intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Công nghệ sau thu hoạch sữa

Chia sẻ: Nguyễn Văn Bảy | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:35

184
lượt xem
25
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn cùng tham khảo nội dung bài tiểu luận "Công nghệ sau thu hoạch sữa" dưới đây để nắm bắt được những nội dung về sữa bò, công nghệ sau thu hoạch sữa. Hy vọng đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Công nghệ sau thu hoạch sữa

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HCM KHOA KỸ THUẬT HÓA HỌC BỘ MÔN CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM TIỂU LUẬN: CÔNG NGHỆ SAU THU HOẠCH SỮA GVHD: TRẦN THỊ THU TRÀ SVTH: TRƯƠNG ĐỜ KHÁNG  60901168 TRẦN TẤN LỘC VŨ MINH TRIẾT BÙI THIÊN DUY 1
  2. TP HCM, ngày tháng năm 2011 MỤC LỤC  TÀI LIỆU THAM KHẢO                                                                                                                    ................................................................................................................       35 2
  3. 1. Giới thiệu chung về sữa bò. Sữa là một chất lỏng sinh lý được tiết ra từ tuyến vú của động vật và là nguồn  thức ăn để nuôi sống động vật non. Từ xưa con người đã biết sử dụng sữa từ các động  vật nuôi để chế biến thành nhiều loài động vật quý giá. 1.1 Một số tính chất vật lý Sữa là một chất lỏng đục. Độ đục của sữa là do các chất béo, protein và một số  chất khoáng trong sữa tạo nên. Màu sắc của sữa phụ thuộc chủ yếu vào hàm lượng  β­caroten có trong chất béo   của sữa. Sữa bò thường có màu từ trắng tới vàng nhạt. Sữa bò có mùi rất đặc trưng và   vị ngọt nhẹ. Bảng 2.1: Một số chỉ vật lý tiêu quan trọng của sữa bò Đại lượng Đơn vị đo Giá trị Đại lượng Đơn vị đo Giá trị Nhiệt dung  Tỷ trọng g/cm3 1.028 ÷ 1.036 Cal/g. 0C 0.933 ÷ 0.954 riêng Điểm đông  0 Thế oxy hóa  C ­0.54 ÷ ­0.59 V 0.10 ÷ 0.20 đặc khử Độ dẫn  Sức căng bề  1/ohm.cm 0.004 ÷ 0.005 Dynes/cm 50 điện mặt ở 200 C Sữa bò tươi có giá trị  pH trung bình là 6.6. Giá trị  pH cho phép  ở  công ty nằm   trong khoảng từ 6.5 ÷ 7. Sữa non – tức sữa đầu tiên trong một chu kỳ tiết sữa của động vật, có giá trị  pH   thấp hơn và thường bằng 6.0. Khi sữa bị nhiễm các vi sinh vật như nhóm vi khuẩn lactic, chúng sẽ chuyển hóa  đường lactose trong sữa thành acid lactic và làm giảm giá trị pH của sữa. Độ chua của sữa được xác định bằng phương pháp chuẩn độ  và được biểu diễn   theo độ Thorner (0Th). Sữa bò từ trại sữa thường có độ chua nằm trong khoảng từ 17 –   19 0 Th. 1.2 Thành phần hóa học Sữa là một hỗn hợp với các thành phần chính gồm nước, lactose, protein và các   chất béo. Ngoài ra , sữa còn có chứa một số hợp chất khác với hàm lượng nhỏ như các  hợp chất nitơ phi protein, vitamin, hormone, các chất màu và khí. Hàm lượng các chất có trong sữa bò:  Glucid 3
  4. Thành phần glucid chính có trong sữa bò là đường lactose. Lactose là đường khử,  độ  ngọt của lactose thấp hơn nhiều so với cá disaccharide và monosaccharide thường   gặp, độ ngọt của lactose chỉ đạt 16 (sử dụng độ ngọt của saccharose làm chuẩn với chỉ  số 100). Ngoài lactose, trong sữa bò còn có glucose, glactose và các hợp chất glucid chứa N  như   N­acetyl   glucosamine,   N­acetyl   glactosamine…Tuy   nhiên,   hàm   lượng   chúng   rất   thấp, chỉ ở dạng vết.  Các hợp chất có chứa nitơ Các hợp chất chứa N trong sữa bò (100%) Hợp chất phi protein  Protein (95%) (5%) ( Casein  Protein hòa tan  (15÷25%) Enzyme Acid amin tự do (75÷85%) Nucleotide Ure Acid uric Hình 2.1: Thành phần các hợp chất N có trong sữa  Protein Casein Protein thường gặp trong sữa là casein, chúng tồn tại dưới dạng micelle. Mỗi   micelle chứa khỏang 65% nước, phần còn lại là các loại casein và khoáng (gồm calci,  magie, phosphate và citrate). Mỗi micellce do khoảng 400÷500 tiểu micelle hợp thành. Tiểu micelle có dạng  hình cầu, bao gồm 10 phân tử casein kết hợp lại với nhau. Thành phần các casein αs, β  và κ trong tiểu micelle có thể thay đổi theo những tỉ lệ khác nhau. Các phân tử  α s và β­ casein nằm tập trung tại tâm tiểu micelle tạo nên vùng ưa béo, còn các phân tử κ­casein  được bố trí tại biên tiểu micelle. 4
  5. Hình 2.2: Cấu trúc micelle của casein Trong cấu trúc micelle, các tiểu micelle liên kết với nhau nhờ  muối phosphate   Ca3(PO4)2 và sự tương tác giữa các gốc kị  nước. Do sự bố trí các đầu ưa nước của  κ­ casein luôn hướng ra vùng biên nên chính các phân tử   κ­casein làm cho các micelle hòa  tan được trong sữa dưới dạng dung dịch keo và ổn định cấu trúc của micelle trong sữa. Protein hòa tan Trong   sữa   các   protein   hòa   tan   chiếm   từ   15­25%,   thường   gặp   gồm   có  β­ galactobulin, α­lactalbumin, proteose­peptone, immunoglobulin, serum­albumin… Enzyme Có hơn 60 loại enzyme khác nhau được tìm thấy trong sữa, chúng do tuyến vú   tiết ra hoặc do các vi sinh vật trong sữa tổng hợp nên. Sự có mặt của các enzyme trong  sữa là nguyên nhân gây biến đổi thành phần hóa học của sữa trong quá trình bảo quản,  từ đó gây giảm chất lượng hoặc làm hư hỏng sữa.  Tuy nhiên, có một số enzyme có trong sữa như lactoperoxydase, lysozyme có vai   trò kháng khuẩn, chúng tham gia vào việc  ổn định chất lượng sữa tươi trong quá trình   bảo quản trước khi chế biến. Hàm lượng vi sinh vật trong sữa càng cao thì thành phần enzyme có trong sữa đa  dạng và hoạt tính enzyme càng cao.  Chất béo Bảng 2.3: Thành phần chất béo trong sữa bò Hàm lượng (% so với tổng khối lượng  Thành phần chất béo) Lipid đơn giản 98.5 5
  6. Glyceride ­ Triglyceride 95÷96 ­ Diglyceride 2÷3 ­ Monoglyceride 0.1 Cholesteride 0.03 Ceride 0.02 Lipid phức tạp 1.0 Các hợp chất tan trong chất béo 0.5 Cholesterol 0.3 Acid béo tự do 0.1 Hydrocarbon 0.1 Vitamin A, D, K, E Vết Rượu Vết Các chất béo trong sữa thường có dạng hình cầu, đường kính dao động từ 0.1÷20  µm. Trong 1ml sữa có khoảng 10÷15 tỷ  hạt cầu béo. Do đó, có thể  xem sữa là hệ  nhũ   tương dầu trong nước, các hạt cầu béo được bao bọc bởi 1 lớp màng lipo­protein tích   điện âm, các màng này có vai trò làm bền hệ nhũ tương trong sữa. Các hạt cầu béo có thành phần chủ yếu là glyceride, phospholipid và protein.  Khoáng Hàm lượng chất khoáng trong sữa dao động từ  8÷10 g/l. Các muối trong sữa  ở  dạng hòa tan hoặc trong dung dịch jeos (kết hợp với casein). Trong số các nguyên tố khoáng có trong sữa, chiếm hàm lượng cao nhất là Ca, P,   Mg. Một phần chúng tham gia vào cấu trúc micelle, phần còn lại dưới dạng muối hòa   tan trong sữa. Các nguyên tối khoáng khác như K, Na, Cl… đóng vai trò làm chất điện ly, cùng  với lactose chúng cân bằng áp lực thẩm thấu của sữa trong bầu vú động vật với áp lực  máu. Ngoài ra, sữa còn có chứa các nguyên tố khác như Zn, Fe, I, Cu, Mo…Chúng cần  thiết chi quá trình dinh dưỡng của con người. Một số nguyên tố độc hại như  Pb, As…   đôi khi cũng được tìm thấy ở dạng vết trong sữa bò.  Vitamin Các vitamin trong sữa được chia làm 2 nhóm: Vitamin hòa tàn trong nước gồm: B1, B2, B3, B5, B6, C… Vitamin hòa tan trong chất béo gồm: A, D, E. 6
  7. Hàm lượng vitamin nhóm B trong sữa bò thường  ổn định do chúng được tổng   hợp chủ  yếu bởi các vi khuẩn trong dạ  dày và không phụ  thuộc vào điều kiện ngoại   cảnh. Tuy nhiên, hàm lượng vitamin tan trong chất béo bị ảnh hưởng sâu sắc bởi thành  phần thức ăn và điều kiện thời tiết…  Hormone Hormone do các tuyến nột tiết tiết ra và giữ  vai trò quan trọng trong quá trình   sinh trưởng của động vật.  Trong sữa bò có thể tìm thấy nhiều loại hormone được chia thành 3 nhóm chính   là proteohormone, hormone peptide và hormone steoride.  Các hợp chất khác Trong sữa bò còn có các chất khí, chủ yếu là O2, CO2 và N2. Tổng hàm lượng của  chúng chiếm từ 5% đến 6% thể tích sữa. Khí  ở dạng hòa tan hoặc phân tán thường gây ra một số khó khăn trong các quy   trình chế biến sữa. Ngoài ra, người ta phát hiện trong sữa có các hợp chất hóa học khác như: Chất kháng sinh. Chất tẩy rửa. Kim loại nặng Độc tố vi sinh vật… Những hợp chất trên gây độc cho người sử  dụng, hàm lượng chúng trong sữa   thường  ở  dạng vết. Chúng bị  nhiễm vào sữa từ  nguồi thức ăn động vật, từ  thiết bị  và   dụng cụ chứa sữa, từ môi trường chuồng trại (không khí, đất…) hoặc do các vi sinh vật  trong sữa tổng hợp nên. 1.3 Các tính chất hóa lý Do có các thành phần protein nên sữa được xem là một hệ  keo, ngoài ra sự  có  mặt của chất béo làm cho sữa có tính chất như một hệ nhũ tương. 1.3.1 Hệ keo Trong sữa các phân tử  nước sẽ  hình thành nên lớp hydrate bao bọc xung quanh   các micelle casein. Đó là các đầu ưa nước của κ­casein được bố trí trên bề mặt micelle   và chúng luôn hướng ra bên ngoài.  Trong quá trình bảo quản, micelle trong sữa sẽ thay đổi thành phần hóa học. Các  tiểu micelle từ  bên trong cấu trúc micelle có thể  khuếch tán ra bên ngoài. Tương tự,   phân tử  casein và những chất khoáng  ở  dạng kép như  Ca và phosphate từ  bên trong   7
  8. micelle có thể  dịch chuyển vào bên trong huyết thanh sữa. Ngược lại, những phân tử  casein cùng với Ca, phosphate đang ở dạng hòa tan trong huyết thanh sữa có thể khuếch   tán vào bên trong các tiểu micelle. Và tiểu micelle có thể  khuếch tán và tái liên kết với  các micelle có trong sữa.  Sự  thay đổi về  thành phần hóa học của các micelle casein sẽ  phụ  thuộc vào  nhiều yếu tố, trong đó nhiệt độ và pH là yếu tố quan trọng nhất. Khi giảm nhiệt độ sữa từ giá trị  nhiệt độ  phòng về 40C, các phân tử β­casein sẽ  từ từ thoát ra khỏi cấu trúc của micelle. Do đó, hàm lượng “β­casein hòa tan trong huyết   thanh” sẽ gia tăng. Nguyên nhân của hiện tượng này là do β­casein có các gốc ưa béo và   sự tương tác giữa các gốc ưa béo trong tiểu micelle thường bị yếu đi khi nhiệt độ giảm.  Tương tự, hàm lượng Ca liên kết với αs1­casein trong micelle cũng giảm đi khi sữa được  bảo quản ở nhiệt độ thấp. Tuy nhiên, khi tăng nhiệt độ của sữa sau thời gian bảo quản lạnh ở  4 0C, việc tái  cấu trúc của các micelle có thể không giống các micelle trong sữa trước khi làm lạnh. Khi nhiệt độ giảm, các tính chất hóa lý của hệ keo sẽ thay đổi theo như độ nhớt  tăng, độ bền hệ keo tăng do đó hiệu suất đông tụ casein đối với tác nhân chymosin sẽ bị  giảm đi đáng kể. Khi tăng nhiệt độ, các micelle bị  co lại, trong quá trình bị  biến tính nhiệt, whey   protein có thể  kết hợp với bề  mặt của micelle thông qua sự  hình thành liên kết –S­S­.   Những biến đổi này đều là những biến đổi không thuận nghịch. Khi   giảm   giá   trị   pH   của   sữa,   “phosphate   dạng   keo”   sẽ   chuyển   sang   dạng   “phosphate hòa tan”, để  tách hoàn toàn phosphate ra khỏi micelle cần giảm giá trị  pH  của sữa về  5.25. Tương tự  hàm lượng Ca trong micelle cũng giảm khi giảm pH của   sữa, tuy nhiên để  tách hoàn toàn Ca ra khỏi micelle, giá trị  pH của sữa phải thấp hơn   điểm đẳng điện của casein. Calci phosphate giữ một vai trò quan trọng trong việc liên kết các tiểu micelle lại  với nhau để hình thành nên cấu trúc micelle. Sự thoát ra của Ca và phosphate ở pH thấp  sữ làm cho micelle “trương nở”, đồng thời một số phân tử casein từ trạng thái keo cũng   sẽ chuyển sang dạng hòa tan. Khi đó, tương tác giữa những nhóm chức tích điện âm và   dương sẽ giữ vai trò quan trọng trong việc định hình cấu trúc micelle. Ở giá trị  pH 4.6,   casein sẽ đông tụ. Ở  giá trị  pH tự  nhiên của sữa, micelle tích điện âm. Lực đẩy tĩnh điện giữa cá  micelle giữ vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa sự đông tụ casein. 1.3.2 Hệ nhũ tương 8
  9. Sữa là hệ nhũ tương dầu trong nước. Mặc dù các hạt béo trong sữa đã được bao   bọc vởi lớp màng với thành phần chủ yếu là membrane protein, chúng luôn có xu hướng   kết hợp lại với nhau và dẫn tới hiện tượng sữa bị tách pha. Quá trình tách pha ở sữa bao gồm những giai đoạn sau: ­ Khi sữa được bảo quản lạnh, các phân tử cryoglobulin sẽ kết tủa lên bề mặt  của các hạt có trong sữa, trong đó có các hạt béo. Phức hợp cryoglobulin   (thành phần chính là immunoglobulin M) và lipoprotein còn có tên gọi khác là  agglutinin. ­ Các hạt béo có cryoglobulin trên bề mặt sẽ kết hợp lại với nhau để tạo thành   những hạt béo có kích thước lớn hơn. ­ Hạt béo có kích thước lớn bắt đầu nổi lên bề mặt của hệ nhũ tương. ­ Các hạt béo có kích thước lớn sẽ tiếp tục kết hợp với những hạt béo có kích   thước nhỏ hơn, chúng sẽ nổi lên bề mặt hệ nhũ tương với tốc độ nhanh hơn. ­ Cuối cùng, sữa bị tách pha với lớp chất béo trên bề mặt. Các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình tách pha của sữa: ­ Nhiệt độ: khi nhiệt độ càng thấp thì quá trình tách pha trong sữa càng dễ dàng   xảy ra. Ở 37 0C sự tách pha trong sữa ít xảy ra. ­ Nồng độ agglutinin trong sữa: nồng độ agglutinin càng cao thì sự tách pha xảy   ra càng nhanh. Thông thường, sữa non có hàm lượng agglutinin cao, càng về  cuối chu kỳ tiết sữa thì hàm lượng agglutinin trong sữa càng thấp. ­ Kích thước hạt béo: tốc độ  lắng tỉ  lệ  nghịch với kích thước của hạt béo.   Ngoài ra, nếu các hạt béo càng nhỏ thì diện tích bề mặt của chúng sẽ lớn. Khi  đó, chúng phải cần một lượng agglutinin nhiều hơn để kết hợp với nhau làm   cho hiện tượng tách pha xảy ra. ­ Hàm lượng béo trong sữa: khi làm tăng hàm lượng béo trong sữa thì sự  tách  pha xảy ra nhanh hơn. ­ Sự khuấy trộn: trong quá trình bảo quản sữa  ở nhiệt độ thấp, sự  khuấy trộn   sẽ làm cho agglutinin kết hợp lại với nhau, do đó sự tách pha của chất béo sẽ  xảy ra chậm hơn. ­ Sự xử lý nhiệt: agglutinin có thể biến tính bất thuận nghịch khi nhiệt độ tăng   cao. Nếu sữa được xử lý ở 73 0C hoặc cao hơn thì sự tách pha sẽ chậm hẳn. ­ Sự  đồng hóa: phương pháp đồng hóa sữa bằng áp lực cao có thể  làm mất đi  chứa năng thúc đẩy hiện tượng tách pha trong sữa của agglutinin. 1.4 Hệ vi sinh vật trong sữa bò 9
  10. 1.4.1 Nguồn gốc của hệ vi sinh vật trong sữa Trong cơ thể động vật, sữa tươi được tuyến vú tổng hợp không chứa các vi sinh  vật.   Tuy   nhiên,   khi   kiểm   tra   sữa   vừa   mới   vắt   đựng   trong   các   bình  chứa   (sử   dụng  phương pháp vắt sữa thủ  công hoặc cơ  giới hóa), ta thường phát hiện có rất nhiều   nhóm vi sinh vật khác nhau. Nguồn gốc của các vi sinh vật trên xuất phát từ: Bầu vú  của động vật cho sữa; thiết bị vắt sữa; thiết bị chứa; môi trường chuồng trại nơi diễn  ra quá trình vắt sữa…. 1.4.1.1Bầu vú động vật cho sữa Trên cơ  thể động vật, đặc biệt là khu vực bầu vú và những khu vực lân cận có   rất nhiều loài vi sinh vật khác nnau. Chúng tồn tại dưới dạng tế bào sinh dưỡng hoặc   bào tử. Trong quá trình vắt sữa, một số vi sinh vật từ các khu vực trên “bị rơi” vào bình  sữa làm cho sữa bị nhiễm vi sinh vật. Như vậy, trước khi vắt sữa, ta cần vệ sinh bầu vú   và các khu vực lân cận trên cơ thể động vật cho sữa để hạn chế số lượng vi sinh vật bị  nhiễm vào sữa. Một số vi sinh vật tại khu vực bầu vú có thể  chui vào các tuyến trong của núm  vú. Tuy nhiên, khi bò có tình trạng sức khỏe tốt thì số lượng vi sinh vật cư ngụ tại các  tuyến trong của núm vú không nhiều và thông thường chúng thuộc nhóm vi sinh vật “vô  hại”, không sinh độc tố. Mỗi lần vắt sữa, người ta thường tháo bỏ  những dòng sữa  đầu. Khi đó, các vi sinh vật cư  ngụ  tại tuyến trong của núm vú dễ  dàng bị  cuốn trôi   theo. Như vậy, ta sẽ hạn chế được sự nhiễm khuẩn khi thu hoạch sữa tươi. Trong trường hợp động vật bị bệnh viêm vú, số lượng vi sinh vật, đặc biệt là các   vi khuẩn cư  ngụ  trong núm vú sẽ  tăng lên rất nhiều. Khi đó, sữa tươi dễ  bị  nhiễm  nhiều vi sinh vật và có chất lượng kém. Con vật cần phải điều trị, nếu không sẽ gây ra  những tổn thất kinh tế đáng kể cho việc khai thác và chế biến sữa. 1.4.1.2Người và thiết vị vắt sữa Nếu quá trình vắt sữa được thực hiện bằng phương pháp thủ  công, để  hạn chế  nhiễm vi sinh vật vào sữa, người vắt sữa phải có sức khỏe tốt và không mắc bệnh  truyền nhiễm. Ngoài ra, tình trạng vệ sinh cơ thể và các thao tác kỹ thuật của người vắt   sữa cũng sẽ ảnh hưởng đến số lượng vi sinh vật có trong sữa. Nếu quá trình vắt sữa được thực hiện bằng máy, cần chú ý vệ sinh cẩn thẩn và   vô trùng hệ thống dẫn sữa từ bầu vú con vật đến dụng cụ  chứa. Đây là nguồn dễ  gây   nhiễm vi sinh vật cho sữa. 1.4.1.3Thiết bị chứa sữa 10
  11. Các thiết bị hoặc dụng cụ chứa cần phải được vệ sinh sạch sẽ và vô trùng (nếu   có thể) trước khi đựng sữa tươi. Đối với các hộ chăn nuôi bò sữa quy mô nhỏ, ý thức và   phương pháp vệ  sinh dụng cụ  đựng sữa chưa được quan tâm đúng mức nên đây là   nguồn nhiễm vi sinh vật phổ biến cho sữa. 1.4.1.4Môi trường chuồng trại nơi vắt sữa Vi sinh vật có mặt khắp nơi trong thế giới ta đang sống. Chúng tồn tại trong đất   và cát, trên thực vật, trong cơ  thể   động vật, trong không khí…. Do đó, môi trường  chuồng trại nơi vắt sữa bò cũng là một nguồn có thể  gây nhiễm vi sinh vật cho sữa.   Điều kiện khí hậu nóng  ẩm của Việt Nam rất thuận lợi cho các vi sinh vật  ưa  ẩm  (mesophile) tồn tại và phát triển. Để  hạn chế  việc nhiễm vi sinh vật từ  môi trường   chuồng trại vào sữa, ta cần vệ sinh và tấy trùng chuồng trại thường xuyên. 1.4.2 Hệ vi sinh vật trong sữa Hệ  vi sinh vật và số lượng của chúng trong sữa tươi luôn luôn thay đổi và phụ  thuộc vào mức độ nhiễm vi sinh vật trong quá trình vắt sữa. Các vi sinh vật có thể được   chia   thành   ha   nhóm   chính:   prokaryote   và   eukaryote.   Dưới   đây   là   những   vi   sinh   vật   thường tìm thấy trong sữa tươi.  Prokaryote Nhóm vi sinh vật prokaryote có nhân chưa hoàn chỉnh. Vùng nhân chỉ  là mạch   AND nằm trong tế bào chất, lưu giữ các thông tin di truyền cho tế bào. Đại diện quan   trọng cho nhóm prokaryote là vi khuẩn (bacteria). Số  lượng vi khuẩn trong sữa bò tươi sau khi vắt có thể  dao động từ  vài nghìn   đến vài triệu khuẩn lạc (colony forming units CFU) trong 1ml sữa. Sữa được đánh giá là  có chất lượng vệ sinh khá tốt khi tổng số vi khuẩn trong 1ml sữa không lớn hơn 100000   khuẩn lạc. Các nhà khoa học phân loại vi khuẩn nhiễm vào sữa tươi thành hai nhóm: vi   khuẩn không sinh độc tố và vi khuẩn sinh độc tố. Vi khuẩn không sinh độc tố Các vi khuẩn thường gặp trong sữa là vi khuẩn lactic, một số  vi khuẩn thuộc   nhóm Coliform, vi khuẩn sinh acid butyric, vi khuẩn sinh acid propionic và các vi khuẩn   gây thối. Vi khuẩn lactic: rất phổ  biến trong tự  nhiên. Chúng thường được tìm thấy trên  các loại rau, trái cây và trong hệ  thông đường ruột của động vật. Vi khuẩn lactic có  dạng hình cầu hoặc hình gậy, đứng riêng lẻ  hoặc tạo chuỗi, Gram (+). Nhiệt độ  sinh   trưởng tối  ưu dao động trong khoảng 25÷47oC. Để  tồn tại trong môi trường sữa, vi  11
  12. khuẩn lactic tổng hợp những năng lượng ATP từ  cơ  chất lactose. Acid lactic là một   trong những sản phẩm được sinh ra từ  quá trình tổng hợp năng lượng trên. Dựa vào  nhóm sản phẩm được tổng hợp từ quá trình trao đổi năng lượng, người ta chia vi khuẩn  lactic thành hai nhóm: ­ Vi khuẩn lactic đồng hình: acid lactic là sản phẩm chính và hàm lượng của nó  chiếm tỷ lệ vượt trội hơn nhiều so với các sản phẩm phụ khác. ­ Vi khuẩn lactic dị  hình: các sản phẩm được tạo thành  ừ  quá trình chuyển hóa   đường gồm có acid lactic, acid acetic, ethanol, khí CO 2…. Hàm lượng lactic acid  thu được không cao hơn nhiều so với hàm lượng các sản phẩm còn lại. Trong công nghiệp lên men các sản phẩm từ  sữa như yoghurt, kefir, phô mai và  một số loại bơ, người ta sử dụng các loài vi khuẩn lactic để  thực hiện một số chuyển   hóa cần thiết. Giống vi khuẩn lactic trong sản xuất công nghiệp là những canh trường   vi sinh vật thuần khiết được nhân lên qua nhiều cấp từ một tế bào vi khuẩn ban đầu đã  qua tuyển chọn. Còn các vi khuẩn lactic có mặt trong sữa tươi sau khi vắt được xem   như  là những vi sinh vật tạp nhiễm. Chúng sẽ  tạo ra những chuyển hóa ngoài ý muốn  của nhà sản xuất trong quá trình bảo quản trước khi chế biến (giảm pH, đông tụ casein,  xuất hiện các hợp chất mới trong sữa như  ethanol, acid acetic… Làm thay đổi thành  phần và giá trị  cảm quan của sữa). Các vi khuẩn lactic nhiễm vào sữa thuộc nhiều  giống   khác   nhau   như  Streptococcus,   Lactococcus,   Lactobicillus,   Leuconostos,   Bifidobacterium…  Chúng gồm các nhóm vi khuẩn lên men đồng hình lẫn dị  hình. Khi   thanh trùng sữa ở 80oC, hầu hết các vi khuẩn lactic nhiễm trong sữa sẽ bị tiêu diệt. Vi khuẩn Coliform: được tìm thấy trong đường ruột hệ tiêu hóa động vật và trong  phân.   Người   ta   cũng  tìm   thấy   trong   đất,   nước   hoặc   thực   vật   nhiễm   phân  có   chứa  Coliform. Coliform thuộc nhóm vi khuẩn Gram (­), kỵ khí tùy tiện. Nhiệt độ sinh trưởng  tối ưu nằm trong khoảng 30÷44o C. Cần lưu ý là một số  giống vi khuẩn thuộc nhóm Coliform không sinh tổng hợp   độc tố  gây bệnh cho người; ngược lại một số khác được xem là vi sinh vật gây bệnh  thường gặp trong thực phẩm. Ví dụ  như  một số  chủng thuộc loài Escherichia coli khi  nhiễm vào sữa có khả năng sinh tổng hợp độc tố và gây bệnh tiêu chảy. Trong phần này, chúng tôi muốn nói đến những giống vi khuẩn thuộc nhóm  Coliform nhưng không có khả năng sing tổng hợp độc tố. Trong sữa, chúng sẽ chuyển hóa đường lactose tạo acid lactic và các acid hữu cơ  khác, khí CO2, H2… Chúng cũng phân giải protein trong sữa tươi tạo ra các sản phẩm   12
  13. khí làm cho sữa có mùi khó chịu.  Ở  nhiệt độ  75 oC trong khoảng thời gian 20 giây, vi  khuẩn Coliformsẽ bị tiêu diệt. Vi khuẩn sinh acid butyric (Clostridium butyricum và Clostridium tyrobutyricum):  được tìm thấy trong đất, trên thực vật, trong phân... Do đó, chúng dễ bị nhiễm vào sữa.  Là vi khuẩn Gram (+), thuộc nhóm kỵ  khí bắt buộc, các loài thuộc giống  Clostridium  đều có khả  năng sinh bào tử. Nhiệt độ  sinh trưởng tối  ưu  ở  37oC. Tế  bào sinh dưỡng  hình que, tuy nhiên do nội bào tử (endospore) có kích thước lớn hơn chiều ngang của tế  bào sinh dưỡng nên tế bào chứa bào tử thường có dạng hình thoi hoặc hình dùi trống. Vi khuẩn  Clostridium butyricum  chuyển hóa đường trong sữa thành nhiều sản  phẩm khác nhau như acid butyric, khí CO2, H2… làm thay đổi thành phần hóa học và giá  trị cảm quan của sữa trong quá trình bảo quản. Còn vi khuẩn Clostridium tyrobutyricum  chuyển hóa acid lactic thành acid butylic đồng thời sinh tổng hợp nhiều sản phẩm phụ  khác. Nhìn chung các bào tử thuộc giống Clostridium khá bền với nhiệt độ. Như vậy, trong quá trình thanh trùng sữa không thể tiêu diệt được hoàn toàn các   bào tử  Clostridiumchịu nhiệt. Khi đó, ta phải dùng các giải pháp kỹ  thuật khác như  vi  lọc, ly tâm hoặc sử dụng chất kháng khuẩn để loại bỏ hoặc ức chế Clostridium. Vi khuẩn propionic  (giống  Propionibacterium): được tìm thấy trong dạ  cỏ  và  đường ruột của nhóm động vật nhai lại, trong đất... Chúng có hình cầu, xếp thành đôi  hoặc chuỗi, Gram(+), thuộc nhóm kỵ khí bắt buộc. Nhiệt độ sinh trưởng tối ưu của vi   khuẩn là 30oC. Vi   khuẩn   propionic   chuyển   hóa   đường   thành   acid   propionic,   acid   acetic,   khí  CO2… làm hư hỏng chất lượng sữa. Tuy nhiên, trong công nghiệp sản xuất một số loại  phô mai như  Emmenthal, Gruyere… người ta sử  dụng canh trường   Propionibacterium  thuần khiết để  tạo ra cấu trúc lỗ  hỏng (mắt phô mai) và hương vị  đặc trưng cho sản   phẩm. Hầu hết các vi khuẩn propionic bị tiêu diệt khi thanh trùng sữa ở 75C trong thời   gian 20 giây. Vi khuẩn gây thối: đó là các vi khuẩn có khả  năng sinh tổng hợp protease ngoại   bào trong môi trường sữa. Protease sẽ xúc tác quá trình thủy phân protein tạo ra các sản   phẩm polypeptide, peptide và acid amin. Một số acid amin tiếp tục bị phân hủy tạo NH 3,  H2S… làm cho sữa có mùi khó chịu. Vài giống vi khuẩn gây thối có khả năng sinh tổng hợp lipase ngoại bào. Enzyme  này xúc tác quá trình thủy phân các chất béo trong sữa và tạo nhiều sản phẩm có mùi ôi. 13
  14. Các   giống   vi   khuẩn   gây   thối   thường   gặp   trong   sữa   là  Psedomonas,   Brevibacterium, Achromobacterium, Alcaligenes, Bacillus, Micrococcus… Chúng có dạng  hình cầu hoặc hình gậy, thuộc nhóm hiếu khí lẫn kỵ khí. Trong tự  nhiên, các vi khuẩn   này thường tìm thấy trong phân, trong nước hoặc thức ăn gia súc... Đáng chú ý hơn cả là   loài  Pseudomonas fluorescens. Các enzyme protease và lipase được sinh tổng hợp bởi   loài vi khuẩn này rất bền nhiệt. Chúng là nguyên nhân chính gây nên quá trình phân giải  protein (proteolysis) và lipid (lipolysis), nhanh chóng làm hư hỏng chất lượng sữa. Ngoài hai quá trình thủy phân nói trên, một số vi khuẩn gây thối còn tạo khí (CO2,  H2…), sinh tổng hợp các acis hữu cơ làm giảm pH sữa và gây đông tụ protein. Một số vi   khuẩn khác có thể  sinh tổng hợp được protease có chức năng xúc tác tương tự  như  rennin làm xuất hiện sự đông tụ casein trong sữa. Vi khuẩn sinh tổng hợp độc tố Các vi khuẩn này khi nhiễm vào sữa tươi cũng sẽ  làm thay đổi thành phần hóa  học của sữa, từ  đó giá trị  cảm quan của sữa sẽ  bị  giảm đi. Tuy nhiên, vấn đề  quan   trọng hơn là cúng có khả năng sinh tổng hợp độc tố hoặc gây bệnh cho người sử dụng. Tiếp theo, chúng tôi sẽ  giới thiệu một số  vi khuẩn tiết độc tố  hoặc gây bệnh  thường gặp trong sữa bò tươi. Mycobacterium tuberculosis: đây là vi khuẩn gây bệnh lao. Nó có dạng hình que  dài, đôi khi hơi cong, chiều ngang 0.2 – 0.6  . Vi khuẩn có thể  đứng riêng lẻ  hoặc  dính kết nhiều tế bào lại với nhau. Trực khuẩn lao không di động và không sinh bào tử.   Nguồn gốc gây nhiễm Mycobacterium tuberculosisvào sữa là cơ  thể  bò và thiết bị  vắt  sữa. Trong số các vi sinh vật gây bệnh cho người bị nhiễm vào sữa thì Mycobacterium   tuberculosis có khả năng chịu nhiệt cao nhất. Tuy nhiên, chỉ cần thanh trùng sữa ở 72 oC  trong thời gian 15 giây thì vi khuẩn lao sẽ bị tiêu diệt. Staphylococcus aureus: Vi khuẩn có dạng hình cầu và xếp thành từng đám giống   như  hình chùm nho, Gram (+). Một số  chủng có khả  năng sinh tổng hợp độc tố  bền  nhiệt. Nếu sử  dụng sữa có chứa độc tố  bền nhiệt của  Staphylococcus aureus  thì con  người sẽ bị ói mửa và tiêu chảy. Tác dụng gây nôn là do sự kích thích trung tâm ói mửa  của hệ thần kinh trung  ương sau khi độc tố  tác động lên thụ  thể  thần kinh trong ruột.  Sữa được thu nhận từ những con bò bị viêm vú thường có Staphylococcus aureus. Ngoài  ra, vi khuẩn này cũng được tìm thấy ở người. Quá trình thanh trùng sữa ở nhiệt độ thấp  có thể ức chế được Staphylococcus aureus. Salmonella: Vi khuẩn có dạng hình gậy, kích thước trung bình là 0.5 x 3.0 µm,   Gram (­). Các loài thuộc giống  Salmonellađều có thể  di động, ngoại trừ  Salmonella  14
  15. gallinarum. Uống sữa bị  nhiễm  Salmonella  dễ  bị  bệnh viêm ruột với các triệu chứng  ban đầu là sốt nhẹ, ói và tiêu chảy. Trong tự nhiên, Salmonella được tìm thấy trong phân  gia súc và nguồn nước bị  ô nhiễm. Vi khuẩn này có thể  bị  ức chế  hoàn toàn trong qua  trình thanh trùng sữa ở nhiệt độ thấp. Shigella: đây là trực khuẩn, kích thước chiều ngang 1.0 – 1.5 µm và chiều dài 2 –  6 µm, không di động, Gram (­). Vi khuẩn này có thể  sinh tổng hợp cả  nội độc tố  và   ngoại độc tố. Shigella bị nhiễm trong sữa sẽ tấn công lớp biểu mô niêm mạc ruột già,   tạo thành những áp xe nhỏ, rồi hoại tử, làm ung loét và xuất huyết. Khi đó người bệnh  sẽ có triệu chứng đau bụng, đi tiêu nhiều lần, phân có nhiều nhầy và lẫn máu. Tương  tự như  Salmonella, Shigella thường được tìm thấy trong phân gia súc. Shigella rất dễ bị  tiêu diệt trong phương pháp thanh trùng ở nhiệt độ thấp. Campylobacter jejuni: Vi khuẩn có dạng hình gậy cong hoặc xoắn, có tiêm mao ở  một đầu nên có khả năng di động, Gram (­). Các tế bào  Campylobacter jejuni bị nhiễm  trong sữa sẽ  đến “định cư” tại niêm mạc ruột. Nếu số  vi khuẩn ít hơn 10 4  thì bệnh  thường ít khi xuất hiện. Vi khuẩn có khả  năng sinh tổng hợp độc tố  gây ra các triệu   chứng đau bụng dưới, phân lỏng có đàm và máu. Campylobacter jejuni được tìm thấy  trong phân gia súc. Trong sữa của những con bò bị  bệnh viêm vú, đôi khi tìm thấy vi  khuẩn này.  Campylobacter jejuni  rất mẫn cảm với nhiệt. Do đó, phương pháp thanh  trùng ở nhiệt độ thấp có thể tiêu diệt hoàn toàn vi khuẩn trong sữa. Listeria monocytogenes : vi khuẩn có dạng hình gậy, Gram (+). Nó thuộc nhóm  hiếu khí và có thể sinh trưởng ở nhiệt độ thấp (1 – 5 oC). Listeria monocytogenes có khả  năng gây bệnh cho người như  nhiễm khuẩn máu, viêm màng não. Vi khuẩn này được   tìm thấy khắp nơi trong tự nhiên như trong đất, phân người và động vật, trên rau quả và   thủy sản… Các số  liệu thống kê cho thấy đã có một số  trường hợp sữa bị  nhiễm   Listeria monocytogenes. Tuy nhiên, vi khuẩn này có thể  bị tiêu diệt hoàn toàn trong quá  trình thanh trùng sữa ở nhiệt độ thấp. Vibrio cholera: tế bào có hình dấu phẩy nên còn được gọi là phẩy khuẩn, có khả  năng di động, Gram (­). Trong một só trường hợp, tế  bào vi khuẩn xếp liên tiếp nhau   thành hình chữ S hay hình xoắn. Vibrio cholerae có khả  năng sinh tổng hợp nội độc tố  và gây ra bệnh dịch tả. Vi khuẩn này thường được tìm thấy trong nước. Trong quá trình   thu hoạch sữa, thiết bị  vắt sữa là nguồn gây nhiễm quan trọng Vibrio cholera vào sữa  tươi. Vi khuẩn này khá mẫn cảm với nhiệt. Thanh trùng sữa  ở  60 oC trong vài phút có  thể ức chế hiệu quả các tế bào Vibrio cholera có trong sữa. 15
  16. Coxiella burnetii: vi khuẩn này thuộc họ  Rickettsiae. Đây là họ vi khuẩn đa hình.  Kích   thước   của   chúng   thường   nhỏ   hơn   so   với   các   giống   vi   khuẩn   khác.   Coxiella   burnetii có thể gây bệnh sốt Q. Vi khuẩn này được tìm thấy ở bò, cừu và dê. Quá trình   thanh trùng ở nhiệt độ thấp (ví dụ: ở nhiệt độ  72 oC, thời gian 15 giây) có thể tiêu diệt  được Coxiella burnetii. Baccilus cereus: vi khuẩn có dạng hình gậy, Gram (+) và có khả năng sinh bào tử.   Baccilus cereus  sinh độc tố  ruột (enterotoxin) gây ra các triệu chứng tiêu chảy và nôn  mửa. Bào tử  của vi khuẩn nay được tìm thấy khắp nơi trong tự  nhiên như  trong đất,   bụi, thức ăn gia súc… Quá trình thanh trùng không thể  tiêu diệu được vi khuẩn. Khả  năng chịu nhiệt của các chủng thuộc loài Baccilus cereus rất khác nhau. Một số chủng  có giá trị D121oC = 0.03 phút, một số chủng khác có giá trị D121oC = 2.35 phút (D là thời gian  tiệt trùng cần thiết ở một giá trị nhiệt độ xác định để tổng số tế bào vi khuẩn trong sữa  giảm đi 10 lần). Clostridium botulinum: Vi khuẩn có dạng hình gậy, Gram (+), có khả  năng di   động và sinh bào tử, thuộc nhóm kỵ khí bắt buộc. Độc tố do  Clostridium botulinum sinh  ra có khả  năng gây bệnh botulism. Kết quả  thống kê cho thấy rằng sữa và các sản   phẩm từ sữa có thể bị nhiễm Clostridium botulinum nhưng không gây ra bệnh botulism.  Nguyên nhân có thể là do sữa và các sản phẩm từ sữa không tạo ra được môi trường kỵ  khí nghiêm ngặt. Bào tử  của Clostridium botulinum (nhóm proteolytic) trong dung dịch  đệm phosphate pH = 7.0 có giá trị D121oC = 0.2 phút. Clostridium perfrigens: vi khuẩn hình que to và thẳng, Gram (+), không di động và  sinh bào tử, thuộc nhóm kỵ  khí bắt buộc.  Clostridium perfrigens có thể  sinh tổng hợp  nhiều ngoại độc tố, trong đó có độc tố ruột gây ra các triệu chứng buồn nôn, đau bụng,  tiêu chảy. Bào tử của vi khuẩn này có trong đất, phân gia súc và cũng thường được tìm  thấy trong sữa tươi. Tuy nhiên, sữa và các sản phẩm từ  sữa ít khi gây ra ngộ  độc cho  người sử  dụng khi bị  nhiễm  Clostridium perfrigens. Nguyên nhân là do số  lượng vi  khuẩn trong sữa tươi thấp hơn nhiều so với các loài vi khuẩn khác. Để gây ra bệnh, sữa   thường phải chứa một số lượng lớn vi khuẩn dưới dạng tế bào sinh dưỡng. Quá trình  tiệt trùng ở  nhiệt độ  cao mới có thể  ức chế  được vi khuẩn. Ví dụ  như  bào tử  của các  chủng type A có giá trị D95oC dao động từ 1.3 – 2.8 phút đến 17.6 – 63.0 phút.  Eukaryote Nhóm vi sinh vật eukaryote có nhân hoàn chỉnh. Nằm trong tế  bào chất, nhân   được bao bọc bởi màng nhân, bên trong là các nhiễm sắc thể  lưu giữ  thông tin di  16
  17. truyền. Hai đại diện của nhóm eukaryote thường được tìm thấy trong sữa là nấm men   và nấm sợi. Nấm men (yeasts): là những cơ thể đơn bào, thường có hình cầu, oval hoặc hình  trứng… Nấm men được tìm thấy trong tự  nhiên: trên thực vật, trong đất, nước… Một  số  loài nấm men thường gặp trong sữa như  Saccharomyces cerevisiae, Kluyveromuces   maixianus, Debaromyces hansenii, Torulopsis lactis codensi... Nhiều loài nấm men thuộc  nhóm kỵ khí tùy tiện. Một số  nấm men có thể  sử  dụng  đường lactose cho quá trinh trao đổi chất.  Chúng phát triển trong sữa và gây ra những biến đổi về  thành phần hóa học trong quá   trình bảo quản sữa. Từ  trước đến nay, những loại nấm men nhiễm vào sữa được con   người phát hiện thường không có khả  năng sinh tổng hợp độc tố  và gây bệnh cho con   người. Ở một số địa phương, nấm men được sử dụng trong công nghệ sản xuất các sản   phẩm lên men truyền thống từ sữa. Như  ở Cộng hòa Liên Bang Nga, kefir là sản phẩm   lên men từ sữa bởi hệ vi sinh vật gồm vi khuẩn lactic và nấm men. Các sản phẩm chính   của quá trình lên men như  ethanol, acid lactic, CO 2… tạo ra vị  chua và nồng độ  đặc  trưng cho kefir. Nấm sợi (moulds): có dạng hình sợi, phân nhánh. Trong tự nhiên, nấm sợi thường  tìm thấy trong nhiều loại thực phẩm, trên quần áo, sách vở… Trên một số  vật liệu vô   cơ  dính bụi như  thấu kính, máy  ảnh,  ống nhòm… nấm sợi vẫn có thể  phát triển, sinh   acid và làm mờ  các vật liệu này. Hầu hết các nấm sợi thuộc nhóm hiếu khí bắt buộc,   nhiệt độ sinh trưởng tối ưu từ 20oC÷30oC. Dưới   đây   là   một   số   loài   nấm   sợi   thường   nhiễm   vào   sữa:  Penicillium   camembertii, P.roqueortii, P.casei, Geotrichum candidum, Rhizopus stolonier… Trong số  các nấm sợi nói trên, vài loài thuộc giống   Penicillium  được sử  dụng  trong sản xuất một số loại phô mai. Việc nhiễm nấm sợi vào sữa gây nhiều khó khăn   trong công nghệ  chế  biến sữa, đặc biệt là trong sản xuất phô mai và  ảnh hưởng xấu   đến chất lượng của sản phẩm. Cần lưu ý là một số loài nấm sợi có khả năng sinh tổng   hợp độc tố  mycotoxin. Ví dụ  như  loài  Aspergillus flavus  có khả  năng sinh tổng hợp  aflatoxin. Các nhà sản xuất đã phát hiện một số trường hợp sữa bò bị  nhiễm aflatoxin.   Tuy nhiên, nguyên nhân chủ  yếu làm cho sữa tươi bị  nhiễm afatoxin là nguồn thức ăn   cho bò. Khác với nhóm vi khuẩn sinh bào tử  chịu nhiệt, hầu hết các loài nấm men và   nấm sợi đều bị tiêu diệt trong quá trình thanh trùng sữa ở 75oC trong thời gian từ 10 ÷ 15  17
  18. giây. Vấn đề quan trọng là phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về vệ sinh để tránh   hiện tượng tái nhiễm vi sinh vật vào sữa sau khi đã qua thanh trùng. 2. Công nghệ sau thu hoạch sữa 2.1 Các biến đổi và quá trình bảo quản sữa trước khi chế biến. Trong quá trình bảo quản sữa, các biến đổi vật lý, hóa học, sinh học, hóa lý và hóa  sinh có thể diễn ra. Tuy nhiên tốc độ các biến đổi trên phụ thuộc vào thành phần hóa  học và hệ vi sinh vật có trong sữa sau khi vắt cũng như phụ thuộc vào cá điều kiên bảo  quản (nhiệt độ, sự có mặt của oxy…) 2.1.1 Các biến đổi sinh học và phương pháp hạn chế các biến đổi. Sự  trao đổi chất của hệ vi sinh vật có trong sữa được xem là biến đổi sinh học  quan trọng nhất. Sự trao đổi chất là tập hợp tất cả các phản ứng sinh hóa diễn ra ở tế  bào vi sinh vật. Quá trình này đặt trưng cho các vi sinh vật nói riêng và thế giới sinh vật  nói chung.. Trong quá trình bảo quản, hệ vi sinh vật sẽ phân giải và sử dụng một số chất dinh  dưỡng có trong sữa. Theo thời gian, các tế bào vi sinh vật sẽ lớn hơn về kích thước,  nặng hơn về khối lượng và sữ sinh sản tạo ra nhiều tế bào mới. Song song với các hiện  tượng trên, hàm lượng một số chất dinh dưỡng trong sữa se giảm dần cùng với sự xuất  hiện của nhiều hợp chất mới do vi sinh vật chuyển hóa và phân giải ra. Ta nói các ví  sinh vật đã trao đổi chất với môi trường sữa. Quá trình trao đổi chất giửa vi sinh vật và  môi trường gắn liền với sự tồn tại vá sự sinh trưởng của vi sinh vật nói chung. Trao đổi chất bao gồm 2 quá trình: đồng hóa và dị hóa. Như vậy, nếu đứng từ góc độ sản phẩm, quá trình trao đổi chất có thể được chia  thành 2 nhóm: trao đổi năng lượng và trao đổi vật chất. Cả hai đều phục vụ cho sự tồn  tại cũng như sinh trưởng và phát triển của ví sinh vật trong môi trường. Tốc độ của quá trình trao đổi chất và sinh trưởng của hệ vi sinh vật có trong sữa  phụ thuộc vào nhiêu yếu tố, quan trọng nhất là nhiệt độ bảo quản sữa. Nhóm vi sinh vật Nhiệt dộ sinh  Đại diên vi sinh vật thường tìm  trưởng tối ưu (độ  thấy trong sữa C) Ưa lạnh (psychrophile) 5­10 ­ Cận ưa lạnh (psychrotrophile) 20­25 Pseudomonas fluorescens Pseudomonas putida Ưa ấm (mesophile) Propionibacterium Clostridium butyrium Coliform 30­37 Vi khuẩn lactic: Lactobacillus casel,  Lactobacillus acidophilus Nấm men Nấm sợi 18
  19. Ưa nóng (thermophile) Streptococcus thermophiles 45 Lactobacillus lactis Lactobacillus helveticus Rất ưa nóng ( extremely  >70 ­ thermophile) Các nhóm vi sinh vật khác nhau sẽ có những phương pháp sinh sản khác nhau. Đối với vi khuẩn: Chúng sinh sản theo phương pháp vô tính, chủ yếu là nhân đôi. Số tế bào vi khuẩn trong sữa tang rất nhanh nếu được bảo quản ở điều kiên thích  hợp cho vi khuẩn sinh trưởng và phát triển. Tuy nhiên, sự gia tăng số tế bào vi khuẩn sẽ  bị giới hạn bởi hàm lượng các chất dinh dưỡng có trong sữa. Ngoài ra, chính sự tích lủy  một số sản phẩm trao đổi chất do vi sinh vật tiết vào sữa có thể ức chế sự trao đổi  chất và sự sinh trưởng của chúng. Trong thực tế, người ta sử dụng nhiệt độ thấp để  kìm hảm sự sinh sản của vi khuẩn nói riêng và vi sinh vật nói chung trong quá trình bảo  quản sữa. Đối với nấm men: Nấm men có thể sinh sản bằng phương pháp vô tính hoặc hữu  tính. Nấm men sinh trưởng vô tính bang hình thức nảy chồi hoăc phân đôi, sinh sản hữu  tính bằng cách hai tế bào sẽ tiếp hợp nhau tạo điều kiện cho sự tiếp hợp giữa hai nhân.  Nấm men sinh trưởng tốt ở nhiệt độ 30­370C.  Đối với nấm sợi: Nấm sợi thường sinh sản theo phương pháp vô tính tạo ra bào  tử. Sự phát triển của hệ nấm sợi kéo theo việc tổng hợp các bào tử với số lượng lớn.  Các bào tử này có thể tồn tại trong các điều kiên không thuận lợi về nhiệt độ, độ ẩm…  Một số nấm sợi có thể sinh sản theo phương pháp hữu tính thông qua sự tiếp hợp và  trao đổi vật chất di truyền giửa các sợi nấm. Như vậy: sự sinh trưởng và trao đổi chất của hệ vi sinh vật có trong sữa là quá  trình sinh học quan trọng trong bảo quản sữa tươi. Sự sinh trưởng cảu vi sinh vật sẽ  làm thay sâu sắc thành phần hóa học và tính chất cảm quan của sữa (màu sắc, mùi, vị, …). Để hạn chế những biến đổi sinh học trong quá trình bảo quản sữa ta dùng các biện  pháp sau: Đảm bảo vệ sinh trong giai đoạn vắt và vận chuyển sữa từ nơi thu hoạch  về nhà máy chế biến, nhằm giảm đến mức tối đa hàm lượng vi sinh vật  ban đầu có trong sữa. Tại nhà máy, nếu sữa tươi chưa đưa vào chế biến ngay thì có thể tiến  hành thanh trùng sữa (nhiệt độ 630C, thời gian 15s) 19
  20. Hình 4.5: Thiết bị trao đổi nhiệt dạng bản mỏng dùng để thanh trùng Quá trình bảo quản sữa từ sau khi vắt đến trước khi chế biến phải được  thực hiện trong điều kiện nghiêm ngặt: nhiệt độ sữa không lớn hơn 40C,  tránh sự khuấy trộn và sự có mặt của oxy trong sữa. Theo Luquet (1985), nếu hàm lượng vi sinh vật trong sữa tươi không lớn hơn  10000 tế bào/ml, quá trình bảo quản sữa ở 40C có thể kéo dài trong 3 ngày mà không có  những thay đổi đáng kể về chất lượng sữa. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, sau ba ngày bảo  quản sữa dù ở nhiệt độ thấp, tổng hàm lượng vi sinh vật trong sữa có thể tang đên  1.000.000 tế bào/ml. Khi đó, những biến đổi làm hư hỏng chất lượng sữa do vi sinh vật  sẽ diễn ra với tốc độ nhanh hơn. Nếu hàm lượng vi sinh vật trong sữa tươi sau khi vắt lên đến 50.000 tế bào/ml,  quá trình bảo quản sữa ở 40C chỉ có thể kéo dài trong 2 ngày. Sau 2 ngày, lượng vi sinh  vật trong sữa sẽ tang lên 1.000.000 tế bào/ml Bảo quản bằng phức chất LPS Phức chất Lactoperoxydaza (LPS) là phương tiện bảo vệ tự nhiên có sẵn trong  sữa. Nó bao gồm một enzym (Lactoperoxydaza), liên kết với một anion và một lượng  nhỏ Peroxyde. Phức chất này oxy hoá các cơ chất đặc trưng trên màng tế bào, dẫn đến  rối loạn quá trình trao đổi chất và kết quả là vi khuẩn có thể bị chết. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0