intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Học thuyết Phật giáo nguyên thủy và ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa - xã hội Việt Nam

Chia sẻ: Pham Quang Phuoc | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

341
lượt xem
64
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận: Học thuyết Phật giáo nguyên thủy và ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa - xã hội Việt Nam trình bày về hoàn cảnh ra đời của Phật giáo nguyên thuỷ; nội dung cơ bản của học thuyết Phật giáo nguyên thủy; ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa - xã hội Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Học thuyết Phật giáo nguyên thủy và ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa - xã hội Việt Nam

  1. MỞ ĐẦU Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới, ra đời ở Ấn Độ vào   khoảng cuối thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. “Lịch sử Phật giáo ở Ấn Độ chia  làm 4 thời kỳ: Thời kỳ Phật giáo nguyên thủy, thời kỳ các bộ phái của Phật giáo,   thời kỳ Phật giáo đại thừa và thời kỳ Mật giáo. Thời kỳ Phật giáo nguyên thủy là  thời kỳ từ thế kỷ VI, V tr. Công nguyên đến giữa thế kỷ IV tr. Công nguyên”   [12,  tr.185]. Tư  tưởng Phật giáo nguyên thủy trước hết là tư  tưởng triết lý và luân  lý. Triết lý của Phật giáo là triết lý lấy nhân quả  mà suy luận, làm rõ nhân  duyên của tạo hóa, phá tan sự mờ tối che lấp trí sáng tỏ, cắt đứt lưới mộng ảo  trói buột người vào sinh tử khổ não, đưa con người đến chỗ tịch tính, yên vui.   Luân lý Phật giáo là luân lý lấy vô lượng từ bi mà yêu người, thương vật, tế  độ  chúng sinh, không phân biệt người với ta, không phân chia giai cấp sang  hèn. Tuy nhiên, tư tưởng giải thoát mang nặng tính bi quan, yếm thế về cuộc  sống, chủ  trương “xuất thế”, “siêu thoát” có tính chất duy tâm, không tưởng   về  những vấn đề  xã hội đã phần nào hạn chế  khã năng sáng tạo, tính chủ  động của con người. Phật giáo là một tôn giáo, tín ngưỡng gần gũi đối với con người Việt  Nam, nó còn đóng góp to lớn trong việc làm phong phú thêm bản sắc văn hóa  dân tộc, tình thương,  lòng nhân  ái của con người.  Nó khơi dậy trong con  người một sự giải thoát tĩnh lại. Do đó, tôi chọn đề tài  “Học thuyết Phật giáo nguyên thủy và ảnh hưởng   của nó đến đời sống văn hóa ­ xã hội Việt Nam” để làm tiểu luận 1
  2. NỘI DUNG CHƯƠNG I:  HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA PHẬT GIÁO NGUYÊN  THUỶ 1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội   Phật giáo là một trào lưu triết học tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối  thế  kỷ  thứ  VI trước Công nguyên gắn liền với những điều kiện tự    nhiên,  kinh tế – xã hội của Ấn Độ lúc bấy giờ. Về  điều kiện tự  nhiên:  Ấn Độ  cổ  đại là một lục địa lớn  ờ  phía Nam   châu Á, có những yếu tố địa lý rất trái ngược nhau: Vừa có núi cao, lại vừa có   biển rộng; vừa có sông  Ấn chảy về  phía Tây, lại vừa có sông Hằng chảy về  phía Đông; vừa có đồng bằng phì nhiêu, lại có sa mạc khô cằn; vừa có tuyết  rơi giá lạnh, lại có nắng cháy, nóng bức,… Về  điều kiện kinh tế – xã hội: Xã hội  Ấn Độ  cổ  đại ra đời sớm. Theo   tài liệu khảo cổ  học, vào khoảng thế  kỷ  XXV trước Công nguyên (tr.CN) đã  xuất hiện nền văn minh sông Ấn, sau đó bị tiêu vong, nay vẫn chưa rõ nguyên  nhân. Từ thế kỷ XV tr.CN, các bộ laic du mục Arya từ Trung Á xâm nhập vào   Ấn Độ. Họ  định cư  rồi đồng hoá với người bản địa Dravida tạo thành cơ  sở  cho sự  xuất hiện quốc gia, nhà nước lần thou hai trên đất  Ấn Độ, từ  thế  kỷ  thou VII tr.CN đến thế  kỷ  XVI sau Công nguyên, đất nước  Ấn Độ  phải trải  qua hàng loạt biến cố  lớn, đó là những cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau   giữa các vương triều trong nước và sự xâm lăng của các quốc gia bên ngoài. Đặc điểm nổi bật điều kiện kinh tế  – xã hội của xã hội  Ấn Độ  cổ,  trung đại là sự  tồn tại rất sớm và kéo dài kết cấu kinh tế  – xã hội theo mô   2
  3. hình “công xã nông thôn”, trong đó, theo C.Mác, chế  độ  quốc hữu về  ruộng   đất là cơ sở  quan trọng nhất để  tìm hiểu toàn bộ  lịch sử  Ấn Độ  cổ  đại. Trên  cơ sở đó đã phân hoá và tồn tại bốn đẳng cấp lớn: ­   Đẳng cấp tăng lữ  (Brahman hay đẳng cấp Bàlamôn): là đẳng cấp  có vị  trí cao nhất, vừa thực hiện chức năng thần quyền, vừa thực hiện một   phần (phần quan trọng) chức năng thế quyền. Mặc dù đạo Bàlamôn không có  tổ chức giáo hội, nhưng sự kết hợp giữa nó với thế  quyền làm cho đẳng cấp   này có được địa vị cao nhất. ­ Đẳng cấp quý tộc (Ksatriya):  thực hiện chức năng thế  quyền, song  một phần quyền lực bị đẳng cấp Bàlamôn lấn lướt, nắm giữ. ­ Đẳng cấp bình dân tự  do (Vaisya): dân tự do  ở Aán Độ  và các nước   khu vực châu Aù khác với dân tự do ở phương Tây, vì ở các nước này, dân tự  do là lực lượng sản xuất chủ yếu, do vậy, họ cũng là bộ phận đông đảo nhất   và có vai trò nhất định dù là trong xã hội chiếm nô hay phong kiến. Tất nhiên,   về địa vị xã hội họ vẫn đứng sau đẳng cấp tăng lữ và đẳng cấp quý tộc. ­ Đẳng cấp nô lệ  (Ksudra):  có địa vị  thấp nhất. Song cũng khác với  phương Tây, ở đây nô lệ không phải là lực lượng sản xuất chủ yếu, mà là nô  lệ có tính gia đình, làm công việc hầu hạ, phục dịch cho các đẳng cấp trên. Ngoài ra sự phân hoá giai cấp và đẳng cấp hết sức khắc nghiệt, xã hội  Ấn Độ lúc bấy giờ còn có sự phân biệt chủng tộc, dòng dõi, nghề nghiệp, tôn  giáo. Phật giáo ra đời trong làn sóng phản đối sự  ngự trị của đạo Bàlamôn và  chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội khắc nghiệt, kêu gọi lòng yêu thương, mối  quan hệ  bình đẳng giữa người với người, cho nên có thể  nói Phật giáo chính  là ước mơ, khát vọng, là tư tưởng của các đẳng cấp dưới trong xã hội lúc bấy  giờ. 3
  4. 1.2. Vai trò của người sáng lập Phật giáo ra đời gắn liền với tên tuổi của một người thuộc tầng lớp cao   trong xã hội  Ấn Độ lúc bấy giờ, đó là Thích Ca Mâu Ni.  Thích Ca Mâu Ni tên  thật là Tất Đạt Đa (Siddharta), họ Cù Đàm (Gautama), ông sinh ngày 8 tháng 4  khoảng năm 563 trước Công nguyên và mất năm 483 trước Công nguyên. Ông  là con vua nước Tịnh Phạn, thuộc bộ tộc Sakiya. Mặc dù được kế  vị ngôi vua  cha, nhưng đến năm 29 tuổi, ông đã từ bỏ cung điện, từ bỏ vợ con, bỏ trốn gia  đình đi tìm đường giải thoát cho chúng sinh.  Sau nhiều năm tìm con đường giải thoát cho chúng sinh bằng nhiều cách   thức khác nhau nhưng vẫn chưa thành công. Cuối cùng, ông nhận thấy tu khổ  hạnh chỉ làm suy giảm tinh thần và trí tuệ; còn lối sống hưởng thụ vật chất thì  chỉ làm chậm trễ sự tiến bộ của đạo đức và tâm trí, chỉ có con đường trung đạo  mới mong thành chánh quả. Sau 48 ngày đêm nhập định, ông đã ngộ  đạo, trở  thành Đức Phật, Đức Thế Tôn hay Như Lai. Lúc bấy giờ ông vừa đúng 35 tuổi.  Sau khi đắc đạo, Phật tổ  đi khắp nơi truyền bá tư  tưởng của mình và  thu nhận học trò. Tư tưởng triết lý Phật giáo ban đầu chỉ truyền miệng, sau đó  viết thành văn, thể hiện trong khối lượng kinh điển rất lớn, gọi là “Tam tạng”  gồm ba bộ phận: ­ Tạng kinh (Sutra­pitaka), ghi lời Phật dạy. ­ Tạng luật (Vinaya­pitaka), gồm các giới luật của đạo Phật. ­ Tạng luận (Abhidharma­pitaka), gồm các bài kinh, các tác phẩm luận  giải, bình chú về giáo pháp của các cao tăng, học giả về sau. 4
  5. CHƯƠNG II: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA  HỌC THUYẾT PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY   2.1. Quan niệm về thế giới  Tuy vấn đề  giải thoát là mục đích tối cao, là trung tâm của Phật giáo,  nhưng trong triết lý Phật giáo vẫn toát lên những vấn đề  về  bản thể  luận,  những vấn đề  này được thể  hiện trong tư  tưởng về  “vô thường”, “vô ngã”,   qua học thuyết về ‘nhân quả” hay “nhân sinh duyên”. Trong quan điểm về thế giới, trái với tư tưởng trong kinh Veda và kinh   Upanishad cũng như trong giáo lý đạo Bàlamôn, thừa nhận sự tồn tại của một   thực thể siêu nhiên sáng tạo và chi phối vũ trụ vạn vật (Brahma, Thượng đế);  Phật giáo cho rằng thế  giới về bản chất chỉ là một dòng biến ảo vô thuờng,   không do một vị thần nào sáng tạo ra cả. Do vậy, trong thế giới không thực có  vật, không thực có cái ngã, không có thực thể nào tồn tại thường định và vĩnh   viễn. Ngay cả  bản thân sự  tồn tại của thực thể  con người chẳng qua là do  “ngũ uẩn” hội tụ  lại là: Sắc (vật chất), Thụ  (cảm giác), Tưởng (ấn tượng),   Hành (suy lý) và Thức (ý thức). Như vậy, không có cái gọi là “tôi” (vô ngã).  Theo triết lý Phật giáo, sở dĩ vũ trụ vạn vật biến hóa vô thường chính là  do vạn vật trong vũ trụ chịu sự chi phối của luật nhân – quả. Cái nhân nhờ có  duyên nợ mà trở thành quả; quả mới lại nhờ duyên mới trợ giúp mà tạo thành   nhân mới... Cứ  như  vậy, thế  giới sự  vật, hiện tượng cứ sinh hóa, biến hiện  không ngừng, không nghỉ  theo chu trình bất tận: sinh – trụ  – dị  – diệt. Quá  trình đó có thể  diễn ra trong nháy mắt (một satna, một niệm) hay trong từng   giai đoạn có sự biến đổi về chất. Vì thế, kinh Pháp cú đã viết: “các hành đều  vô thường... khi đem trí tuệ soi xét được như thế thì sẽ  nhằm lìa thống khổ”.   5
  6. Vậy   thì   “có   có”   –   “không   không”   luân   hồi   bất   tận;   “thoáng   có”,   “thoáng  không”, cái còn thì chẳng còn, cái mất thì chẳng mất. Theo triết lý Phật giáo: tất cả  các sự  vật, hiện tượng trong thế giới từ  cái vô cùng nhỏ  đến cái vô cùng lớn, từ  cái đơn giản đến cái phức tạp, đều  chịu sự  chi phối, tác động của luật nhân quả  mà tồn tại và biến hiện. Cái gì   phát động ra ở vật, làm cho nó biến đổi, gây ra một hay nhiều kết quả nào đó   gọi là nhân. Cái gì được kết tập lại do một hay nhiều nhân gọi là quả. Duyên  là điều kiện, là mối liên hệ  trợ  giúp cho nhân (ở  trạng thái khả  năng) biến   thành quả (ở trạng thái hiện thực). Như thế  duyên không chỉ  là một cái gì đó  cụ thể, xác định mà còn là điều kiện, sự tương hợp, tương sinh nói chung giúp   cho vạn pháp sinh thành và biến đổi. Do nhân duyên tan hợp, hợp  tan, vạn vật cứ  sinh hóa biến luận vô  thường, hết thảy thế  giới thiên hình, vạn trạng cũng chỉ  là hư   ảo, không có  thực thể, không có bản ngã, không thực có cảnh có vật. Đó là chân lý cho ta  biết thực tướng của vạn pháp, chân thể  của vũ trụ  và chân bản tính của con   người. Thấy được điều đó gọi là chân như  (satya koka), là đạt tới cõi hạnh  phúc, vô dục, thanh tịnh, an lạc, bất sinh bất diệt... gọi là Niết bàn (Nirvana). 2.2. Quan niệm về đạo đức nhân sinh Phật giáo đặt vấn đề  tìm kiếm mục tiêu nhân sinh  ở  sự  “giải thoát”  (Moksa) khỏi vòng luân hồi, “nghiệp báo” để  đạt tới trạng thái tồn tại Niết  bàn. Triết lý Phật giáo đã vạch ra nguồn gốc nỗi khổ  của con người và con  đường dẫn tới sự diệt khổ nhằm giải thoát chúng sinh khỏi bể khổ của cuộc   đời bằng “Tứ diệu đế”, “Thập nhị nhân duyên” và “Bát chính đạo”. Đây là  tư tưởng triết học đạo đức nhân sinh căn bản nhất của Phật giáo. 6
  7. “Tứ diệu đế” được Phật giáo coi là bốn chân lý cao thượng, chắc chắn,  hiển nhiên. Tứ diệu đế bao gồm Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. ­  Khổ  đế  (Duhkha – satya): Phật giáo coi cuộc đời con người là khổ,   theo quan niệm này, cái khổ bao gồm cả cái khổ và cái vui trong đời sống trần   tục, vì cái vui cũng chỉ là giả tạo. Kinh phật nói: “nước mắt chúng sinh nhiều  hơn cả  nước  ở  đại dương”. Phật giáo đã chỉ  ra tám nỗi khổ  (bát khổ): sinh,   lão (già), bệnh (ốm  đau), tử  (chết), thụ  biệt ly (thương  yêu nhau phải xa   nhau), oán tăng hội (oán ghét nhau nhưng phải sống gần nhau), sở cầu bất đắc  (mong muốn nhưng không được), ngũ thụ  uẩn (năm yếu tố  uẩn tụ  lại nung   nấu làm khổ sở). ­ Tập đế (Samudayya – satya): là nguyên nhân của đau khổ. Phật giáo  cắt nghĩa nguyên nhân của sự khổ trên bằng thuyết “Thập nhị nhân duyên”: + Vô minh: còn gọi là “bến mê” ­ là sự ngu tối, làm cho con người ta sống lầm lạc, đắm chìm trong đời thường. Do vô minh mà có hành, vô minh   làm nhân cho hành. Vô minh là nguyên nhân gốc vì vô minh là khởi đầu của   các nhân duyên khác. + Hành: là tưởng nghĩ, là hành động tạo tác, thì thành ra cái nghiệp, tức   là cái nếp, cái tập khí. Bởi cái nghiệp mà hành động tạo tác mãi. Do hành mà   có thức, do hành làm quả cho vô minh và lại làm nhân cho thức. + Thức: là ý thức, là biết, biết ta là ta, biết ta là một hành động tạo tác   được. Do thức mà có danh sắc, do thức làm quả cho hành và lại làm nhân cho   danh sắc. + Danh sắc: là tên và hình. Ta đã biết ta là riêng một vật, thì phải có tên   có hình của ta. Do danh sắc mà có lục xứ. Vì danh sắc làm quả cho thức và lại   làm nhân cho lục xứ. 7
  8. + Lục căn hay lục nhập là sáu chỗ, tức là sáu giác quan. Ta thường nói   có ngũ quan là: tai, mắt, mũi, lưỡi, thân mà thôi. Đạo Phâït nói thêm một giác   quan nữa là ý thức, tức là sự  suy nghĩ, sự  nhận biết của mình. Đã có tên, có  hình là có lục xứ để giao tiếp với những ngoại vật. Do lục căn mà có xúc. Vì   lục căn làm quả cho danh sắc và lại làm nhân cho xúc. + Xúc là xúc tiếp. Bởi có lục xứ  là tai, mắt... thì ta xúc tiếp với những   thanh âm, hình sắc... của ngoại vật vào mình. Do xúc mà có thụ. Vì xúc làm   quả cho lục xứ và lại làm nhân cho thụ.  +  Thụ là chịu, là lĩnh nạp cái ảnh hưởng, cái thế lực, hoặc cái thanh âm,  hình sắc của ngoại vật vào mình. Do thụ mà có ái. Vì thụ làm quả cho xúc và  làm nhân cho ái. + Aùi là khát vọng yêu thích, mong muốn, tức là lòng tư  dục. Do ái mà   có thủ. Vì ái làm quả cho thụ và lại làm nhân cho thủ. + Thủ là lấy, giữ lấy, quyến luyến lấy những sự nó làm cho ta sống. Dẫu  ta biết sống là khổ, nhưng vẫn không bỏ những cái ta muốn lấy để sống, cứ theo  đuổi để lấy cho được. Do thủ mà có hữu. Vì thủ làm quả cho ái và lại làm nhân  cho hữu. + Hữu là có, có ta, có sống  ở  trong thế  gian. Bởi ham muốn những cái   nó làm cho ta sống, cho ta thích, như  là ngũ uẩn: sắc, thụ, tưởng, hành, thức.   Vì có ngũ uẩn ấy cho nên ta mới có trần dục, nó gây thành cái lậu nghiệp. Do   hữu mà có sinh. Aáy là hữu làm quả cho thủ và lại làm nhân cho sinh.  + Sinh là sinh ra  ở thế  gian, làm thần thánh  ở  trên trời, làm người, làm  quỷ, làm súc sinh. Do sinh mà có lão tử. Aáy là sinh làm quả  cho hữu và lại  làm nhân cho lão tử. 8
  9. + Lão – Tử là già và chết. Đã sinh ra là phải già và chết. Nhưng sinh với   tử là hai thể như sáng với tối, sấp với ngửa vậy. Sống với chết cứ luân chuyển  thay đổi nhau. Chết là thể phách, còn là tinh anh. Cái tinh anh lìa bỏ cái xác đã  chết, nhưng vẫn lẩn quẩn trong cái vô minh, cho nên lại mang cái nghiệp mà  lưu chuyển chìm nổi ở trong tam giới và lục đạo, tức là cứ luân hồi ở trong thế  gian. Bởi vì đạo Phật gọi thế gian là gọi gồm cả tam giới và lục đạo. Tam giới   là dục giới, sắc giới và vô sắc giới; lục đạo và cõi trời, nhân gian, a­tu­la, súc  sinh, ngạ quỷ và địa ngục. Hễ còn luân hồi là còn cái khổ. Vậy tập họp cả  mười hai nhân duyên lại, kết thành cái dây trói buộc  người ta ở trong bể khổ, cho nên gọi là tập. Nếu giải thích mười hai nhân duyên theo chiều thuận thì trước hết bắt  đầu từ vô minh là sự mông muội, mờ tối, không sáng tỏ, không bản nhiên của  tâm trí con người. Vô minh như lớp mây mù bao phủ che lấp mọi sự hiểu biết  chân chính, vô minh là không nhận thức được thực tướng của vạn pháp và  không thấu triệt được chân bản tính của mình. Trong Tập kinh (Sutta Nipàta), câu 730, đức Phật nói: “vô minh là lớp   ảo kiến mịt mù dày đặc trong ấy chúng sinh quây quần quanh lộn". Chính vô  minh khiến tâm con người ta vọng động, ham muốn và hành động để  thỏa  mãn những ham muốn. Vậy tùy thuộc vô minh mà hành (samskara) phát sinh.  Chữ samskara có rất nhiều ý nghĩa nhưng có thể định nghĩa hành là hành động  tạo tác nên tạo ra nghiệp. Vậy hành là những tác ý (cetana), thiện (kusala), bất   thiện (akusala) và không lay chuyển (ànenja) tạo nghiệp. Tất cả  những tư  tưởng, lời nói và việc làm, thiện và bất thiện đều nằm trong hành. Chúng trực  tiếp bắt nguồn từ vô minh hay gián tiếp từ vô minh thúc đẩy và nhất định đều  tạo nghiệp. Tùy thuộc vào hành, tức hành động thiện và bất thiện trong kiếp  9
  10. vừa qua thức phát sinh trong kiếp kế tiếp.  Thức (vijnana) là ý thức, biết ta là  ta. Do thức mà có danh sắc phát sinh, ý thức là quả cho hành và lại là nhân cho  ý danh sắc. Danh sắc (nama­rupa) là tên và hình. Danh sắc phát sinh cùng một  lúc với thức tái sinh (thức nối liền kiếp quá khứ  và kiếp hiện tại). Nếu hành   và thức thuộc về kiếp quá khứ  và kiếp hiện tại của một chúng sinh, thì thức  và danh sắc lại cùng phát sinh trong một kiếp sống. Do có danh sắc (tức có tên  và hình của ta) mà có lục căn hay lục nhập (sadayatana).  Lục căn  tức là sáu  giác quan của con người để  tiếp xúc, tiếp nhận sự  tác động của ngoại giới,   gồm tai, mắt, lưỡi, mũi, thân và ý (guồng máy chia lục căn của con người vận   chuyển tự  nhiên, không cần có một tác nhân nào tương tự  như  một linh hồn   để  điều khiển). Mỗi căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý) đều có những đối  tượng và sinh họat riêng biệt. Mỗi đối tượng của lục căn (sắc, thanh, hương,   vị, xúc, pháp) chạm với mỗi căn liên hệ, làm phát sinh một loại thức. Như sắc   tiếp xúc với nhãn làm phát sinh nhãn thức, thanh chạm với nhĩ làm phát sinh   nhĩ thức... Điểm giao hợp liên quan của ba yếu tố  “căn” (giác quan), “trần”   (đối tượng của giác quan) và “thức” là xúc. Do lục căn mà có  xúc (sparasa), ấy  là lục căn, là quả cho danh sắc và làm nhân cho xúc. Đức Phật nói trong Tạp A  Hàm rằng: “vì có mắt và hình thể  nên nhận thức phát sinh, xúc là điểm gia  hợp của ba yếu tố  ấy. Vì có tai và âm thanh nên nhĩ thức phát sinh. Vì mũi và  mùi nên tỷ thức phát sinh. Vì có lưỡi và vị  nên thiệt thức phát sinh. Vì có tâm  (ý) và có đối tượng của tâm (pháp) nên ý thức phát sinh điểm giao hợp của ba   yếu tố đó là xúc. Do có xúc mà có thụ, ấy là xúc làm quả  cho lục căn và làm   nhân cho thụ. Thụ (vedana) là tiếp thụ, thu nhận các tác động của đối tượng   vào mình, khi các đối tượng ấy tiếp xúc với các giác quan. Chính thụ thu nhận  quả lành hay dữ của những hành động trong hiện tại hay trong quá khứ. Ngoài   10
  11. tâm sở  tụ, không có một linh hồn hay một bản ngã nào hưởng quả  lành hay  chịu quả dữ. Có ba loại thụ là thụ lạc, thụ khổ và thụ vô ký (tức không hạnh   phúc cũng không phiền não). Do có thụ cảm, thụ nhận, tiếp thụ mà có ái, ấy là thụ là quả cho xúc mà  lại làm nhân cho ái phát sinh.  Aùi  (trisna) là luyến ái, khao khát, yêu thích,  mong muốn, bấu víu. Có ba loại ái dục, đó là: 1. Ái dục duyên theo nhục dục ngũ trần; 2. Ái   dục duyên theo khoái lạc vật chất có liên quan đến chủ  trương thường kiến.   Trong lúc thụ  hưởng, nghĩ rằng vạn vật là trường tồn vĩnh cửu và những  khoái lạc này sẽ  mãi mãi tồn tại; 3. Ái dục duyên theo những khoái lạc vật  chất có liên quan đến chủ trương đoạn kiến. Trong lúc thụ  hưởng, nghĩ rằng  tất cả đều tiêu diệt sau khi chết. Tùy thuộc ái, thủ phát sinh. Vậy ái là quả cho   thụ  và là nhân cho thủ.  Thủ  (Upadana) là giữ  lấy, cố  bám lấy vật mà mình  ham muốn. Nguyên nhân của thủ chính là do luyến ái và lầm lạc. Thủ có bốn   loại: nhục dục, tà kiến, thân kiến và chủ trương sai lầm cho rằng: có một linh  hồn trường cửu. Do thủ mà lại phát sinh ý nghĩ sai lầm là: “tôi” và “của tôi”.   Aáy là thủ làm quả cho ái mà làm nhân cho hữu. Hữu (Bhava) là có tại tồn tại,  hiện hữu. Có ta với sắc, thụ, tưởng, hành, thức nên mới có ái dục gây nên   nghiệp. Theo sát nghĩa gốc, Bhava là đang trở  thành. Hữu là hành động tạo  nghiệp thiện và bất thiện (tiến trình tích cực của sự trở thành).  Như vậy, hành và hữu đều là hành động tạo nghiệp. Nhưng nếu hành là hành động trong quá khứ, thì hữu là hành động trong hiện tại. Do hữu mà có  sinh,  ấy là hữu làm quả  cho thủ  và lại làm nhân cho sinh. Sinh (Jati) là hiện  hữu, là ta sinh ra  ở  thế  gian, sinh là hiện tượng phát sinh của những hiện  tượng tâm­vật­lý. Có sinh tất có lão tử,  ấy là sinh làm quả  cho hữu và làm  11
  12. nhân cho lão tử. Lão tử (Java­marana) là già và chết. Đã sinh ra tất phải có già  và chết. Nhưng sống và chết, sinh và tử là hai mặt đối nhau mà không tách rời  nhau như sáng và tối, âm và duơng níu kéo con người trong vòng sinh tử  luân  hồi.  Nếu giải thích mười hai nhân duyên theo chiều từ  dưới lên, phải bắt  đầu từ lão tử. Lão tử (java­marana) của vị lai phải chịu, là từ sinh (jati) ở vị lai   mà có; Sinh  ở  vị  lai là kết quả  tích tập mọi nghiệp  ở  hiện tại là hữu mà có;  Hữu  (bhava) thì nương vào sự  chấp trược của thủ  mà có; Thủ  (upàdànna)   nương vào sự  tham ái vật dục mà có; Ái (trisna) nương vào sự cảm giác khổ  vui của thụ mà có; Thụ (vedana) phải dựa vào sự tiếp xúc, tiếp nhận tác động  của đối tượng ngoại cảnh của xúc mà có; Xúc (sparasa) phải nhờ sự tiếp xúc  của sáu cơ  quan cảm giác với ngoại vật mà có ;  Lục căn  (sadàyatana) phải  nhờ vào sự kết hợp giữa thân và tâm, danh và hình của danh sắc mà có; Danh  sắc  (nama­   rupa)   nương   vào   sự   tác   dụng   nhận   thức   phân   biệt   của   thức   (vijnãna) mà có; nhưng thân thể  của hiện tại thì đều do kết quả  của nghiệp  của quá khứ  đã tạo thành là hành (samskara);  Hành  nương vào hoặc tức vô  minh mà sinh ra. Như vậy, dù giải thích mười hai nhân duyên theo cách nào, triết lý của  Phật giáo cũng đều chỉ  ra nguyên nhân căn bản của mọi đau khổ  của chúng  sinh là từ vô minh. Trong mười hai nhân duyên, hai chi sinh và lão tử  là hai quả  vị  lai là   nguyên nhân của ba chi ái, thủ hữu, gọi là ba nhân của hiện tại. Năm chi: thức,   danh sắc, lục căn, xúc, thủ  là nguyên nhân gián tiếp cho hai quả  vị  lai, đồng   thời lại là kết quả về  nghiệp của quá khứ, nên còn gọi là năm quả  của hiện  tại. Vô minh và hành là hai nhân quá khứ. 12
  13. ­ Diệt đế (Nirodha – satya): là giải thoát luận và cũng là lý tưởng luận của  Phật giáo, nó là phương pháp diệt trừ từ  gốc đến ngọn (từ  nhân cho đến quả)  nỗi khổ, giải thoát con người khỏi nghiệp chướng luân hồi. Theo triết lý Phật  giáo, muốn vậy phải tận diệt mọi ái dục, dứt bỏ được vô minh, đạt tới sáng tỏ  bản nhiên trong tâm con người, đưa chúng sinh tới Niết bàn thường trụ.  ­  Đạo đế (Marga – satya): là cách thức, con đường để  giải thoát khỏi  nỗi khổ. Con đường đó không phải là cách thức tu luyện khổ  hạnh ép xác,  cũng không phải là chìm đắm trong dục lạc thấp hèn, thô bỉ. Đó là hai thái cực   không thể đưa đến giải thoát. Con đường để diệt dục vọng, xóa vô minh, giác  ngộ  và giải thoát, theo đức Phật là con đường  ở  giữa hai thái cực kia, là con  đường tu luyện đạo đức theo giáo luật (sila), và tu luyện tri thức, trí tuệ bằng   thực nghiệp tâm linh, “trực giác”. Đó chính là con đường  bát chính đạo, bao  gồm:  Chính kiến  (nhận thức đúng, nhìn nhận rõ phải trái, không để  những  điều sai trái che lấp sự  sáng suốt của mình),  Chính tư  duy  (nhận thức đúng,  nhìn nhận rõ phải trái, không để những điều sai trái che lấp sự  sáng suốt của  mình),  Chính ngữ  (chỉ  nói những điều đúng đắn, điều phải, điều tốt, không  được nói những điều gian dối, điều ác, điều xấu), Chính nghiệp (hành động,  làm việc đúng đắn, không làm những điều tàn bạo, gian ác, giả  dối),  Chính  mệnh (sống đúng đắn, trung thực, nhân nghĩa, không tham lam, gian tà, vụ lợi),   Chính tinh tiến (nỗ lực, sáng suốt, vươn lên một cách đúng đắn), Chính niệm  (phải luôn tâm niệm và suy nghĩ đến đạo lý chân chính, đến điều tốt, không  được nghĩ đến điều xấu xa, bạo ngược và tà đạo) và Chính định (kiên định,  tập trung tư tưởng tâm trí vào con đường, đạo lý chân chính, không để bất cứ  điều gì làm thay đổi tâm trí, đạt đến giác ngộ). 13
  14. Trong tám biện pháp tu luyện để đạt tới giác ngộ và giải thoát thì chính   kiến, chính tư  duy thuộc về  môn tu luyện trí tuệ  (prajnâ), chính ngữ, chính  nghiệp, chính mệnh thuộc về  môn tu luyện đạo đức theo giới luật (sila), còn  chính tinh tiến, chính niệm, chính định thuộc về  môn tu thiền định (samadhi).   Triết học Phật giáo khái quát ba phương pháp tu luyện đó, gọi là “tam học”,  gồm: giới (sila), định (dhyâna) và trí tuệ (samadhi). Như vậy, tư tưởng về đạo  đế chính là đạo đức luận và tri thức luận của phật giáo.  14
  15. CHƯƠNG III: ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG  VĂN HÓA ­ XàHỘI VIỆT NAM 3.1. Phật giáo đã góp phần đào tạo một tầng lớp trí thức Tầng lớp trí thức đầu tiên mà Phật đã đào tạo mang tính chất nhà sư am  hiểu nho giáo. Tăng thống Ngô Chân Lưu hiệu là Khuông Việt đại sư  là một   nhân vật tiêu biểu. Khi người Hán đến cai trị  nướca ta thì họ  mang chữ  Hán đến. Nhưng   khi đến vùng đất này, người Hán chủ  trương không mở  trường đào tạo trí  thức người Việt mà chủ yếu đưa người Hán sang làm quan cai trị. Tầng lớp trí   thức Việt dầu tiên là trí thức Phật giáo. Người đầu tiên để lại tên tuổi là Pháp  Hiền. Phật giáo truyền vào Dầu cuối thế kỷ thứ II, hình thành trung tâm Dâu  mà Pháp Hiền là nhà sư  Việt đầu tiên lưu tên trong sơn môn.  Thế  kỷ  VII –  VIII, tăng sĩ Việt Nam có nhiều người có trí thức uyên thâm về  Phật giáo.  Nhiều người giỏi cả Phạn ngữ, đã tham gia giải kinh Phật. Như trước đó, thế  kỷ thứ III, tư liệu để lại cho biết về Đạo Thanh, một người Việt giúp nhà sư  ấn Độ dịch Pháp Hoa Tam Muội Kinh ở nước ta khoảng năm 255 – 256. Tuy nhiên do chính sách nô dịch hà khắc và việc hạn chế đào tạo người  Việt trở  thành trí thức, chính quyền đô hộ  Hán ­ Đường đã gián tiếp hun đúc  các thiền sư  Việt Nam ý thức về  một nền độc lập dân tộc. Những nhà sư  Phật giáo dã là tầng lớp trí thức trụ  cột cho những chính quyền độc lập đầu  tiên như các nhà tiền Lê ­ Lý – Trần. Lê Đại Hành khi lên ngôi Vua đã mời Thiền sư Pháp Thuận và Thiền sư  Vạn Hạnh của thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi vào triều đình làm cố  vấn chính   trị. Đạo Phật là tôn giáo thịnh đạt nhất trong xã hội thời Lý Trần được coi như  15
  16. một quốc giáo. Thời Lý, Trần có rất nhiều nhà sư nổi tiếng trong cả nước, có   uy tín và đìa vị  chính trị  xã hội. Có thể  kể  đến các nhà sư  Vạn Hạnh, Mãn   Giác, Viên Thông, Minh Không, Giác Hải, Pháp Loa, Huyền Quang. Nhà nước Lý ,Trần tôn chuộng đạo Phật, trong bối cảnh của sự khoan  dung, hoà hợp tôn giáo “Tam giáo đồng nguyên”, chủ  yếu là sự  kết hợp giữa  Phật Giáo và Nho giáo, giữa giáo lí và thực tiễn đời sống. Đạo Phật thời Lý   Trần đã ảnh hưởng đến đường lối cai trị của nhà nước, là đối trọng tư tưởng  của Nho giáo. 3.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến nền kiến trúc chùa phong phú Một ảnh hưởng khác của Phật giáo đó chính là về  kiến trúc. Kiến trúc  là sản phẩm nhân tạo cho nên cũng chính là văn hoá và sự  phát triển của nó   đánh dấu bước tiến của văn minh. Khởi thuỷ  nơi trú  ẩn đầu tiên của con người là ngôi nhà tự  nhiên. Đó  chính là những hang động những vòm đá. Tuy nhiên ngôi nhà tự  nhiên này  không thể che chở an toàn cho con người với bao như thứ hiểm hoạ chết chóc.  Để  chống chọi với những hiểm nguy trong cuộc sống, con người phải làm  nhà để ở, chống lại tất cả sức mạnh tự nhiên đó. Ban đầu người Việt làm nhà  sàn bằng gỗ rồi làm nhà đất bằng tre. Tuy nhiên dù là nhà sàn hay nhà đất thì   cho đến trước năm 1945, những ngôi nhà tranh tre của người Việt vẫn còn tồn   tại như nguyên mẫu xa xưa. Đó là một ngôi nhà hình chữ  nhật thông thường  chia làm 3 gian với chiều dài từ  6 – 10 mét, đôi khi có nối các chái. Đó là  những ngôi nhà tranh lè tè mái rạ vàng rộm. Những ngôi nhà nông thôn có một   mầu như vậy. Đền thờ nhà là gốc đa, và về sau đã có nghè thì cũng chỉ là ngôi  nhà hai ba gian đơn sơ như nhà ở. Thế nhưng, một khi Phật giáo du nhập vào   thì hai loại hình kiến trúc mới đã xuất hiện đó là chùa và tháp. 16
  17. Cho đến khi ngôi chùa xuất hiện, dù thuộc niên đại muộn hơn buổi đầu   Phật giáo it nhiều, thì xóm làng vẫn còn là một quần thể nhà tranh. Ngôi chùa   chiếm ngay đến địa vị  trung tâm của làng và trở  thành nơi quần tụ  văn hoá.  Người dân đi học, đi chợ, đi chơi hội, đi xem múa rối nước cũng đều  ở  tại   chùa. Ngày nay chợ  Dâu vẫn còn họp trước chùa Dâu (Bắc Ninh). Sân khấu   rối nước vẫn còn  ở  chùa Thầy (Hà Tây) với chú tễu và con rồng, là những  hình tượng Phật giáo.  Buổi đầu chùa Việt mô phỏng chùa hang  Ấn Độ. Chùa  Ấn Độ  là mô  hình một hang đá gồm có tiền đường và một hậu cung đặt biểu tượng Phật và  một số tăng phòng xung quanh. Chuyển sang kiến trúc gỗ thì ngôi nhà ba gian   được nối thêm một chuôi vồ, còn các thiền phòng thành những hành lang và  nhà Tổ. Một số ngôi chùa tiêu biểu ở Hà Nội hiện nay thuộc mô hình này như  chùa Hồng Phúc (chùa Hoè Nhai), chùa Liên Phái, Chùa Linh Quang… Phật điện phát triển để chùa có một kiến trúc mới: chùa chữ “công”. Có  thể  thấy chùa Diên  ứng (Bắc Ninh) là một tiêu biểu. Dạng kiến trúc này  thường thấy có tường bao quanh và trở  thành kiểu nội công ngoại quốc như  chùa Chiêu Thiền (chùa Láng) ở Hà Nội. Thông thường loại hình kiến trúc này  của chùa thuộc loại hình chùa quy mô lớn. Chùa chữ “Tam” là một kiến trúc khác của chùa Việt có ảnh hưởng của   chế  độ  viện lạc Trung Quốc, như  chùa Thiên Phúc (chùa Thầy), chùa Sùng  Phúc (chùa Tây Phương) ở Hà Tây, chùa một cột ở Hà Nội. Trong những ngôi chùa trên, thì chùa Một Cột (chùa Diên Hựu – kéo dài   tuổi  thọ)   được  xây dựng  năm1049, là một sản phẩm tiêu biểu không thể  không đề  cập. Buổi khởi dựng của chùa có kiến trúc hình  ảnh một bông sen  khổng lồ nở trên mặt nước. Đó là sáng tạo của các nhà kiến trúc giữa thế kỷ  17
  18. XI, theo ý tưởng giấc mơ của vua Lý Thái Tông về một bông sen. Năm 1080,   vua Lý cho đúc một quả  chuông lớn, đánh không kêu, cho là đã thành khí nên   không thiêu huỷ, mới đem để ở  ruộng chùa. Ruộng ẩm có nhiều rùa chui vào   làm tổ nên gọi là chuông Quy Điền cùng với vạc chùa Phổ  Minh, tượng phật  chùa Quỳnh Lâm và tháp chùa báo Thiên hợp thành “tứ  đại khí” nổi tiếng, là  thành tựu về  nghệ  thuật và kỹ  thuật các thời Lý – Trần. Năm 1105, vua Lý  Nhân Tông cho đào hồ   ở  quanh cột đá có toà sen, gọi là hồ  Linh Chiểu. Bên   ngoài có hồ  Bích Trì. Ngôi chùa thời Lý được xây dựng lại  ở  thời Trần vào  năm 1249 và các đời sau thường tu sửa. Năm 1954, chùa được xây dựng lại  với quy mô kiểu dáng như ngày nay. Chùa Một Cột được coi là biểu tượng của thủ đô nghìn năm văn hiến, là  một danh thắng nổi tiếng mà ai đã từng đến Hà Nội không thể không ghé qua.  Từ  góc độ  khoa học, đã có ý kiến cho rằng, chùa Một Cột chính là một loại  hình điện thờ tư nhân sớm nhất được xây dựng cho một cá nhân cụ thể – vua  ly Thái Tông. Ngày nay, do mô hình kiến trúc đã hiện đại hoá xuất hiẹn chùa dạng   nhà lầu với phác đồ theo chiều thẳng đứng: tầng dưới là nơi thuyết pháp cho  tín đồ  mang tính chất Tiền đường, tầng trên là Phật Điện mang tính chất  Thiêu Hương, Thượng Điện. Chùa thuộc loại này có thể   kể  tới những ngôi  chùa nổi tiếng ở thành phố Hồ Chí Minh như chùa Xa Lợi, chùa Vĩnh Nghiêm. Chùa Khmer lại thuộc một mô hình khác. Mô hình chùa loại này thông  thường là một tứ giác có nhiều tầng bậc chỉ thờ một tượng Thích Ca. Trên các   thềm bậc có những tháp vây quanh và một cửa cổng rất  đặc sắc với hai   apxara hai bên góc như  chùa Svay Ton (chùa Xà Tón)  ở  An Giang, gợi cho   người ta liên tưởng tới dáng dấp cổng tháp Sanchi nổi tiếng ở ấn Độ. 18
  19. Chùa  ở  Nam bộ  lại có kiến trúc kiểu nhà tứ  trụ. Đó là kiểu kiến trúc   nhà rường. Bốn cột cách đều nhau ở bốn góc một diện tích hình vuông, từ bốn  cột cái các kèo đấm và kèo quyết đưa đều ra bốn hướng. Hình vuông được  giải thích đó là một kiểu thức của một ngôi tháp hoặc bắt chước dịch lý  gọi  là kiểu nhà tứ  tượng: Thái Âm – Thiếu Dương – Thái Dương – Thiếu Âm,  Pha màu sắc phong thuỷ, ảnh hưởng của Đạo giáo và Nho giáo. Chùa ở  Nam   Bộ, từ  đầu thế  kỷ  XX đến nay, đã có nhiều cách tân, do vậy chưa định hình   được một mẫu mực nhất định. Chùa  ở  vùng Huế  bắt đầu được xây dựng từ  thời chúa Nguyễn Hoàng  và phát triển mạnh  ở  thời các vua Nguyễn. Chùa  ở  đây chủ  yếu được xây   dựng, tu bổ, tôn tạo dưới sự bảo trợ của triều đình và hoàng gia. Về  cơ bản,   những ngôi chùa  ở  đây có pha nét kiến trúc cung đình. Có thể  kể  đến những  ngôi chùa nổi tiếng của vùng đất này như chùa Thiên Mụ, chùa quốc Ân, chùa   Báo Quốc, chùa Từ Hiếu, chùa Từ Đàm,…. 3.3. Ảnh hưởng của phật giáo đến tư duy của người Việt Nam Phật giáo là một tôn giáo, nhưng trong đó hai yếu tố  tôn giáo và triết   học luôn hoà quện vào nhau làm  cơ  sở  luận chứng cho nhau.ở  đây chung ta   lưu ý đến yếu tố triết học về mặt này Phật giáo đã có ảnh hưởng lớn tới tư  duy của người Việt Nam trong đó có những giá trị  và nhiều hạn chế  nhất   định. Tiếp thu phật giáo tư duy người Việt Nam có thêm một số khái niệm và   phạm trù nói nên bản thể  luận là những vấn đề  cơ  bản của triết học.Trong  thế giới quan phức hợp nhiều thành phần của người Việt Nam thì Phật giáo là  có ý nghĩa nhiều nhất. 19
  20. Hơn tất cả  các học thuyết khác của phương đông,Phật giáo chú ý đến  mặt phát triển tự nhiên của con người,đó là sinh ,lão, bệnh ,tử.Bốn chặng đó  của cuộc đời đã nói lên sự phát triển tất yếu của con người mà nếu ai đó nhận  thức được sẽ không sợ hãi trước sự thay đổi của cuộc đời thậm chí sống lạc   quan bình thản trước cái chết.Nhiều nhà sư  trong Lý – Trần đã có qua niệm  như thế. Phật giáo đã đề cập đến vấn đề ngũ uẩn:sắc ,thụ, tưởng ,thành, thức là  những vấn đề  có ý thức luận sâu xa.Tuy đối tượng đó là tâm và tính chất là   duy tâm nhưng trong quá trình ngũ uẩn chứa đựng một quá trình nhận thức  hợp   lý;Từ   sự   vật   khánh   quan(Sắc),Con   người   cảm   thụ   được(Thụ),Suy  nghĩ(Tưởng),Rồi đem hiện (Hành), và cuối cùng là biết(Thức).Ở đây nếu đem  bóc cái thần bí ra ta thấy có những hạt nhân hợp lý. Phật   giáo  đã   đưa   vào  hệ   tư   tưởng   Việt  Nam   những   qua   niêm   biện  chứng với các khái niệm ‘vô thường’, ‘vô ngã’ Cho thấy phật giáo nhìn sự vật  trong sự  vận động biến đổi liên tục không có gì là trụ  lại mãi, không có ai là   tồn tại mãi.Tuy nhận thức đó chỉ  nhìn thấy cái biến đổi mà không nhìn thấy  cái  ổn định tương đối, chỉ  thấy được cái vận dộng mà không thấy được của  cái hình thức vận động  sẽ đi đến chiều hướng bi quan buông xuôi nhưng mặt   khác phải thấy nhận thức được như  vậy là cũng có chiều sâu, là thấy được  phương diện cơ bản của sự phát triển sự vật. Phật giáo đề cập đến mối nhân duyên đến mối quan hệ nhân quả, đến  việc xét sự  vật phải từ  kết quả  tìm ra nguyên nhân và xem kết quả  này là  nguyên nhân từ kết quả khác trong mỗi qua hệ khác. Tuy vậy Phật giáo cũng có nhứng hạn chế,  ảnh hưởng tiêu cực nhất  định đế tư duy của người việt nam  chúng ta. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2