intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận môn Luật so sánh: Phân tích các đặc trưng cơ bản của họ pháp luật Hồi giáo và chỉ ra những xu hướng phát triển của họ pháp luật này trong bối cảnh xã hội hiện nay

Chia sẻ: Hoang Tuan | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:14

36
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận môn Luật so sánh "Phân tích các đặc trưng cơ bản của họ pháp luật Hồi giáo và chỉ ra những xu hướng phát triển của họ pháp luật này trong bối cảnh xã hội hiện nay" với mục tiêu nhằm tìm hiểu về pháp luật Hồi giáo giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan về các khía cạnh của một “hệ thống” pháp luật lớn trên thế giới như: nguồn gốc hình thành; bản chất pháp lí; các đặc điểm…

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận môn Luật so sánh: Phân tích các đặc trưng cơ bản của họ pháp luật Hồi giáo và chỉ ra những xu hướng phát triển của họ pháp luật này trong bối cảnh xã hội hiện nay

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT _________________ TIỂU LUẬN MÔN HỌC: LUẬT HỌC SO SÁNH ĐỀ TÀI: Phân tích các đặc trưng cơ bản của họ pháp luật Hồi giáo và chỉ ra những xu hướng phát triển của họ pháp luật này trong bối cảnh xã hội hiện nay GVHD: TS. Nguyễn Văn Quân SVTH: Hoàng Văn Tuấn LỚP: QH-L-2021-VB2 (A3) TỔ: (5) Hoàng Văn Tuấn Tiểu luận LUẬT HỌC SO SÁNH 1|Page
  2. Hà Nội, tháng 10 năm 2021 2|Page
  3. MUC LỤC   NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Hoàng Văn Tuấn Tiểu luận LUẬT HỌC SO SÁNH 3|Page
  4. MỞ ĐẦU Hồi giáo, còn gọi là đạo Islam, là một tôn giáo độc thần thuộc nhóm các tôn giáo Abraham. Đây là tôn giáo lớn thứ hai trên thế giới, sau Kitô giáo, và là tôn giáo đang phát triển nhanh nhất, với số tín đồ hiện nay là 1,57 tỷ, chiếm 23% dân số thế giới. Hệ thống pháp luật Hồi giáo (Islam) có mối quan hệ mật thiết với đạo Hồi, ở đâu không có đạo Hồi thì ở đó không có pháp luật Hồi giáo. Hệ thống Luật Hồi giáo có sự khác biệt rất lớn với các hệ thống pháp luật thế giới khác là không có sự tách rời giữa nhà thờ và nhà nước (church and state). Khó có thể phân biệt giữa các quy định của pháp luật và các quy định tôn giáo, vì người Hồi giáo tin rằng pháp luật và tôn giáo chỉ là một. Chính vì vậy, Hệ thống Luật Hồi giáo có những đặc trưng rất riêng, rất đậm chất Hồi giáo, tuy nhiên trong kỷ nguyên mở này, nhu cầu phát triển hội nhập của mọi dân tộc là xu hướng tất yếu, các nước có Đạo hồi cũng không nằm ngoại lệ, và để hội nhập với xã hội hiện đại ngày nay, Hệ thống pháp luật cũng không ngừng cải thiện để hòa nhập chung với thế giới. Trong phạm vi bài Tiểu luận này, tác giả xin phân tích những đặc trưng và xu hướng đó của các nước có Hệ thống pháp luật Hồi giáo với bố cục như sau: 1) Mục I, Khái quát về pháp luật Hồi giáo, Mục đích: từ khái niệm cơ bản, sự phát triển và hình thành, nguồn và những nội dung cơ bản của Luật hồi giáo để đưa ra Những đặc trưng cơ bản của Hệ thống luật hồi giáo (Mục II). 2) Mục III, Tập trung phân tích hai yếu tố: Những điểm khó thích nghi với xã hội hiện nay và Những phương pháp mà Hệ thống luật hồi giáo đang áp dụng để thích nghi với xã hội hiện đại, tác giả sẽ đúc rút ra Những xu hướng mà pháp luật Hồi giáo đang thực hiện để phù hợp với xã hội ngày nay. NỘI DUNG I. Khái quát về pháp luật Hồi giáo I.1. Khái niệm luật Hồi giáo 4|Page
  5. Luật Hồi giáo là tập hợp các chế định, các quy tắc xử sự được rút ra từ những thần khải của thượng đế mà tín đồ Hồi giáo bắt buộc phải tuân theo. Ở các nước Hồi giáo, bên cạnh luật Hồi giáo còn có luật thực định – chịu ảnh hưởng rất lớn từ luật Hồi giáo nhưng hoàn toàn không đồng nhất. Thuật ngữ Hồi giáo (Islam) có nghĩa là “tuân phục”, đó cũng là tư tưởng trung tâm của đạo Hồi. Đạo Hồi chính là lời răn dạy của thánh Allah mà Nhà tiên tri Mohammed đã tìm ra và truyền lại cho người đời, điều đó đã được khái quát thông qua lời cầu nguyện: “không có chúa trời nào khác ngoài Allah và Mohammed là tiên tri của Ngài”. Luật Hồi giáo không phải là hệ thống pháp luật gắn với nhà nước mà chỉ là một phần của Shariah. Luật Hồi giáo không phải là hệ thống các quy phạm hiểu theo đúng nghĩa mà nó được thượng đế đặt ra một lần và không thay đổi, là sự thể hiện ý chí của thượng đế chứ không phải nhà nước. Như vậy, luật Hồi giáo chính là hệ thống các quy định mang tính tôn giáo của những người theo đạo và các quy định này hoàn toàn độc lập, không chịu sự chi phối của nhà nước, không có quyền lực nào có thể thay thế luật Hồi giáo. Luật Hồi giáo có phạm vi điều chỉnh là các quyền và nghĩa vụ của các cá nhân là những người theo đạo Hồi. Mối quan hệ của những người không theo đạo Hồi nhưng sống ở quốc gia Hồi giáo sẽ được điểu chỉnh bởi các quy phạm pháp luật nhà nước. I.2. Sự hình thành và phát triển của Luật Hồi giáo Năm 622 được coi là năm mở đầu của kỉ nguyên Hồi giáo, là năm đầu tiên trong lịch sử Hồi giáo sau sự kiện các bộ tộc tin theo lời giảng thuyết của Mohammed. Trải qua thời gian dài với những biến cố lịch sử dẫn tới sự ra đời của các quốc gia Hồi giáo. Các quốc gia này sử dụng kinh Koran để áp dụng cho xã hội phạt giáo. Đây cũng chính là bộ khung pháp luật cho việc tổ chức chính quyền chính trị cũng như về bổn phận, quyền lợi của “công dân” trong xã hội Hồi giáo. Bên cạnh kinh Koran – những giáo huấn của hoàng đế (nguồn gốc quan trọng nhất của luật Hồi giáo). Ở các quốc gia Hồi giáo, trong trường hợp được coi là không có “giáo huấn của hoàng đế” thì các tín đồ được phép cùng nhau thảo luận dựa trên những nguyên tắc nêu trong khải thị trước đó để đưa ra quyết định, đó Hoàng Văn Tuấn Tiểu luận LUẬT HỌC SO SÁNH 5|Page
  6. chính là nguồn gốc của tập quán bàn bạc (Sunnah) để đi đến sự nhất trí trong cộng đồng (ijma). Dần dần hình thành nên các nguồn của luật Hồi giáo. Và như thế, luật Hồi giáo được hình thành. I.3. Nguồn của luật Hồi giáo Luật Hồi giáo có nguồn gốc thần thánh, bản chất thần thánh này thể hiện ở chỗ pháp luật là ý chí của thượng đế, không có gì trên đời có thể thay thế các điều Thánh Kinh đã dạy. Luật Hồi giáo có hệ thống nguồn luật bao gồm: Kinh Koran; Sunna; Ijma; Qias. Đây là bốn “gốc rễ” của luật Hồi giáo, trong đó nguồn cơ bản là Kinh Koran và Sunna.  Kinh Koran Là cuốn thánh kinh bao gồm 114 chương chia thành các tiết với 6237 đoạn thơ. Các chương dài ngắn rất khác nhau, chương dài nhất có 286 tiết, chương ngắn nhất chỉ có 3 tiết. Kinh Koran nêu ra rất nhiều các luật lệ mà các tín đồ Hồi giáo phải một lực tuân thủ.  Sunna Đây là nguồn luật quan trọng của Islam sau Kinh Koran. Sunna đưa ra các quy định mà trong Kinh Koran không có, ví dụ trong luật Hồi giáo lời thề có tầm quan trọng rất lớn và nó được quy định trong Sunna. Sunna có nghĩa là “con đường quen đi” là lối sống, cách hành xử trong cuộc đời của Mohammed, là những lời khuyên dạy hoặc cấm đoán phát xuất trực tiếp từ Mohammed.  Ijma Được sử dụng để giải thích các nguồn cơ bản, là các giải pháp pháp lí cho những tình huống mới do các học giải Hồi giáo đưa ra trên cơ sở các nguyên tắc chung của nguồn luật cơ bản được chấp nhận. Nó gần giống như tập quán nhưng không đồng nhất với tập quán, không cần sự chấp nhận của cộng đồng mà chỉ cần của người có thẩm quyền. Ijma có vai trò quan trọng đặc biệt trong thực tiễn, có ý kiến cho rằng đây là nền tảng có tính chất giáo điều duy nhất của luật Hồi giáo.  Qias 6|Page
  7. Thực chất là phương pháp suy luận tương tự để giải thích luật, là cách kết hợp ý chí củ thần thánh với lí trí của con người. Tuy nhiên, nó chỉ là cách giải thích và áp dụng luật do luật Hồi giáo được xây dựng trên nguyên tắc uy tín. Nên việc suy luận này chỉ tạo khả năng giải thích luật một cách hợp lí chứ không tạo ra được những quy phạm có tính chất nền tảng. I.4. Những nội dung cơ bản của luật Hồi giáo Luật Hồi giáo điều chỉnh các lĩnh vực pháp luật truyền thống như: hôn nhân-gia đình; thừa kế; hình sự là chủ yếu. Hành vi pháp luật của luật Hồi giáo được chia thành năm loại: Hành vi buộc phải làm; Hành vi nên làm; Hành vi làm cũng được không làm cũng được; Hành vi bị khiển trách; Hành vi cấm.  Về Hình sự: Tội phạm trong luật Hồi giáo về phương diện hình phạt gồm 2 loại: Tội phạm có thể trả bằng tiền; Tội phạm phải trả bằng thân thể hoặc cuộc sống của mình. Theo mức độ nặng nhẹ của tội phạm, kinh thánh Coran xác định 3 loại tội phạm: Hudud: Là tội phạm chống lại Chúa, bao gồm 7 tội: ngoại tình (kể cả thông dâm), vu cáo, uống rượu (nơi công cộng cũng như ở nhà riêng), tội trộm, cướp đường, phản đạo, vi phạm kinh thánh. Quesas: Là các tội phạm đòi hỏi sự trả thù của người bị hại hoặc gia đình người bị hại. Đó là các loại tội phạm: giết người (cố ý hoặc vô ý); gây thương tích (cố ý hoặc vô ý); cưỡng dâm. Các tội Taazir: Bao gồm các tội như ăn thịt lợn, đưa ra lời khai man trá, hối lộ, làm gián điệp, nói năng tục tĩu, mặc quần áo khiêu dâm, vi phạm luật lệ giao thông... Hình phạt có thể là tù, phạt tiền và thường là nhẹ hơn các tội Hudud và Quesas.  Về Dân sự: Quan hệ dân sự trong Luật hồi giáo được gọi là, Hệ thống luật nghĩa vụ xuất phát từ hợp đồng chia làm 2 loại dựa trên việc có hay không sự chuyển giao tài sản: Nhóm thứ nhất liên quan đến việc có chuyển giao tài sản là đối tượng của giao dịch dân sự: Hợp đồng trao đổi; Hợp đồng cho vay; Hợp đồng mua bán. Hoàng Văn Tuấn Tiểu luận LUẬT HỌC SO SÁNH 7|Page
  8. Nhóm thứ hai là nhóm không cần chuyển giao tài sản: Hợp đồng vận chuyển hàng hoá; Hợp đồng uỷ thác… Trong thừa kế, người làm di chúc chỉ có quyền định đoạt 1/3 tài sản của mình. Người thừa kế chỉ hưởng quyền chứ không thừa kế nghĩa vụ. Tài sản phân chia đều cho những người được thừa kế không phân biệt hàng thừa kế thứ nhất, thứ hai như con hay cháu, đều hưởng như nhau.  Về tố tụng: Các toà án ở các nước theo đạo Hồi là các toà án Hồi giáo truyền thống giải quyết các vụ án hình sự cũng như dân sự. Các thẩm phán trong các toà án Chariat gọi là Quadis được trải qua một khoá đào tạo tôn giáo cũng như pháp luật. Thủ tục tố tụng được quy định trong kinh Coran.  Về luật Nhà nước: Những người trung thành với đạo Hồi cho rằng luật Hồi giáo là bất diệt, không bao giờ thay đổi, đây là loại hình pháp luật cuối cùng và trong tương lai toàn thể nhân loại sẽ chấp nhận và tuân thủ nó. Vì thế, các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành không thể làm thay đổi luật Hồi giáo mà chỉ có thể điều chỉnh những chi tiết mà luật Hồi giáo chưa cụ thể hóa hoặc còn bỏ trống. II. Những đặc trưng của họ luật Hồi giáo. Sự khác biệt giữa hệ thống Luật Hồi giáo với các hệ thống pháp luật thế giới khác là ở các quốc gia áp dụng Luật Hồi giáo không có sự tách rời giữa nhà thờ và nhà nước (church and state). Khó có thể phân biệt giữa các quy định của pháp luật và các quy định tôn giáo, vì người Hồi giáo tin rằng pháp luật và tôn giáo chỉ là một. Do đó, Hệ thống Luật Hồi giáo có những đặc trưng rất cơ bản, được khái quát dưới đây: II.1. Luật Hồi giáo mang tính chất tôn giáo. Khác với luật thế tục, luật của nhà nước (là luật do nhà nước đặt ra). Luật Hồi giáo là bất biến, vĩnh cửu, con người không thể sửa đổi các nguyên tắc của giới luật Hồi giáo, nó được truyền bá theo con đường Đạo hồi của các nhà truyền giáo. 8|Page
  9. Đặc điểm mấu chốt của sự khác biệt giữa hệ thống Luật Hồi giáo với các hệ thống pháp luật thế giới khác là ở các quốc gia áp dụng Luật Hồi giáo không có sự tách rời giữa nhà thờ và nhà nước (church and state). Ở đây, chính trị thần quyền (chế độ cai trị của các tăng lữ, trong đó các luật lệ của nhà nước được tin tưởng là luật lệ của Chúa Trời) bao trùm và điều chỉnh các vấn đề mang tính chất công và tư. Cũng chính từ học thuyết này, Shari’ah là luật Thánh Alla ban hành, không biến đổi và được nhà nước áp dụng cho mọi thời đại; nói khác đi, nhà nước, luật pháp và tôn giáo chỉ là một. Khái niệm này có thể hiểu ở mức độ khác nhau giữa các quốc gia, nhưng luật pháp, chính quyền đều dựa vào khái niệm đó và là một phần của tôn giáo Đạo Hồi. II.2. Luật Hồi giáo rất mềm dẻo và linh hoạt. Nội dung của luật Hồi giáo có gốc rễ chủ yếu từ hệ tư tưởng, giáo lí trong kinh Koran, là những lời dạy của thánh Allah mà các tín đồ sẽ tuân theo. Các nguyên tắc của luật Hồi giáo được áp dụng bằng các giải pháp pháp lí mềm dẻo và linh hoạt, phù hợp với sự thay đổi của xã hội. II.3. Luật Hồi giáo không thể bị thay thế bới luật Nhà nước. Nhà nước không thể đặt ra những quy định trái với luật của thượng đế. Luật nhà nước chỉ có thể cấm đối với các hành vi không được phép, cho phép đối với những hành vi có thể làm theo nguyên tắc của luật Hồi giáo. Luật Hồi giáo để áp dụng và giải quyết các vụ việc liên quan đến tín đồ của Đạo hồi. II.4. Phạm vi điều chỉnh của luật Hồi giáo rất rộng. Điều chỉnh cả những hành vi của con người mà pháp luật nhà nước không điều chỉnh. Ví dụ ngoài lĩnh vực Hình sự, Hôn nhân Gia đình, bảo vệ trẻ em…luật Hồi giáo còn điều chỉnh các vấn đề ăn mặc, trang phục… III. Xu hướng phát triển của họ luật Hồi giáo trong bối cảnh xã hội hiện nay. III.1.Thực trạng luật Hồi giáo, những điểm khó thích nghi với xã hội hiện nay Luật Hồi giáo được hình thành từ thế kỷ VII và gần như không có sự thay đổi nào suốt từ khi hình thành tới nay, rất nhiều nội dung không phù hợp với cuộc sống Hoàng Văn Tuấn Tiểu luận LUẬT HỌC SO SÁNH 9|Page
  10. hiện đại ngày nay. Về cơ bản luật Hồi giáo mang đậm nét của dòng họ pháp luật tôn giáo nên có những điểm khó thích nghi với xã hội hiện đại như:  Luật Hồi giáo được coi là do Thượng đế lập ra một lần và không thay đổi nên rất khó để điều chỉnh những quan hệ xã hội mới phát sinh, khó thích nghi với cuộc sống hiện đại.  Luật Hồi giáo có những quy định có tính chất tôn giáo khiến cho luật Hồi giáo can thiệp vào cả những vấn đề mà pháp luật xét thấy không cần thiết, ví dụ như tẩy uế trước khi cầu nguyện; tự do cá nhân, mặc dù những hành vi đấy của cá nhân xét theo phương diện của các dòng họ pháp luật khác là không cần can thiệp.  Luật Hồi giáo không hướng đến sự bình đẳng như những dòng họ pháp luật khác như xem nhẹ vai trò của người phụ nữ; mặc dù trong những quy định có bong dáng của việc bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ nhưng dưới góc độ luật thì những chủ thể nam mới có quyền; ví dụ ở một số nước theo pháp luật Hồi giáo thì phụ nữ còn chưa có quyền bầu cử; hay như quy định chế độ đa thê và người chồng có quyền bỏ rơi người vợ. III.2.Các phương pháp để Luật hồi giáo thích nghi với xã hội hiện nay Mặc dù luật Hồi giáo khó thích ứng với xã hội hiện đại nhưng luật Hồi giáo vẫn đáp ứng được yêu cầu của thế giới Hồi giáo và vẫn luôn là một trong những hệ thống pháp luật lớn của thế giới đang điều chỉnh mối quan hệ của khoảng 1,57 tỉ dân. Chính vì thế, các quốc gia Hồi giáo vẫn tiếp tục khẳng định sự gắn bó với các nguyên tắc của đạo Hồi trong pháp luật của mình, đồng thời không ngừng tìm cách phát triển để thích nghi với pháp luật thế giới, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Có thể thấy một số xu hướng áp dụng chính sách để thích ứng của luật Hồi giáo với xã hội hiện đại qua các cách thức sau:  Áp dụng tập quán. Theo luật Hồi giáo, tập quán không phải là nguồn luật nhưng các luật có thể áp dụng tập quán để lấp những chỗ trống trong luật Hồi giáo. Thông thường, đó là những tập quán liên quan đến cách tính giá trị hoặc cách thức thanh toán của hồi 10 | P a g e
  11. môn, việc sử dụng nguồn nước giữa hai chủ sở hữu đất, hoặc tập quán trong lĩnh vực thương mại. Tuy nhiên, tập quán đó phải phù hợp với luật Hồi giáo.  Sử dụng các thủ thuật pháp lí để loại bỏ các quy định đã lạc hậu. Trong luật Hồi giáo có rất ít điều khoản mang tính bắt buộc mà luật dành cho quyền tự do của con người với phạm vi rất rộng. Do đó, để thích nghi với cuộc sống hiện đại, các luật gia có thể tăng cường sử dụng các thoả thuận giữa các tư nhân để lẩn tránh các quy định pháp luật không còn phù hợp. Như trong lĩnh vực hôn nhân – gia đình, chế độ đa thê, theo luật gia đình Hồi giáo người đàn ông có quyền một lúc lấy nhiều vợ, và người chồng có quyền bỏ rơi vợ. Để hạn chế tình trạng trên, khi kết hôn, vợ chồng có thể thỏa thuận “chung sống tạm thời trong khoảng 70 năm” hoặc các luật gia Hồi giáo có thể sử dụng thủ thuật, quy định bằng văn bản pháp luật, cho người vợ được hưởng khoản bồi thường rất lớn nếu bị người chồng bỏ rơi một cách bất công, hoặc không bình đẳng. Trong lĩnh vực dân sự, luật Hồi giáo cấm cho vay nặng lãi, nhưng có dùng thủ thuât, đưa cho chủ nợ hưởng một số sản phẩm từ thu nhập với danh nghĩa vật đảm bảo hoặc thỏa thuận chia lợi nhuận, bán trả chậm theo cách nào đó. Trong lĩnh vực hình sự, một số hình phạt quyết liệt theo luật Hồi giáo như: “ném đá đến chết người vợ ngoại tình” thường đóng vai trò răn đe về đạo đức hơn là được sử dụng thực tế, Trong trường hợp này, nghĩa vụ chứng minh được đề ra rất cao, với chủ đích để trên thực tế khó có thể thực hiện được: yêu cầu 4 người đàn ông tận mắt chứng kiến hành vi ngoại tình, nếu ai không đủ bằng chứng mà buộc tội người khác sẽ bị phạt bằng roi. [3]  Áp dụng các văn bản pháp luật do cơ quan có thẩm quyền ban hành (các quyết định hành chính, các văn bản pháp luật của các bộ…). Theo đạo Hồi, nhà vua không phải là ông chủ của pháp luật mà là đầy tớ của pháp luật. Do đó nhà vua không thể làm luật. Tuy nhiên, nhà vua phải quản lí đất nước nên luật Hồi giáo thừa nhận tính hợp pháp của các văn bản pháp luật do nhà vua và những người có thẩm quyền ban hành. Hoàng Văn Tuấn Tiểu luận LUẬT HỌC SO SÁNH 11 | P a g e
  12. III.3.Các xu hướng phát triển của pháp luật Hồi giáo để phù hợp với bối cảnh xã hội hiện đại ngày nay. Như vậy, qua phân tích ở trên, từ những nguyên nhân cốt lõi mà Luật Hồi giáo khó thích nghi với xã hội hiện đại, toàn cầu hóa. Song một mặt do xu hướng phát triển của xã hội, sự phát triển của lịch sử ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản và tư tưởng của các hệ thống pháp luật khác từ thế kỷ XIX đến nay, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá, ngày nay nhiều quốc gia Hồi giáo đã đổi mới hệ thống pháp luật của mình. Trong các nước Hồi giáo xuất hiện ba xu hướng phát triển: Thứ nhất: Phương Tây hoá pháp luật, tiếp nhận các chế định pháp luật tiên tiến của phương Tây như chế độ hôn nhân một vợ, một chồng và thiết lập chế độ bình đẳng giới; xây dựng bộ máy nhà nước theo nguyên tắc phân quyền, tổ chức hệ thống toà án phi tôn giáo, tư tưởng pháp luật thoát khỏi tư tưởng tôn giáo. Các nước đã từng là các nước xã hội chủ nghĩa ở vùng Trung Á thuộc Liên Xô cũ như Azerbaijan, Kazakhstan, Kyrgystan, Uzbekistan, Turkmenistan, Tajikistan. Các nước này trước thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, pháp luật Hồi giáo cũng có ảnh hưởng khá sâu sắc. Tuy nhiên, sau khi gia nhập Liên bang cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết, pháp luật Hồi giáo không được khuyến khích phát triển và nhà nước Xô viết không thừa nhận kinh Coran là một nguồn của pháp luật. Người phụ nữ Hồi giáo được giải phóng và có đầy đủ các quyền bình đẳng như nam giới. Hệ thống toà án Hồi giáo không còn tồn tại. Sau khi Liên Xô sụp đổ, các nước thuộc nhóm này đã tiếp nhận hệ thống pháp luật lục địa châu Âu và gia nhập dòng họ pháp luật lục địa châu Âu, do đó, tuy Hồi giáo vẫn tồn tại như một tôn giáo nhưng ảnh hưởng của nó với hệ thống pháp luật quốc gia không đáng kể. Thứ hai: Pháp điển hoá pháp luật, xây dựng nhiều bộ luật: hình sự, dân sự, thương mại, tố tụng hình sự và dân sự theo mô hình của các nước phương Tây kết hợp với việc phát huy các truyền thống văn hoá của dân tộc. 12 | P a g e
  13. Thứ ba: Loại bỏ dần các quy định cổ hủ, lạc hậu nhằm tạo điều kiện cho việc thực hiện quyền bình đẳng nam nữ, bảo vệ các quyền công dân và quyền con người, xây dựng nhà nước pháp quyền. Các nước chỉ dùng luật Hồi giáo để điều chỉnh một số lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội (vấn đề nhân thân, hoạt động của các tổ chức tôn giáo, có thể cả vấn đề đất đai, thừa kế…). Những nước thuộc nhóm này có thể chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật lục địa châu Âu (Civil law) như Indonesia, Iraq hoặc chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Anh – Mỹ (Common law) như Malaisia, Brunei, Myanmar. [5] KẾT LUẬN Như vậy, với nỗ lực của các quốc gia Hồi giáo trong việc tạo ra sự hài hòa giữa pháp luật Hồi giáo với pháp luật quốc tế. Trong đó, là sự dung hòa giữa các nguyên tắc của Đạo hồi và các quy định của pháp luật hiện đại. Đảm bảo yếu tố “đạo” và yếu tố “luật” trong hệ thống pháp luật, rút ngắn “khoảng cách” giữa các hệ thống pháp luật trên thế giới. Thông qua việc tìm hiểu về pháp luật Hồi giáo giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan về các khía cạnh của một “hệ thống” pháp luật lớn trên thế giới như: nguồn gốc hình thành; bản chất pháp lí; các đặc điểm… Đồng thời, thấy được sự khác biệt so với một số quốc gia thuộc các hệ thống pháp luật khác đang tồn tại song song với luật Hồi giáo và sự nỗ lực thích ứng của luật Hồi giáo trong xu hướng toàn cầu hóa trước những nhận định tiêu cực về “hệ thống” pháp luật này. Tài liệu tham khảo [1] “Giáo trình Luật so sánh, trường ĐH Luật Hà Nội”, Chủ biên, TS. Trần Quốc Hoàn Nxb.CAND, Hà Nội 2017. [2] “Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại”, Rene David, Nxb.TP.Hồ Chí Minh, 2003. [3] “Luật so sánh (bản tiếng việt)”, Michael Bogdan, Nxb.Kluwer-Norstedts Juridik-Tano, 2002. [4] “Tìm hiểu hệ thống pháp luật Hồi giáo”, PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng, tạp chí luật học, số 1/2006. [5] “Về hệ thống pháp luật hồi giáo” PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng, www.thongtinphapluat.edu.vn, 2008 XÁC NHẬN CỦA B.C.S LỚP SINH VIÊN THỰC HIỆN Hoàng Văn Tuấn Tiểu luận LUẬT HỌC SO SÁNH 13 | P a g e
  14. Hoàng Văn Tuấn NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN 14 | P a g e
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2