yếu tố đầu vào trên thị trường thế giới tăng cao kỉ lục (dầu thô vượt ngưỡng 147USD/thùng, giá phôi thép, thép 830USD/tấn, gạo hơn 1000USD/tấn, phân bón, vải sợi…đều tăng cao) còn do yếu tố nội sinh của nước ta. Đó là mức tăng trưởng tín dụng cũng bị đẩy lên mức cao, giá điện, nước sinh hoạt cũng tăng, chính phủ thực hiện cải cách tiền lương làm cho thu nhập dân cư tăng và chi phí doanh nghiệp tăng cao đã càng làm trầm trọng thêm áp lực lạm phát. Trong điều hành chính sách tiền tệ, việc sử dụng công cụ thì trường mở và tỉ giá hối đoái đôi khi có những sai lầm không đáng có, làm cho mức độ lạm phát lại có xu hướng tăng. Đặc biệt là trong năm 2008, do tỉ giá giữa VND và USD xuống thấp kỉ lục bởi đồng USD giảm giá do ảnh hưởng suy thoái kinh tế Mỹ và việc FED cắt giảm mức lãi suất đồng USD xuống thấp nhất trong vòng nhiều năm qua (có lúc xuống 0,25%) khiến cho việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Để khuyến khích xuất khẩu, NHNN đã quyết định mua vào hơn 7 tỉ USD, tương đương việc bơm khoảng 112.000 tỉ vào nền kinh tế làm cho lạm phát càng them trầm trọng. Biện pháp mua vào hơn 7 tỉ USD có những mặt tích cực là làm tăng dự trữ ngoại hối quốc gia (vốn còn ở mức rất thấp so với các nước trong khu vực), đồng thời tăng giá trị đồng USD để khuyến khích xuất khẩu qua đó tạo điều kiện phát triển sản xuất trong nước góp phần giảm bội chi cán cân thương mại. Mặc dù sau đó NHNN đã thực hiện nghiệp vụ thị trường mở để hút tiền trở lại nhưng chỉ thu lại được khoảng 82.000 tỉ. Tuy niên, việc làm này vẫn làm gia tăng áp lực lớn về lạm phát vì với một lượng tiền quá lớn đã được NHNN cung vào nền kinh tế. Thời kỳ này, NHNN thực hiện một loạt các biện pháp quyết liệt phối hợp cùng chính sách tài khóa của chính phủ nhằm kiềm chế lạm phát. Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã thể hiện quyết tâm của Chính phủ chống lạm phát bằng câu nói nổi tiếng “hy sinh tăng trưởng để kiềm chế lạm phát”. NHNN đã sử dụng đồng bộ các chính sách tiền tệ như: lãi suất cơ bản (LSCB) VND được tăng cao nhất trong nhiều năm qua, được điều chỉnh tăng lên 8,75%/năm từ ngày 01/02/2008 so với mức 8.25%/năm ổn định trong 2 năm trước đó và nhảy vọt lên mức Tài chính Công- Nhóm 6 Page 20

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận: Các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện
25 p |
1207 |
254
-
Đề tài: Phân tích công cụ tài chính Công ty Dược Imexpharm
21 p |
153 |
30
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện kế toán các công cụ tài chính trong các doanh nghiệp Việt Nam
26 p |
134 |
18
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Các nhân tố tác động đến quyết định sử dụng công cụ tài chính phái sinh để phòng ngừa rủi ro tại các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam
119 p |
79 |
17
-
Luận án tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố tác động đến việc áp dụng kế toán công cụ tài chính phái sinh tại các doanh nghiệp Việt Nam
232 p |
82 |
13
-
LUẬN VĂN: Thực trạng phát triển các công cụ của TTTC ở Việt Nam
30 p |
105 |
13
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển công cụ tài chính phái sinh tiền tệ trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho doanh nghiệp (Nghiên cứu tại NHTMCP Công thương Bình Dương)
112 p |
61 |
9
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Các nhân tố tác động đến mức độ công bố thông tin về công cụ tài chính ở các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
87 p |
33 |
8
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố tác động đến việc áp dụng kế toán công cụ tài chính phái sinh ở các doanh nghiệp Việt Nam
232 p |
62 |
7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp hoàn thiện kế toán về công cụ tài chính theo hướng tiếp cận chuẩn mực kế toán quốc tế
114 p |
34 |
7
-
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Khoa học quản lý: Sử dụng công cụ tài chính khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa đổi mới công nghệ
124 p |
34 |
7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nhận diện các nhân tố tác động đến mức độ trình bày và công bố thông tin công cụ tài chính trên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán Tp.HCM
81 p |
29 |
7
-
Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng kế toán công cụ tài chính phái sinh: nghiên cứu thực nghiệm các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Dương
154 p |
19 |
6
-
Tóm tắt luận văn Tiến sĩ Kinh tế: Sử dụng các công cụ tài chính để thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam
27 p |
44 |
4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sỹ Kinh tế kinh doanh và quản lý: Hoàn thiện kế toán công cụ tài chính trong các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam
14 p |
48 |
3
-
Tóm tắt Luận án tiến sĩ Kinh tế: Sử dụng công cụ tài chính vĩ mô phát triển du lịch Việt Nam
24 p |
51 |
1
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản lý khoa học và công nghệ: Sử dụng công cụ tài chính khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa đổi mới công nghệ (Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Thanh Hóa)
15 p |
12 |
1


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
