Tiểu luận: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề BHXH
lượt xem 35
download
Trong từ điển bách khoa tập một có nêu: Bảo hiểm xã hội là một sự bảo đảm, sự thay thế bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập từ nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm, thông qua việc hình thành sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội nhằm góp phần đảm bảo an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề BHXH
- Tiểu luận Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề BHXH
- MỤC LỤC 2.1. Đối tượng, chức năng và tính chất của BHXH .......................................................... 5 a. Đối tượng của BHXH .................................................................................................. 5 b. Chức năng của BHXH ................................................................................................. 6 c. Tính chất của BHXH ................................................................................................... 6 Từ 204000 người năm 2007 lên 382000 người năm 2008 (tăng 87%) .............................. 7 2.2. Các biện pháp giảm chi BHXH ................................................................................. 9 2.1. Kết quả đạt được của BHXH. ................................................................................ 13 Thứ nhất là đối tượng tham gia BHXH .......................................................................... 15 Thứ hai la về chi trả BHXH ........................................................................................... 15 Thứ ba là về nợ đọng trong BHXH ................................................................................ 15 Nguyên nhân chính dẫn đến những tồn tại trên đó là : ............................................... 16
- Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề BHXH. 1. Cơ sở lý luận 1.1. Khái niệm về BHXH: Có rất nhiều khái niệm khác nhau về bảo hiểm hã hội: + trong từ điển bách khoa tập 1 đã nêu: “ Bảo hiểm xã hội là một sự bảo đảm, sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm khoản thu nhập từ nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm, thông qua việc hình thành sử dụng một quĩ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, nhắm góp phần bảo đảm an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội”. +Dưới góc độ pháp lý: BHXH là một loại chế độ pháp định bảo vệ người lao động, sử dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng và được sự tài trợ, bảo hộ của nhà nước, nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, thất nghiệp, hết tuổi lao động theo qui định của pháp luật hoặc chết”. + Theo giáo trình BHXH, phần 2 của trường đại học LAO ĐỘNG - XÃ HỘI: “ Chế độ bảo hiểm xã hội là sự cụ thể hóa chính sách bảo hiểm xã hội, là hệ thống các qui định cụ thể và chi tiết nhằm thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Nói các khác đó là hệ thống các qui định được pháp luật hóa về đối tượng, điều kiện để được hưởng, mức hưởng, thời hạn hưởng , nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng chế độ bảo hiểm xã hội cụ thể”. 1.2. Một số khái niệm có liên quan trong BHXH. Mối quan hệ xuyên suốt trong hoạt động Bảo hiểm xã hội là quan hệ là mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia Bảo hiểm xã hội, lên bảo hiểm xã hội và bên được bảo hiểm xã hội. + Bên tham gia bảo hiểm xã hội là bên có trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội theo qui định của pháp luật bảo hiểm xã hội. Bên tham gia bảo hiểm xã hội gồm có: người lao động, người sử dụng lao động và Nhà Nước ( trong một số trường hợp ).
- + Bên cạnh bảo hiểm xã hội, đó là bên nhận bảo hiểm xã hội từ những người tham gia bảo hiểm xã hội. Bên bảo hiểm xã hội thường là một số tổ chức ( cơ quan, công ty…) do nhà nước lập ra và được nhà nước bảo trợ, nhận sự đóng góp của người lao động, ngưới sử dụng lao động, lập nên quỹ bảo hiểm xã hội . bên bỏa hiểm xã hội có trách nhiệm thực hiện chi trả trợ cấp cho bên được bảo hiểm xã hội khi có nhu cầu phát sinh và làm cho quỹ bảo hiểm xã hội phát triển. + Bên được bảo hiểm xã hội là bên được quyền nhận các loại trợ cấp khi phát sinh những nhu cầu bảo hiểm xã hội, để bù đắp thiếu hụt về thu nhập do các loại rủi ro được bảo hiểm gây ra. Trong BHXH, bên được BHXH là người lao động tham gia BHXH và nhân than của họ theo quy định của pháp luật, khi họ có phát sinh nhu cầu được BHXH do pháp luật quy định. Giữa các bên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong kinh tế thị trường, bên tham gia BHXH có thể đồng thời là bên được BHXH. Đối với người lao động độc lập, họ vừa là người tham gia BHXH, vừa là người được quyền hưởng BHXH vì họ đóng phí được BHXH để bảo hiểm cho chính họ. Quan điểm của Đảng và nhà nước về bảo hiểm xã hội - BHXH được thực hiện ở Việt Nam từ năm 1945 và đã trải qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi, đặc biệt trong các năm 1961, 1985 và 1995. Năm 1961, một nghị định của chính phủ được ban hành để cung cấp các dịch vụ phúc lợi xã hội cho tất cả các cán bộ, viên chức làm việc trong ngành nội chính, giáo dục, y tế, các doanh nghiệp nhà nước, nội vụ. Hệ thống này chỉ chịu trách nhiệm bảo hiểm cho khoảng 600000 đến 700000 người trên tổng số dân là 17 triệu người của miền Bắc Việt Nam. Từ năm 1975 thì chính sách BHXH được thực hiện thống nhất trong cả nước. Chế độ BHXH bao gồm: trợ cấp hưu trí, mất sức lao động à tử tuất, cùng với các chế độ ốm đau, thai sản và tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp do cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp đóng góp. - Từ tháng 01/1995, Bộ luật lao động có hiệu lực, trong đó có chương XII về BHXH. Để hướng dẫn thực hiện Bộ luật lao động này, ngày 16/02/1995 Chính phủ ban hành NĐ số 19/CP của chính phủ thành lập hệ thống BHXH Việt Nam để giúp thủ tướng chính phủ tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ về BHXH, BHYT và quản lý quỹ BHXH. Ngày 26/01/1995 Chính phủ Việt Nam ban hành nghị định số 12/CP về điều lệ BHXH đối với dân sự với 5 chế độ BHXH: chế độ trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí và chế độ trợ cấp tử tuất. Và ngày 15/7/1995, Chính phủ ban hành nghị định số 45 quy định về BHXH đối với quân sự (quân đội, công an).
- Trong 2 nghị định của chính phủ có quy định về hình thành quỹ BHXH trên cơ sở thu BHXH bao gồm người sử dụng lao động đóng 15% quỹ tiền lương và người lao động đóng 5% tiền lương hàng tháng. Quỹ này được sử dụng để chi cho 5 chế độ trên. Quỹ BHXH được tồn tại, tăng cường và được nhà nước bảo hộ. - Trong điều kiện đặc biệt của Việt Nam hiện nay, BHXH có ý nghĩa đặc biệt, không chỉ đáp ứng yêu cầu phát triển và phù hợp với xu hướng chung của thời đại, mà còn thể hiện tính ưu việt, bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chính trị. Đó cũng là quan điểm lớn mà Đảng, Nhà nước ta đã đặt ra trong quá trình đổi mới kinh tế - xã hội, cũng như trong các kỳ Đại hội của Đảng; nhất là Đại hội Đảng IX và X vừa qua, vấn đề BHXH được xác định như một trọng tâm trong đường lối phát triển kinh kế - xã hội của đất nước với tốc độ nhanh và bền vững. Đại hội Đảng lần thứ X đã đặt nhiệm vụ: “Xây dựng hệ thống ASXH đa dạng, phát triển mạnh mẽ hệ thống BHXH, BHYT tiến tới BHYT toàn dân”. Đồng thời yêu cầu phải “đổi mới hệ thống BHXH, đa dạng hóa hình thức bảo hiểm phù hợp với kinh tế thị trường”. Do đó, việc nghiên cứu, xác định các giải pháp để thực hiện các nhiệm vụ và yêu cầu đổi mới hệ thống BHXH được đặt ra trực tiếp với chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan tới BHXH Việt Nam. Thực hiện Nghị Quyết Đại hội X của Đảng, tháng 7 năm 2006 luật BHXH đã được Quốc hội thông qua, đã quy định việc mở rộng các đối tượng tham gia BHXH tự nguyện từ 11/1/2008, đang đặt ra hàng loạt vấn đề cần giải quyết trong thời gian tới. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Đối tượng, chức năng và tính chất của BHXH a. Đối tượng của BHXH - Mặc dù ra đời đã rất lâu nhưng đối tượng của BHXH còn có nhiều quan điểm chưa thống nhất dẫ đến sự nhầm lẫn giữa đối tượng của BHXH với đối tượng tham gia BHXH. - BHXH là việc lập ra một nguồn ngân quỹ nhằm đảm bảo bù đắp cho khoản thu nhập bị giảm hoặc mất đi của người lao động do họ bị mất hoặc giảm khả năng lao động, bị mất việc làm, do ốm đau bệnh tật, tai nạn, tuổi già… Vì vậy, đối tượng của BHXH chính là phần thu nhập bị mất đi hay giảm đi do sự rủi ro mà họ gặp phải trong cuộc sống làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. - Đối tượng tham gia BHXH đó là người lao động và người sử dụng lao động, tùy theo điều kiện phát triển kinh tế của từng thời kỳ mà đối tượng tham gia có thể là tất cả hoặc một bộ phận người lao động nhưng nhìn chunh khi kinh tế càng phát triển thì đối tượng tham gia càng được mở rộng nhiều bộ phận người lao động khác.
- b. Chức năng của BHXH - Bảo đảm ổn định đời sống kinh tế cho người lao động à gia đình họ khi người lao động gặp khó khăn do mất việc làm, mất giảm thu nhập. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH. - Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Những người tham gia BHXH đóng góp vào quỹ BHXH để bù đắp cho những người lao động gặp rủi ro hoặc bị giảm mất thu nhập, quá trình này đã tiến hành phân phối lại thu nhập giữa người giàu – người nghèo, người khỏe mạnh – người ốm đau, người trẻ - người già… Thực hiện chức năng này BHXH đã góp phần thực hiện công bằng xã hội. - Góp phần kích thích người lao động hăng hái sản xuất, nâng cao năng xuất lao động do cuộc sống của họ đã được đảm bảo, họ không còn phải lo lắng về cuộc sống của họ khi rủi ro xảy đến với họ bất kỳ lúc nào; từ đó khiến họ tập trung vào việc lao động sản xuất. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội. - Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người lao động với nhà nước góp phần đảm bảo an toàn cho xã hội. Do người lao động và người sử dụng lao động luôn tồn tại mâu thuẫn về tiền lương, thời gian lao động, an toàn lao động… BHXH ra đời góp phần điều hòa mâu thuẫn giữa họ. Nhà nước thông qua việc chi BHXH ổn định đời sống cho người lao động, ổn định xã hội. c. Tính chất của BHXH - Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội. Như đã phân tích ở trên rủi ro xảy đến với cuộc sống của người lao động không hoàn toàn do người lao động gánh chịu mà nó ảnh hưởng tới người sử dụng lao động, tới toàn xã hội, nó gây ra mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động làm giảm năng suất lao động, mất ổn định xã hội. Buộc nhà nước phải can thiệp thông qua BHXH vì vậy BHXH ra đời mang tính tất yếu khách quan. - BHXH có tính ngẫu nhiên phát sinh không đều theo không gian và thời gian. Điều này thể hiện rõ trong nội dung cơ bản của BHXH, từ thời điểm triển khai BHXH, người tham gia BHXH, mức đóng góp. Từ việc rủi ro phát sinh theo không gian, thời gian đến mức trợ cấp cho từng chế độ, từng đối tượng.
- - BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội đồng thời có tính dịch vụ, tính kinh tế được thể hiện thông qua việc hình thành và sử dụng quỹ BHXH sao cho hợp lý, có hiệu quả nhất. Tính xã hội được thể hiện BHXH được sử dụng nhằm bảo đảm ổn định cho những người lao động và gia đình họ. BHXH thể hiện tính dich vụ của nó thông qua hoạt động dịch vụ tài chính (thông qua nguồn vốn nhàn rỗi). Từ 204000 người năm 2007 lên 382000 người năm 2008 (tăng 87%) - Theo báo cáo của Chính phủ, công tác quản lý Nhà nước về BHXH được tăng cường trong sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và trách nhiệm của cán bộ, ngành, tổ chức đoàn thể trong quá trình xây dựng hệ thống các văn bản hướng dẫn luật BHXH. Nhận thức về trách nhiệm và tính tuân thủ pháp luật về BHXH của người lao động và người sử dụng lao động đã có chuyển biến tích cực. Công tác giải quyết chế độ BHXH cho người lao động từng bước được đổi mới trên cơ sở áp dụng công nghệ thông tin; thực hiện cải cách hành chính. - Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện chế độ, chính sách BHXH xuất hiện một số vướng mắc cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, ban hành văn bản hướng dẫn như việc giám định suy giảm khả năng lao động; quy định giữ lại 2% tiền lương, tiền công đóng BHXH của đơn vị để chi trả cho người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ ốm đau, thai sản và thực hiện quyết toán hàng quý với tổ chức BHXH (hầu hết các doanh nghiệp đều không muốn giữ lại). Công tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành về BHXH mới được chú ý trong một số thành phố lớn và hoạt động này còn lồng ghép với các lĩnh vực khác như thực hiện pháp luật về lao động, việc làm và tiền lương. Thực trạng và giải pháp của BHXH II. 1. Thực trạng của BHXH Nguồn hình thành quỹ BHXH - Người tham gia các loại hình bảo hiểm phải đóng một phần thu nhập tính theo tỷ lệ tiền lương, người sử dụng lao động phải đóng một tỉ lệ nhất định theo quỹ lương, tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư của quỹ, hỗ trợ của Nhà nước, các nguồn thu hợp pháp khác. - Sự hộ trợ của Nhà nước khi mà quỹ BHXH không còn khả năng cân đối thu chi và chỉ số giá cả tăng nhanh, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều áp dụng cơ chế này. Đối với nước ta do hoàn cảnh lịch sử để lại, những người tham gia BHXH trước khi có Bộ luật lao động, quỹ này do Nhà
- nước quản lý, không hạch toán độc lập, do vậy đến giai đoạn hiện nay, Nhà nước vẫn có trách nhiệm đóng góp và quỹ BHXH để chi trả lương hưu cho số người tham gia BHXH trước khi có Bộ luật lao động. Theo quy định tại điều 8 của luật BHXH năm 2006: “Quỹ BHXH được - hình thành từ nguồn đóng góp của người tham gia BHXH, tiền sinh lời của quỹ và các nguồn thu khác; Quỹ BHXH được sử dụng để trả các chế độ BHXH cho người lao động, chi phí quản lý của tổ chức BHXH. Nhà nước bảo hộ BHXH bằng các chính sách ưu tiên đầu tư quỹ BHXH và các biện pháp khác để bảo toàn và tăng trưởng quỹ theo quy định của pháp luật. Các hoạt động đầu tư của quỹ BHXH được miễn thuế”. Theo quy định tại điều 73 của luật BHXH năm 2006, thì người lao động - phải đóng 5% tiền lương, tiền công hàng tháng vào quỹ hưu trí và tử tuất, từ năm 2010 trở đi cứ 2 năm một lần mức đóng tăng lên 1% cho đến khi đạt tỷ lệ đóng là 8%. Theo quy định tại điều 74 của luật BHXH năm 2006, người sử dụng lao - động phải đóng 3% tổng quỹ tiền lương, tiền công vào quỹ ốm đau, thai sản, trong đó 2% để người sử dụng lao động chi trả kịp thời cho người lao động, 1% vào quỹ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trong đó 0.5% để người sử dụng lao động chi trả kịp thời cho người lao động; 11% vào quỹ hưu trí và tử tuất, từ năm 2010 trở đi cứ 2 năm một lần mức đóng tăng lên 1% cho đến khi đạt tỷ lệ đóng là 14%; sau đó cứ 2 năm một lần tăng thêm 2% cho đến khi đạt mức đóng là 22%. Quỹ BHXH tự nguyện do người lao động đóng góp theo bốn hình thức là - hàng tháng, hàng quý, sáu tháng và một lần cho nhiều năm.
- - Mạnh dạn sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi đi đầu tư sinh lời vào mục tiêu phát triển kinh tế đất nước vừa tăng việc làm cho xã hội, mở rộng đối tượng tham gia BHXH, vừa tránh để nguồn vốn chết để tăng thu từ lãi đầu tư. - Tăng cường đào tạo cán bộ đầu tư quỹ vừa đảm bảo tăng trưởng quỹ vừa đảm bảo ổn định quỹ. - Cần có những chính sách mới trong việc sử dụng vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH cho phù hợp với điều kiện nước ta bước vào nền kinh tế thị trường và sự ra đời thị trường chứng khoán. 2.2. Các biện pháp giảm chi BHXH - Tổ chức ở các cấp, các ngành thực hiện việc chi trả các chế độ đầy đủ, kịp thời theo đúng quy định của nhà nước. - Tổ chức kiểm tra, thanh tra, kiểm soát hoạt động chi BHXH theo từng chế độ, từng địa phương, ngành nghề tránh các hiện tượng tiêu cực tron chi BHXH và có những biện pháp xử lý thích đáng với những trường hợp vi phạm. - Tăng cường tích cực đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, nâng cao năng lực của các cán bộ nhằm tăng hiệu quả quản lý của các cán bộ này cho thích nghi với điều kiện mới. - Ứng dụng công nghệ tin học vào quá trình quản lý hoạt động BHXH nói chung, quản lý thu – chi nói riêng nhằm tăng hiệu quả quản lý các hoạt động này. Biện pháp tránh nợ - đọng BHXH - Sự an toàn của quỹ BHXH có ảnh hưởng lớn đến vấn đề ASXH, tuy nhiên quỹ này đang đứng trước nguy cơ “vỡ nợ” khi gánh nặng trả lương hưu đang ngày càng lớn. - Theo mức đóng hiện nay, thì tổng số tiền đóng BHXH trong 30 năm của 1 người hưởng lương hưu chỉ đủ chi trả lương hưu bình quân trong 8 năm của người đó. Trong khi đó, thời gian hưởng lương hưu bình quân hiện nay là 16 năm. - Theo Bộ lao động thương binh và Xã hội, với mức đóng và hưởng như hiện hành, Quỹ BHXH chỉ có thể cân đối thu – chi đến năm 2020, còn từ năm 2021 trở đi, số chi sẽ lớn hơn số thu, quỹ sẽ giảm nhanh. Đặc biệt, dự báo từ năm 2031 trở đi, số chi sẽ lớn gấp nhiều lần so với số thu.
- - Trong khi đó, hiện Chính phủ chưa đưa ra được giải pháp để chống tình trạng chiếm dụng, nợ đọng tiền đóng BHXH. Theo số liệu của BHXH Việt Nam, tính đến cuối tháng 12/2004, tổng số nợ đọng đã tới khoảng 582.5 tỷ đồng, chiếm 5% tổng số thu BHXH trong năm 2004. - Trước tình hình đó, Bộ lao động thương binh và Xã hội đã đưa ra 3 phương án “ngăn lũ”: o Một là, thực hiện ngay các biện pháp tăng tỷ lệ thu BHXH bằng cách tăng hiệu lực thực thi pháp luật để số người thuộc diện tham gia BHXH tăng lên thông qua ý thức tuân thủ luật pháp của các doanh nghiệp có sử dụng lao động, nhất là đối với khối doanh nghiệp vừa và nhỏ. o Hai là, tăng số năm bắt buộc đóng BHXH lên từ 15 năm như hiện nay lên 20 năm để được hưởng lương hưu theo tỷ lệ 45% hoặc 51% mức lương trước khi nghỉ hưu. Vì với điều kiện đóng BHXH bắt buộc là 15 năm như hiện nay, thực tế có người chưa đầy 40 tuổi đã được nhận lương hưu theo tỷ lệ trên. o Ba là, tăng mức đóng BHXH của người lao động và người sử dụng lao động theo một lộ trình dần dần. Cụ thể, trong giai đoạn 5 năm trước mắt (2005 – 2009), mức đóng của người lao động vẫn giữ nguyên là 5% tiền lương, tiền công hàng tháng. Bắt đầu từ năm 2010, sẽ điều chỉnh mức đóng theo lộ trình cứ 2 năm tăng thêm 1% cho đến khi đạt được 8% (vào năm 2016). Tuơng tự, mức đóng của người sử dụng lao động trước mắt vẫn giữ nguyên là 15%. Tuy nhiên, từ năm 2010, mức đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất sẽ điều chỉnh cứ 2 năm tăng thêm 1% cho đên khi đạt 18%. Trong 2 ngày 5 đến 6/01/2011, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (BHXH VN) đã tổ chức tổng kết công tác năm 2010 và triển khai nhiệm vụ năm 2011. Tham dự Hội nghị có đồng chí Lê Bạch Hồng – Thứ trưởng, Tổng giám đốc Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, đại diện lãnh đạo các Bộ, ban ngành, lãnh đạo Bảo hiểm Xã hội 63 tỉnh, thành phố trong cả nước cùng với hơn 500 đại biểu tham dự. Theo báo cáo của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, năm 2010 trên cả nước đã có 50.735.900 người tham gia BHXH, BHYT (trong đó có 9.342.767 người thuộc diện tham gia BHXH, BHYT bắt buộc, tăng 4,9%; 7.054.962 người tham gia bảo hiểm thất nghiệp, tăng 17,7% so với năm 2009). Kết quả, toàn ngành Bảo hiểm Xã hội trong năm 2010 đã thu được 80.155 tỷ đồng, vượt 0.3% so với dự toán.
- Đạt được kết quả trên là do BHXH VN trong năm qua đã tập trung chỉ đạo BHXH các tỉnh, thành phố chủ động phối hợp với các sở, ban ngành liên quan nắm tình hình những đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn, phát hiện đơn vị chưa tham gia, hoặc đã tham gia bảo hiểm xã hội nhưng chưa hết số lao động hiện có để đưa vào danh sách quản lý. Nét nổi bật nhất là khu vực ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quan tâm và triển khai một cách có hiệu quả. Ngoài ra, trong năm qua, ngành cũng đã tích cực phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT ở cả hai loại hình bắt buộc và tự nguyện; chỉ đạo BHXH các tỉnh, thành phố bảo đảm kế hoạch thu theo tháng đúng với quy định của Luật. Phát huy những kết quả đạt được trong năm 2010, năm 2011 toàn ngành sẽ phấn đấu tổng thu đạt trên 83 nghìn tỷ đồng. Cũng trong buổi lễ, BHXH VN đã trao tặng nhiều bằng khen, giấy khen cho tập thể, cá nhân các đơn vị thành viên và một số báo, đài trung ương, địa phương do có thành tích tuyên truyền tốt cho ngành bảo hiểm trong năm 2010./. Ngành BHXH đã góp phần bảo đảm an sinh - ổn định xã hội Thứ Tư, 9.2.2011 | 09:19 (GMT + 7) (LĐ) - Sáng 8.2, Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng đã tới chúc tết CBCNVCLĐ cơ quan BHXH Việt Nam nhân dịp đầu xuân Tân Mão - 2011. Thay mặt CBCNVCLĐ, TGĐ BHXH VN Lê Bạch Hồng đã báo cáo tóm tắt những kết quả mà ngành BHXH đã đạt được trong năm 2010, mặc dù khối lượng công việc tăng cao, biên chế của hầu hết các đơn vị còn thiếu, nhưng ngành BHXH vẫn đạt và vượt các chỉ tiêu, kế hoạch Chính phủ giao. Cụ thể đã có 50,74 triệu người tham gia BHXH (tăng 4,9% so với năm 2009); toàn ngành thu hơn 80.000 t ỉ đồng (vượt 0,3% so với dự toán Chính phủ giao). Trong năm 2010, BHXH cũng đã giải quyết chế độ cho 5,5 triệu người hưởng BHXH; phối hợp với các cơ sở y tế khám - chữa bệnh cho gần 107 triệu lượt người bệnh, với tổng chi phí lên đến gần 20 nghìn tỉ đồng. Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng chúc toàn thể CBCNVCLĐ ngành BHXH Việt Nam luôn hoàn thành tốt các mặt công tác, cũng như các chỉ tiêu, kế hoạch đề ra. Đồng thời, Phó Thủ t ướng cũng đánh giá cao tầm quan trọng của công tác BHXH trong việc góp phần vào việc bảo đảm an sinh, ổn định xã hội. Qua đó, ngành BHXH đã góp phần thực hiện thắng lợi các kế hoạch của Đảng, Nhà nước. Năm 2011 sẽ là năm đầu tiên của thời kỳ mới, phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam trở thành đất nước có nền công nghiệp hiện đại, phát triển. Trước những thành tích đã đạt
- được, CBCNVCLĐ ngành BHXH cần phấn đấu hơn nữa trong việc đảm bảo an sinh và ổn định xã hội của đất nước. * Tại hội nghị ASSA 26, các chuyên gia BHXH quốc tế đã trình bày nhiều biện pháp thu hồi nợ BHXH. Liệu các biện pháp này có thể ứng dụng trong thực tế Việt Nam? - Qua trình bày của các chuyên gia, không khó để nhận thấy tình trạng chây ỳ, không đóng hoặc trốn nợ BHXH ở các quốc gia đó có hình thức không khác gì ở Việt Nam. Những biện pháp được giới thiệu như thông tin danh sách các doanh nghiệp nợ BHXH trên bảng điện tử tại nơi công cộng, thông tin về chính sách, hướng dẫn thủ tục đóng BHXH, truy tố các chủ doanh nghiệp trốn nợ BHXH… đều đã và có thể áp dụng tại Việt Nam. Vấn đề là hiện nay, BHXH Việt Nam đang vướng mắc cơ chế. Đó là, cơ quan BHXH chưa được quyền xử phạt đối với các đối tượng chây ỳ, trốn đóng hoặc nợ BHXH kéo dài. Hiện tại, các cơ quan BHXH ở tỉnh, thành phố mới chỉ được quyền kiểm tra và nhắc nhở. Còn nếu muốn xử phạt thì phải kiến nghị tới các cơ quan chức năng có thẩm quyền. Điều này mất thời gian, thậm chí đoàn liên ngành đến thu nợ thì đối tượng đã bỏ trốn. Vì vậy, tôi cho rằng, biện pháp và kinh nghiệm thu hồi nợ BHXH của các bạn quốc tế là rất hữu ích, nhưng trước tiên, BHXH Việt Nam cần được trao quyền chủ động xử phạt. *Tình trạng nổi cộm nhất trong hoạt động BHXH hiện nay là để nợ đọng quá lớn. Vậy từ nay đến cuối năm, BHXH Việt Nam có giải pháp gì để thu hồi số nợ này? -Hiện nay, nợ đọng BHXH là 2.093 tỷ đồng, trong đó nợ đọng khó đ òi là 966 tỷ đồng. Chỉ riêng tại Hà Nội, tính đến tháng 8 vừa qua, đã có 106 doanh nghiệp nợ đọng tiền BHXH tr ên 12 tháng với tổng số tiền là 84 tỷ đồng. BHXH TP.HCM là đơn vị thực hiện quyết liệt nhất cả nước, với việc tiến hành khởi kiện doanh nghiệp ra tòa, nên đã thu hồi về Quỹ BHXH hơn 40 tỷ đồng từ 107 doanh nghiệp. Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ có văn bản gửi tới UBND các tỉnh, thành phố có doanh nghiệp nợ đọng BHXH để thông báo sự việc và đề nghị cùng phối hợp thu hồi nợ. Biện pháp tiếp theo là thành lập tổ thu nợ (với sự tham gia của Sở LĐ-TB& XH, Tài chính, LĐLĐ…) để tiến hành đốc thu tại từng doanh nghiệp trên từng địa bàn. Đẩy mạnh khởi kiện ra tòa các doanh nghiệp nợ đọng BHXH, bởi thực tế cho thấy các doanh nghiệp rất sợ mất uy tín khi vụ việc được đưa đến Tòa án. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng vẫn tiếp tục tuyên truyền để người sử dụng lao động và người lao động hiểu về vai trò và ý nghĩa của việc đóng BHXH. *Biện pháp khởi kiện ra tòa đối với doanh nghiệp nợ BHXH kéo dài, thậm chí truy tố đối với chủ sử dụng lao động trốn đóng BHXH có phải là biện pháp lâu dài, hay chỉ mang tính tạm thời để giải quyết nợ đọng? -Thực tế là còn nhiều ý kiến cho rằng đó chưa phải là biện pháp tối ưu và khó có thể thực hiện “thường xuyên, liên tục”, chưa kể đến việc các cấp tòa án ở mỗi nơi, mỗi địa phương lại có những cách giải quyết khác nhau... Tuy nhiên, giải pháp nào thì cũng phải tiến hành đồng bộ, tức là cùng triển khai nhiều biện pháp khác nhau. Bên cạnh tuyên truyền, chúng ta không thể bỏ qua xử phạt. Nhưng, mức xử phạt hiện nay còn quá nhẹ, nên đôi khi vì lợi ích, chủ doanh nghiệp có thể chấp nhận nộp phạt một khoản tiền nhỏ so với số tiền phải đóng BHXH, qua đó có thể chiếm dụng vốn và sử dụng vào mục đích khác. Trong Luật BHXH, Luật BHYT hiện cũng không có quy định về xử lý hình sự đối với trường hợp chây ỳ, nợ đọng BHXH kéo dài. Tôi thấy, tại hội nghị lần này, các đại biểu quốc tế khi trình bày biện pháp thu hồi nợ đều nhấn mạnh đến biện pháp truy tố trước pháp luật đối với các đối tượng không nộp BHXH. Tại sao chúng ta không thể làm như vậy?
- Hội nghị đã thông qua Báo cáo Tổng kết tình hình thực hiện công tác BHXH, BHYT, BHTN năm 2010, phương hướng nhiệm vụ năm 2011 của BHXH huyện. Năm 2010, do nhận thức được tầm quan trọng của việc mở rộng và tăng thêm đối tượng tham gia BHXH, BHYT, BHTN nên ngay từ đầu năm, BHXH huyện đã phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành liên quan trong việc tuyên truyền, vận động, hướng dẫn và đôn đốc các đơn vị và người lao động tham gia BHXH, BHYT, BHTN. Kết quả, đến ngày 31/12/2010, BHXH huyện đã quản lý 344 đơn vị với 7.473 lao động. Tổng số thu BHXH, BHYT, BHTN được 84,044 tỷ đồng, đạt 102,79% kế hoạch BHXH tỉnh giao, tăng 106,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Tổ chức xét duyệt, chi trả kịp thời cho 6.705 đối t ượng hưởng hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng với số tiền hơn 12 tỷ đồng, đặc biệt, đã tổ chức chi trả cho 1.092 đối tượng hưởng trợ cấp 01 lần BHXH Nông dân với số tiền 3,44 tỷ đồng…. Kết quả đó có thể chưa cao so với một số địa phương khác, nhưng với một huyện thuần nông, thu nhập chủ yếu từ nông nghiệp, lại bị ảnh hưởng nặng nề nhất của cơn bão số 03 và đợt lũ lụt kéo dài vừa qua thì đó là những con số đáng để chúng ta tự hào. Đó không chỉ là kết quả của cán bộ, viên chức BHXH trong ngành mà còn là minh chứng cho sự đoàn kết, đồng lòng của tập thể, cá nhân trong và ngoài ngành trong khó khăn, t ìm ra hướng đi đúng đắn vì mục tiêu an sinh xã hội trên địa bàn. Bước sang năm 2011, trên cơ sở phát huy những kết quả đã đạt được, BHXH huyện tập trung phấn đấu hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch nhà nước giao: Đảm bảo thu đúng, thu đủ, kịp thời BHXH, BHYT, BHTN; tích cực mở rộng đối tượng tham gia BHXH, BHYT; phấn đấu 100% học sinh ở các trường học tham gia BHYT, 100% hộ gia đình cận nghèo tham gia BHYT theo chương trình Dự án hỗ trợ y tế Bắc Trung Bộ, nâng tổng số người có thẻ BHYT trong toàn huyện lên trên 60%. Mặc dù còn những hạn chế chưa thể khắc phục được như: ý thức chấp hành pháp luật của một số cơ quan, doanh nghiệp chưa nghiêm, số người chưa có thẻ BHYT còn lớn, kinh phí hỗ trợ cho các đối tượng học sinh, sinh viên, bảo hiểm thất nghiệp chưa đảm bảo…nhưng dưới sự chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp, sự phối hợp của các phòng, ban, ngành liên quan, và sự cố gắng của tập thể cán bộ viên chức BHXH huyện, hi vọng những chỉ tiêu đặt ra sẽ sớm hoàn thành. 2. Nuyên nhân những kết quả đạt được và những tồn tại của BHXH trong thời gian gần đây. 2.1. Kết quả đạt được của BHXH. Theo báo cáo của Chính phủ, công tác quản lý Nhà nước về BHXH được tăng cường trong sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và trách nhiệm của cán bộ, ngành, tổ chức đoàn thể trong quá trình xây dựng hệ thống các văn bản hướng dẫn luật BHXH. Nhận thức về trách nhiệm và tính tuân thủ pháp luật về BHXH của người lao động và người sử dụng lao động đã có chuyển biến tích cực. Công tác giải quyết chế độ BHXH cho người lao động từng bước được đổi mới trên cơ sở áp dụng công nghệ thông tin; thực hiện cải cách hành chính. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện chế độ, chính sách BHXH xuất hiện một số vướng mắc cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, ban hành văn bản hướng dẫn như việc giám định suy giảm khả năng lao động;
- quy định giữ lại 2% tiền lương, tiền công đóng BHXH của đơn vị để chi trả cho người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ ốm đau, thai sản và thực hiện quyết toán hàng quý với tổ chức BHXH (hầu hết các doanh nghiệp đều không muốn giữ lại). Công tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành về BHXH mới được chú ý trong một số thành phố lớn và hoạt động này còn lồng ghép với các lĩnh vực khác như thực hiện pháp luật về lao động, việc làm và tiền lương. Theo báo cáo của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, năm 2010 trên cả nước đã có 50.735.900 người tham gia BHXH, BHYT (trong đó có 9.342.767 người thuộc diện tham gia BHXH, BHYT bắt buộc, tăng 4,9%; 7.054.962 người tham gia bảo hiểm thất nghiệp, tăng 17,7% so với năm 2009). Kết quả, toàn ngành Bảo hiểm Xã hội trong năm 2010 đã thu được 80.155 tỷ đồng, vượt 0.3% so với dự toán. Công tác tăng thu giảm chi BXHX luôn được thực hiện để cân đối quỹ BHXH để không những bảm bảo chi trả kịp thời trong thời gian gần đây mà còn để tích lũy cho quỹ BHXH sau này luôn được đảm bảo, tránh tình trạng thâm hụt quỹ BHXH. Công tác kiểm tra, quan tâm đến đối tượng BHXH, thường xuyên tham hỏi, tặng quà cho đối tượng khi ốm đau, thai sản, bệnh đột xuất làm cho đối tượng tham gia thấy được yên tâm hơn. Tình trạng nợ đọng trong BHXH luôn được kiểm tra và ngày càng giảm hơn bằng các biện pháp tích cực mà không gây ảnh hưởng trong các cơ quan, doanh nghiệp. 2.2.Nguyên nhân các kết quả đạt được của BHXH. Đạt được kết quả trên là do BHXH VN trong năm qua đã tập trung chỉ đạo BHXH các tỉnh, thành phố chủ động phối hợp với các sở, ban ngành liên quan nắm tình hình những đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn, phát hiện đơn vị chưa tham gia, hoặc đã tham gia bảo hiểm xã hội nhưng chưa hết số lao động hiện có để đưa vào danh sách quản lý. Nét nổi bật nhất là khu vực ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quan tâm và triển khai một cách có hiệu quả. Ngoài ra, trong năm qua, ngành cũng đã tích cực phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT ở cả hai loại hình bắt buộc và tự nguyện; chỉ đạo
- BHXH các tỉnh, thành phố bảo đảm kế hoạch thu theo tháng đúng với quy định của Luật. Phát huy những kết quả đạt được trong năm 2010, năm 2011 toàn ngành sẽ phấn đấu tổng thu đạt trên 83 nghìn tỷ đồng. BHXH VN đã trao tặng nhiều bằng khen, giấy khen cho tập thể, cá nhân các đơn vị thành viên và một số báo, đài trung ương, địa phương do có thành tích tuyên truyền tốt cho ngành bảo hiểm trong năm 2010./. 2.3.Nguyên nhân của các tồn tại tiêu cực trong công tác BHXH. Ngoài những mặt đạt đã nói ở trên, trong quá trình thực hiện BHXH cũng không tránh khỏi những thiếu sót và tồn tại, đó là: Thứ nhất là đối tượng tham gia BHXH Trong thời gian qua, BHXH Việt Nam đã triển khai thực hiện và đạt được những kết quả đáng khích lệ, đặc biệt là việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH, BHYT. Số đối tượng tham gia BHXH bắt buộc tăng đáng kể, bình quân mỗi năm số tham gia BHXH mới tăng hơn 400 nghìn người. Với việc từng bước mở rộng đối tượng BHXH tự nguyện, đến nay có gần 50 nghìn người tham gia. Thứ hai la về chi trả BHXH Toàn ngành mỗi tháng đã thực hiện chi trả lương hưu, trợ cấp hằng tháng cho khoảng hai triệu người và hằng năm chi trả cho hàng triệu lượt người hưởng trợ cấp BHXH một lần. Nhìn chung, trong thời gian qua công tác chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH đã bảo đảm thực hiện tốt, đầy đủ, chính xác, kịp thời không để xảy ra trường hợp bị chậm lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng. Từ năm 1995 đến nay, Quỹ BHXH luôn tồn dư, đến cuối năm 2008 số tồn dư của Quỹ là gần 84 nghìn tỷ đồng. Thứ ba là về nợ đọng trong BHXH Hiện nay, nợ đọng BHXH là 2.093 tỷ đồng, trong đó nợ đọng khó đòi là 966 tỷ đồng. Chỉ riêng tại Hà Nội, tính đến tháng 8 vừa qua, đã có 106 doanh nghiệp nợ đọng tiền BHXH trên 12 tháng với tổng số tiền là 84 t ỷ
- đồng. BHXH TP.HCM là đơn vị thực hiện quyết liệt nhất cả nước, với việc tiến hành khởi kiện doanh nghiệp ra tòa, nên đã thu hồi về Quỹ BHXH hơn 40 tỷ đồng từ 107 doanh nghiệp. Nguyên nhân chính dẫn đến những tồn tại trên đó là : Nhà nước không hình thành quỹ BHXH nên việc thu - chi quỹ BHXH được tính trong Ngân sách Nhà nước, do Ngân sách Nhà nước đảm bảo, trong khi yêu cầu chi năm sau đều cao hơn năm trước đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chế độ BHXH đối với người lao động, người đã nghỉ hưu, đồng thời ảnh hưởng đến việc cân đối Ngân sách Nhà nước. Mặt khác, việc quản lý BHXH thời kỳ này do nhiều cơ quan cùng thực hiện nên bị phân tán, không thống nhất trong thực hiện chế độ về đối tượng, điều kiện hưởng, mức lương và thời hạn hưởng... BHXH là một lĩnh vực rộng lớn liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực và việc giải quyết hưởng BHXH lại phải căn cứ vào hồ sơ lao động của người tham gia BHXH. Chính vì vậy mà việc lợi dụng quy định của pháp luật để lập hồ sơ hưởng BHXH sai chính sách không phải là hiếm thấy trong thời kỳ thực hiện Điều lệ tạm thời về BHXH. Từ năm 1995 đến nay, Quỹ BHXH luôn tồn dư, đến cuối năm 2008 số tồn dư của Quỹ là gần 84 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, Quỹ đang có nguy cơ mất cân đối do lượng đóng ít, lượng hưởng nhiều. Theo tính toán của BHXH Việt Nam, đến năm 2030 tổng thu - chi BHXH sẽ bằng nhau và đến năm 2040, Quỹ có nguy cơ âm. Tình trạng nợ đóng BHXH vẫn còn. Năm 2008, số tiền nợ đóng, chậm đóng BHXH là hơn 1.895 tỷ đồng. Ðặc biệt, tình trạng trốn đóng hoặc đóng BHXH ở mức thấp tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Việc đầu tư của quỹ BHXH hiệu quả chưa cao, chủ yếu thực hiện mua trái phiếu của Chính phủ, cho các ngân hàng thương mại của Nhà nước vay; Chưa phải là nguồn chủ yếu để điều chỉnh tăng lương hưu cho người về hưu, gia tăng mức thụ
- hưởng cho người lao động, góp phần bảo đảm sự bền vững của quỹ BHXH, thực hiện an sinh xã hội như quy định của Luật BHXH. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đánh giá cao những thành tựu mà BHXH mang lại song cũng chỉ ra nhiều bất cập trong việc thực hiện BHXH, đặc biệt là hiệu đầu tư của quỹ BHXH hiệu quả chưa cao, chủ yếu thực hiện mua trái phiếu của Chính phủ, cho các ngân hàng thương mại của Nhà nước vay. Trong giai đoạn tới, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về BHXH; thực hiện quỹ hưu trí bổ sung, tạo điều kiện để người lao động tiết kiệm thu nhập để khi về già ngoài phần lương hưu cơ bản hiện nay, còn có thể có thêm phần lương hưu bổ sung.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận: Tăng trưởng kinh tế và vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống ở Việt Nam
136 p | 411 | 73
-
Tiểu luận: Bằng lý luận và thực tiễn phat́ triên̉ của nông nghiệp Viêṭ Nam. Hãy chứng minh “hợp tać là nhu cầu tât́ yếu của mọi thời ki,̀ nhưng mức độ và hiêụ quả của hơp̣ tác laị phụ thuộc vào triǹ h độ và sự phát triển của lưc̣ lượng sản xuât́ ”
14 p | 293 | 69
-
Tiểu luận: Đạo đức kinh doanh
16 p | 227 | 38
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Phát triển du lịch cộng đồng huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum
26 p | 133 | 24
-
Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học thông qua hoạt động trải nghiệm tại tỉnh Bình Dương
274 p | 33 | 22
-
Đề tài: Áp dụng ma trận BCG vào chiến lược kinh doanh
26 p | 110 | 16
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Nghiên cứu chuỗi giá trị sản phẩm Hồ tiêu tỉnh Gia Lai
26 p | 93 | 15
-
Khóa luận: Phân tích biến động chi phí sản xuất tại xí nghiệp đông lạnh thủy sản AFIEX
60 p | 71 | 15
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Vai trò của chính quyền địa phương trong tạo lập môi trường để thu hút đầu tư tư nhân- nghiên cứu tại Long An
160 p | 89 | 12
-
Luận án Tiến sĩ nông nghiệp: Xây dựng các cơ sở khoa học và thực tiễn để giám sát lượng CO2 hấp thụ của rừng lá rộng thường xanh ở Tây Nguyên
251 p | 62 | 9
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Đo lường đánh giá trong giáo dục: Xây dựng tiêu chí đánh giá năng lực dạy học của sinh viên năm cuối ngành cử nhân sư phạm
31 p | 31 | 7
-
Khóa luận tốt nghiệp ngành Triết học: Đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về mô hình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
79 p | 71 | 7
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển dịch vụ xã hội cho người lao động tại các khu công nghiệp trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh
27 p | 63 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Tâm lý học: Xây dựng chương trình quản lý hành vi kém thích nghi của trẻ dành cho ông bà
27 p | 7 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Vận dụng phương pháp Thẻ điểm cân bằng (The Balance Scorecard) tại Công ty cổ phần vận tải dầu khí Cửu Long (PVTrans-PCT)
116 p | 23 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Sự đối lập giữa chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý thế kỷ XVII-XVIII với sự phát triển lý luận nhận thức duy vật biện chứng
99 p | 11 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý đào tạo nghề tại Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên cấp huyện ở các tỉnh Tây Nguyên trong bối cảnh hiện nay
27 p | 9 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn