
TIỂU LUẬN: Một số giải pháp hạn chế rủi ro đối với sản phẩm cho vay thế chấp để đầu tư và kinh doanh chứng khoán
lượt xem 27
download

Trước khi ra trường mỗi sinh viên kinh tế đều trải qua một kỳ thực tập vô cùng hữu ích. Nó giúp các sinh viên nắm bắt một phần công việc thuộc ngành đào tạo của mình tại những đơn vị thực tập. Để khi ra trường mỗi sinh viên không bị bỡ ngỡ với công việc thực tế. Giúp các sinh viên nhập cuộc tốt với công việc nếu họ thực sự cố gắng trong kỳ thực tập. Là sinh viên chuyên ngành Marketing- một ngành vô cùng cần thiết trong nền kinh tế thị trường, một ngành...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: TIỂU LUẬN: Một số giải pháp hạn chế rủi ro đối với sản phẩm cho vay thế chấp để đầu tư và kinh doanh chứng khoán
- TIỂU LUẬN: Một số giải pháp hạn chế rủi ro đối với sản phẩm cho vay thế chấp để đầu tư và kinh doanh chứng khoán
- LỜI MỞ ĐẦU Trước khi ra trường mỗi sinh viên kinh tế đều trải qua một kỳ thực tập vô cùng hữu ích. Nó giúp các sinh viên nắm bắt một phần công việc thuộc ngành đào tạo của mình tại những đơn vị thực tập. Để khi ra trường mỗi sinh viên không bị bỡ ngỡ với công việc thực tế. Giúp các sinh viên nhập cuộc tốt với công việc nếu họ thực sự cố gắng trong kỳ thực tập. Là sinh viên chuyên ngành Marketing- một ngành vô cùng cần thiết trong nền kinh tế thị trường, một ngành đòi hỏi sự lao động miệt mài, có óc sáng tạo và lòng đam mê sâu sắc mới hy vọng thành công. Mà muốn thành công trong nghề này thì cần phải cọ xát thực tế càng nhiều, càng tốt. Với em được thực tập tại một môi trường như Ngân hàng Quốc tế là một điều cực kỳ may mắn . Đây là môi trường làm việc năng động, lại đang là ngành phát triển nhanh chóng. Hiện nay, lĩnh vực ngân hàng có thể nói là một trong những lĩnh vực nóng nhất, thu hút sự quan tâm chú ý nhiều nhất.
- CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 1. Marketing ngân hàng 1.1. Khái niệm Hiện nay có nhiều khái niệm về Marketing ngân hàng, việc nghiên cứu các quan niệm khác nhau về Marketing ngân hàng sẽ góp phần làm rõ bản chất và nội dung của nó, giúp việc sử dụng Marketing có hiệu quả hơn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Sau đây là một số quan niệm tiêu biểu: - Marketing ngân hàng là phương pháp quản trị tổng hợp dựa trên cơ sở nhận thức về môi trường kinh doanh; những hành động của ngân hàng nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng, phù hợp với biến động của môi trường. Trên cơ sở đó mà thực hiện các mục tiêu của ngân hàng. - Marketing ngân hàng là toàn bộ những nỗ lực của ngân hàng nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng và thực hiện mục tiêu lợi nhuận. - Marketing ngân hàng là trạng thái tinh thần của khách hàng mà ngân hàng phải thỏa mãn hay là việc thỏa mãn nhu cầu của khách hàng , trên cơ sở đó, ngân hàng đạt được lợi nhuận tối đa. - Marketing ngân hàng là toàn bộ quá trình tổ chức và quản lý của một ngân hàng, từ việc phát hiện ra nhu cầu của các nhóm khách hàng đã chọn và thỏa mãn nhu cầu của họ bằng hệ thống chính sách biện pháp nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận như dự kiến. - Marketing ngân hàng là một tập hợp các hành động khác nhau của chủ ngân hàng nhằm hướng mọi nguồn lực hiện có của ngân hàng vào việc phục vụ tốt hơn nhu cầu khách hàng, trên cơ sở đó mà thực hiện các mục tiêu của ngân hàng. - Marketing ngân hàng là một chức năng của hoạt động quản trị nhằm hướng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng phục vụ những nhóm khách hàng đã chọn của ngân hàng. Mặc dù, có nhiều quan niệm về Marketing ngân hàng nhưng tất cả đều thống nhất ở những điểm sau:
- + Việc sử dụng Marketing vào lĩnh vực ngân hàng phải dựa trên những nguyên tắc, nội dung và phương châm của Marketing hiện đại. + Quá trình Marketing ngân hàng thể hiện sự thống nhất cao độ giữa nhận thức và hành động của ngân hàng về thị trường, nhu cầu khách hàng, và năng lực của ngân hàng. Do vậy ngân hàng cần phải định hướng hoạt động của các bộ phận và toàn thể đội ngũ nhân viên ngân hàng vào việc tạo dựng, duy trì và phát triển mối quan hệ với khách hàng- yếu tố quyết định sự sống còn của ngân hàng trên thị trường; + Nhiệm vụ then chốt của Marketing ngân hàng là xác định được nhu cầu, mong muốn của khách hàng và cách thức đáp ứng nó một cách hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh. 1.2. Vai trò 1.2.1. Marketing tham gia vào việc giải quyết những vấn đề kinh tế cơ bản của hoạt động kinh doanh ngân hàng Ngân hàng thương mại trước hết là một tổ chức kinh doanh tiền tệ trên thị trường tài chính. Nó thực hiện nhiều nghiệp vụ trong và ngoài nước với những đặc trưng cơ bản là: Sự thương phẩm hóa tiền vốn, thị trường hóa hoạt động kinh doanh, sự cực đại hóa hiệu ích sinh sôi tiền vốn, tự cân đối vốn, tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Đồng thời ngân hàng còn là công cụ chính trong việc thực hiện phân phối vốn và cung cấp dịch vụ tài chính cho nền kinh tế. Hoạt động của các ngân hàng gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế và trở thành một bộ phận quan trọng trong cơ chế vận hành nền kinh tế của mỗi quốc gia. Giống như các doanh nghiệp, các ngân hàng cũng phải lựa chọn và giải quyết những vấn đề kinh tế cơ bản của hoạt động kinh doanh với sự hỗ trợ đắc lực của Marketing. Thứ nhất, phải xác định được loại sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung ứng ra thị trường. Bộ phận Marketing sẽ giúp chủ ngân hàng giải quyết tốt vấn đ ề này thông qua các hoạt động như tổ chức thu thập thông tin thị trường, nghiên cứu hành vi tiêu dùng, cách thức sử dụng sản phẩm dịch vụ và lựa chọn ngân hàng của khách hàng, nghiên cứu xác định nhu cầu sản phẩm dịch vụ ngân hàng của khách
- hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp cùng xu thế thay đổi của chúng, nghiên cứu chủng loại sản phẩm dịch vụ mà các định chế tài chính khác đang cung ứng trên thị trường…Đó là những c ăn cứ quan trọng để chủ ngân hàng quyết đ ịnh loại sản phẩm dịch vụ cung ứng ra thị trường cả ở thị trường hiện tại và tương lai. Đây là những vấn đề kinh tế quan trọng vì nó quyết định phương thức hoạt động, kết quả hoạt động, khả năng cạnh tranh cùng vị thế của mỗi ngân hàng trên thị trường. Thứ hai, tổ chức tốt quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ và hoàn thiện mối quan hệ trao đổi giữa khách hàng và ngân hàng trên thị trường. Quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng có sự tham gia đồng thời của 3 yếu tố: Cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ, đội ngũ nhân viên trực tiếp và khách hàng. Mỗi yếu tố trên đều tác động trực tiếp đến quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ và mối quan hệ của khách hàng. Bộ phận Marketing ngân hàng có nhiều biện pháp khác nhau để kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố, các bộ phận, đặc biệt là khai thác lợi thế của từng yếu tố thông qua các chiến lược phát triển kỹ thuật công nghệ, chiến lược đào tạo nhân lực và chiến lược khách hàng phù hợp với từng ngân hàng. Do đó, Marketing đã góp phần to lớn trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, tạo uy tín hình ảnh, tăng sức mạnh cạnh tranh của ngân hàng. Thứ ba, giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa khách hàng hàng, nhân viên và chủ ngân hàng. Bộ phận Marketing giúp ngân hàng giải quyết tốt các mối quan hệ trên thông qua các hoạt động như: tham gia xây dựng và điều hành chính sách lãi, phí, đưa ra chế độ ưu đãi phù hợp với từng loại khách hàng, khuyến khích nhân viên phát minh sáng kiến, cải tiến các hoạt động, thủ tục nghiệp vụ nhằm cung cấp cho khách hàng nhiều tiện ích, lợi ích trong sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Bộ phận này còn tham gia vào việc xây dựng các cơ chế chính sách có liên quan trực tiếp đến lợi ích của khách hàng, nhân viên ngân hàng như chính sách tiền lương, tiền th ưởng, trợ cấp phúc lợi, dịch vụ dành cho nhân viên, cơ chế phân phối tài chính, chính sách ưu đãi khách hàng và các mối quan hệ giao tiếp khác.
- 1.2.2. Marketing trở thành cầu nối gắn kết hoạt động của ngân hàng với thị trường. Thị trường vừa là đối tượng phục vụ, vừa là môi trường hoạt động của ngân hàng. Hoạt động của ngân hàng và thị trường có mối quan hệ tác động hữu cơ và ảnh hưởng trực tiếp lẫn nhau. Do vậy hiểu được nhu cầu của thị trường để gắn kết chặt chẽ hoạt động của ngân hàng với thị trường sẽ làm cho hoạt động của ngân hàng có hiệu quả cao. Điều này sẽ được thực hiện tốt thông qua cầu nối Marketing bởi giúp ngân hàng biết được các yếu tố của thị trường, nhu cầu của khách hàng về sản phẩm, dịch vụ và sự biến động của chúng. Mặt khác, Marketing là một công cụ dẫn dắt hướng chảy của tiền vốn, khai thác khả năng huy động vốn, phân chia vốn theo nhu cầu thị trường một cách hợp lý. Nhờ có Marketing mà ngân hàng có thể phối kết hợp và định h ướng được hoạt động của tất cả các bộ phận và toàn thể nhân viên ngân hàng vào việc đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. 1.2.3. Marketing góp phần tạo lợi thế cạnh tranh của ngân hàng. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Marketing ngân hàng là tạo vị thế cạnh tranh trên thị trường. Quá trình tạo lập vị thế cạnh tranh của ngân hàng có liên quan chặt chẽ đến việc tạo ra những sản phẩm dịch vụ khác biệt và chỉ rõ lợi thế cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ ở thị trường mục tiêu, đồng thời phải làm cho khách hàng thấy được lợi ích thực tế từ những sản phẩm dịch vụ đó. Do vậy, việc tạo lập vị thế cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ ngân hàng phụ thuộc khá lớn vào khả năng, trình độ Marketing của ngân hàng, các kỹ thuật sử dụng, cũng như nhu cầu cụ thể của thị trường mục tiêu. Để tạo được vị thế cạnh tranh ngân hàng cần phải giải quyết ba vấn đề lớn: - Một là, phải tạo được tính độc đáo của sản phẩm dịch vụ. Tính độc đáo phải mang lại lợi thế của sự khác biệt không xa rời thực tế hoặc là trong nhận thức của
- khách hàng. Lợi thế của sự khác biệt không nhất thiết phải được tạo ra trên toàn bộ quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ, hoặc trọn vẹn một kỹ thuật Marketing, mà có thể chỉ ở một vài yếu tố, thậm chí ở một khía cạnh liên quan cũng mang lại sự độc đáo. -Hai là, phải làm rõ được tầm quan trọng của sự khác biệt đối với khách hàng. Nếu chỉ tạo ra sự khác biệt không thôi thì vẫn chưa đủ để tạo ra lợi thế cạnh tranh của ngân hàng. Điều hết sức quan trọng là sự khác biệt đó phải có tầm quan trọng đối với khách hàng, có giá trị thực tế đối với họ và được họ coi trọng đối với họ và được họ coi trọng thực sự. Một sự khác biệt của ngân hàng nếu không được khách hàng coi trọng , thì bộ phận Marketing phải giải quyết bằng mọi cách, kể cả việc điều chỉnh, để lợi thế về sự khác biệt thực sự có ý nghĩa đối với khách hàng. Mặt khác, bộ phận này phải làm rõ lợi thế về sự khác biệt của khách hàng thông qua chiến dịch tuyên truyền quảng cáo. -Ba là, khả năng duy trì lợi thế về sự khác biệt của ngân hàng. Sự khác biệt phải được ngân hàng tiếp tục duy trì, đồng thời phải có hệ thống biện pháp để chống lại sự sao chép của các đối thủ cạnh tranh. Có như vậy lợi thế mới được duy trì. Trong lĩnh vực ngân hàng, sản phẩm dịch vụ rất dễ bị các đối thủ sao chép. Vì vậy, ưu thế dựa trên sự khác biệt của sản phẩm dịch vụ ngân hàng khó duy trì lâu dài. Thông qua việc chỉ rõ và duy trì lợi thế của sự khác biệt, Marketing giúp ngân hàng phát triển và ngày càng nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường. 1.3. Đặc điểm của Marketing ngân hàng 1.3.1. Marketing ngân hàng là loại hình Marketing dịch vụ Theo Philip Koller: “ Dịch vụ là hoạt động hay lợi ích cung ứng nhằm để trao đổi, chủ yếu là vô hình và không dẫn đến quyền sở hữu”. Tính vô hình của sản phẩm dịch vụ ngân hàng đã dẫn đến việc khách hàng không nhìn thấy, không thể nắm giữ được, đặc biệt là khó khăn trong đánh giá chất lượng sản phẩm dịch vụ trước khi mua, trong quá trình mua và sau khi mua.
- Để giảm bớt sự không chắc chắn khi sử dụng dịch vụ ngân hàng, khách hàng buộc phải tìm kiếm các dấu hiệu chứng tỏ chất lượng sản phẩm dịch vụ. Đó là địa điểm giao dịch, mức độ trang bị kỹ thuật công nghệ, trình độ cán bộ quản lý và nhân viên, đặc biệt là các mối quan hệ cá nhân và uy tín, hình ảnh của ngân hàng. Về phía ngân hàng, để củng cố niềm tin của khách hàng, họ đã nâng cao nghệ thuật sử dụng các kỹ thuật Marketing như tăng tính hữu hình của sản phẩm dịch vụ cung ứng thông qua việc đ ưa ra hình ảnh, biểu tượng khi quảng cáo, nội dung quảng cáo không chỉ mô tả dịch vụ cung ứng mà còn tạo cho khách hàng đặc biệt chú ý đến những lợi ích mà sản phẩm dịch vụ đem lại. Đồng thời, Marketing phải cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết cho khách hàng về hiệu quả hoạt động của ngân hàng, trình độ kỹ thuật công nghệ và đội ngũ nhân viên. Đặc biệt, các ngân hàng thường tạo bầu không khí làm việc tốt với điều kiện làm việc thuận tiện, tăng tinh thần trách nhiệm của nhân viên trong phục vụ khách hàng. Tính không tách rời của sản phẩm dịch vụ ngân hàng được thể hiện trong quá trình cung ứng sản phẩm của ngân hàng. Thực tế cho thấy, quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng thường là những quy trình hoặc kinh nghiệm và quá trình cung ứng dịch vụ diễn ra đồng thời với quá trình tiêu thụ. Chính điều này đã làm cho sản phẩm dịch vụ của ngân hàng không có khả năng lưu trữ. Lý do này đòi hỏi ngân hàng phải có hệ thống, phương pháp phục vụ nhanh với nhiều quầy, địa điểm giao dịch. Hoạt động cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng còn có một đặc điểm có liên quan chặt chẽ đến hoạt động Marketing, đó là trách nhiệm liên đới và dòng thông tin hai chiều giữa khách hàng và ngân hàng. Trách nhiệm liên đới là trách nhiệm không thành văn bản của ngân hàng trong quản lý tiền của khách hàng và nội dung tư vấn dành cho khách hàng, nh ưng vẫn đòi hỏi ngân hàng và khách hàng đều phải có trách nhiệm với nhau trong các giao dịch. Dòng thông tin hai chiều đòi hỏi cả ngân hàng và khách hàng đều phải cung cấp cho nhau những thông tin cần thiết, đầy đủ, chính xác. Đây là căn cứ để quyết định các giao dịch và là cơ sở của lòng
- tin để duy trì lòng tin để duy trì mối quan hệ lâu dài giữa khách hàng và ngân hàng. 1.3.2. Marketing là loại hình Marketing hướng nội Marketing ngân hàng phức tạp hơn nhiều so với Marketing trong các lĩnh vực khác bởi tính đa dạng, nhạy cảm của hoạt động ngân hàng, đặc biệt là quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng có sự tham gia đồng thời của cơ sở vật chất, khách hàng và nhân viên ngân hàng. Nhân viên đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình, cung ứng, chuyển giao sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Họ giữ vai trò quyết định cả về số lượng, kết cấu chất lượng sản phẩm dịch vụ và cả mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng. Chính họ tạo nên sự khác biệt hóa, tính cách của hàng hóa sản phẩm dịch vụ cung ứng, khả năng thu hút khách hàng và vị thế cạnh tranh của ngân hàng. Những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn thể nhân viên ngân hàng theo hướng ngày càng tốt hơn gọi là Marketing hướng nội. Như vậy, Marketing hướng nội chỉ rõ các nhà kinh doanh ngân hàng phải tập trung vào việc đào tạo để sử dụng có hiệu quả nhất nguồn nhân lực hiện có của ngân hàng thông qua chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Ngân hàng phải nắm bắt được nhu cầu ước muốn của nhân viên và phải tạo đầy đủ điều kiện thuận lợi để họ thực hiện tốt công việc của họ. Thực hiện Marketing hướng nội, ngân hàng đều tập trung vào việc nâng cao trình độ toàn diện cho nhân viên ngân hàng, trong đó việc phổ cập kiến thức Marketing cho toàn bộ cán bộ nhân viên ngân hàng và coi đây là kiến thức kinh doanh tối thiểu bắt buộc. Đồng thời các ngân hàng còn đưa ra những cơ chế chính sách về tiền lương, tiền thưởng, chế độ đãi ngộ để khuyến khích nhân viên tích cực làm việc, hoàn thiện cơ cấu tổ chức, sắp xếp hợp lý đội ngũ cán bộ công nhân viên, đặc biệt là nhân viên trực tiếp phục vụ khách hàng. Tăng cường giáo dục truyền thống, xây dựng phong cách văn hóa riêng của ngân hàng mình- văn hóa kinh doanh ngân hàng.
- 1.3.3. Marketing ngân hàng thuộc loại Marketing quan hệ Marketing quan hệ đ òi hỏi bộ phận Marketing phải xây dựng được những mối quan hệ bền lâu, tin tưởng lẫn nhau và cùng có lợi cho cả khách hàng và ngân hàng bằng việc luôn giữ đúng cam kết, cung cấp cho nhau những sản phẩm dịch vụ chất lượng cao với giá cả hợp lý, tăng cường các mối quan hệ kinh tế, kỹ thuật, nâng cao sự tin tưởng lẫn nhau giúp nhau cùng phát triển. Thực tế cho thấy, trong hoạt động ngân hàng có khá nhiều mối quan hệ đan xen phức tạp. Do vậy, đòi hỏi bộ phận Marketing phải hiểu được các mối quan hệ nhất là quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng và sự tác động qua lại giữa chúng để có biện pháp khai thác, kết hợp hài hòa nhằm nâng cao chất lượng hoạt động cho cả khách hàng và ngân hàng. Marketing quan hệ đặt ra cho bộ phận Marketing cần tập trung mọi nguồn lực vào việc hoàn thiện mối quan hệ trao đổi giữa khách hàng và ngân hàng, đặc biệt là duy trì khách hàng hiện tại, đồng thời có nhiều biện pháp để thu hút khách hàng tương lai mới. Việc ngân hàng quan tâm đến lực lượng khách hàng nào sẽ liên quan chặt chẽ đến định hướng hoạt động và quyết định việc cung ứng sản phẩm dịch vụ trong tương lai của ngân hàng. Marketing quan hệ còn nhấn mạnh chất lượng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng phụ thuộc nhiều hơn vào mối quan hệ cá nhân của các bên tham gia. Để quản lý tốt và phát triển các mối quan hệ, bộ phận Marketing ngân hàng phải tiến hành phân loại các mối quan hệ, theo mức độ quan trọng khác nhau. Những mối quan hệ quan trọng cần giao cho cán bộ có năng lực phụ trách, theo dõi diễn biến và có biện pháp để duy trì và phát triển cho phù hợp với chiến l ược kinh doanh của ngân hàng. Đồng thời, ngân hàng phải có kế hoạch để phát triển các mối quan hệ mới, dài hạn cùng với những mục tiêu chiến lược.
- 2. Thị trường chứng khoán 2.1. Khái niệm Thị trường chứng khoán là nơi các chứng khoán được phát hành và trao đổi. Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường vốn do đặc tính của thị trường chứng khoán trong việc huy động vốn dài hạn. Hàng hóa giao dịch trên thị trường chứng khoán là trái phiếu, cổ phiếu và một số công cụ tài chính khác có thời hạn trên một năm. Các trái phiếu có thời hạn dưới 1 năm là hàng hóa trên thị trường tiền tệ. Vị trí của thị trường chứng khoán trong hệ thống thị trường tài chính có thể được biểu thị khái quát qua sơ đồ sau: Thị trường tài chính ngắn hạn( thị trường tiền tệ) Thị trường Thị trường vay tài chính nợ dài hạn Thị trường tài chính dài hạn( thị trường vốn) Thị trường chứng khoán 2.2. Đặc điểm - Thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi hình thức tài chính trực tiếp, người cần vốn và người có khả năng cung ứng vốn đến trực tiếp tham gia vào thị trường, giữa họ không có các trung gian tài chính.
- - Thị trường chứng khoán là thị tr ường gần với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Tất cả mọi người đều được tự do tham gia vào thị trường. Không có sự áp đặt giá cả trên thị trường chứng khoán mà giá cả ở đây được xác định dựa trên quan hệ cung cầu của thị trường và phản ánh các thông tin có liên quan đến chứng khoán. - Thị trường chứng khoán về cơ bản là một thị trường liên tục, sau khi các chứng khoán được phát hành trên thị trường sơ cấp nó có thể được mua bán nhiều lần trên thị trường thứ cấp. Thị trường chứng khoán bảo đảm cho những người đầu tư có thể chuyển các chứng khoán họ nắm giữ thành tiền bất cứ lúc nào họ muốn. 2.3. Chức năng TTCK 2.3.1. Chức năng huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế Sự hoạt động của thị tr ường chứng khoán tạo ra một cơ chế chuyển các nguồn vốn từ nơi thừa nơi thiếu. Thị tr ường cung cấp phương tiện huy động vốn nhàn rỗi trong dân c ư cho các doanh nghiệp sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau như đầu tư phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất mới…Chức năng này được thực hiện khi công ty phát hành chứng khoán ra công chúng và công chúng mua ch ứng khoán. Nhờ hoạt động của thị trường mà doanh nghiệp có thể huy động được một số lượng lớn vốn đầu tư dài hạn. Khi mua chứng khoán do các công ty này phát hành, số tiền nhàn rỗi của các nhà đầu tư đã được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Trong quá trình này, TTCK đã có những tác động quan trọng trong việc đẩy mạnh việc phát triển nền kinh tế quốc dân bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư dài hạn của các doanh nghiệp. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng hy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
- 2.3.2. Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán. TTCK là nơi các chứng khoán được mua bán, trao đổi, bởi vậy nhờ các TTCK các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền hoặc các loại chứng khoán khác mà họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những yếu tố quyết định tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt của chứng khoán. Chức năng cung cấp tính thanh khoản cho các chứng khoán là chức năng quan trọng đảm bảo cho TTCK hoạt động một cách năng động và hiệu quả. 2.3.3. Chức năng đánh giá giá trị của doanh nghiệp và tình hình của nền kinh tế. TTCK là nơi đánh giá giá trị của doanh nghiệp và tình hình của nền kinh tế một cách tổng hợp và chính xác thông qua chỉ số giá chứng khoán trên thị trường.Từ đó tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. 2.3.4. Chức năng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. TTCK là nơi cung và cầu vốn dài hạn gặp nhau. Trên TTCK giá cả các chứng khoán phản ánh sự phát triển của các doanh nghiệp nói riêng và các ngành kinh tế nói chung, giá chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng và ngược lại khi giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Chính vì vậy, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
- 3. Chứng khoán 3.1. Khái niệm Chứng khoán là chứng từ dưới dạng giấy tờ hoặc được bút toán ghi sổ xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng từ đó đối với người phát hành. 3.2. Đặc trưng 3.2.1. Chứng khoán luôn gắn với những khả năng thu lợi Khi mua chứng khoán người đầu tư đã bỏ ra một khoản vốn của mình vào đầu tư, vì vậy, họ chỉ đầu tư khi có thể thu được những khoản lợi ích nhất định. Mỗi loại chứng khoán đưa lại một khả năng thu lợi khác nhau: Các trái phiếu thường có mức lợi tức cố định và tương đối chắc chắn trong khi đó các cổ phiếu có đ ộ an toàn thấp hơn, mang lại khả năng được h ưởng cổ tức và đ ặc biệt là khả năng thu lợi lớn hơn khi cổ phiếu tăng giá. 3.2.2. Chứng khoán luôn gắn với rủi ro. Đầu tư luôn gắn với rủi ro, và đầu tư vào chứng khoán cũng có những rủi ro nhất định. Có những rủi ro chung cho tất cả chứng khoán và có những rủi ro riêng liền với từng loại chứn g khoán nhất định. Các chứng khoán khác nhau có mức độ rủi ro khác nhau. 3.2.3. Chứng khoán có khả năng thanh khoản. Sau khi phát hành, chứng khoán có thể mua đi bán lại nhiều lần trên TTCK. Các nhà đầu tư nắm giữ chứng khoán có thể chuyển chứng khoán của họ thành tiền bất cứ lúc nào họ muốn. Mặc dù mỗi chứng khoán có khả năng thanh khoản khác nhau, nhưng nhìn chung tất cả các chứng khoán đều có khả năng thanh khoản nhất định. Trong những thời điểm nhất định cũng có những chứng khoán mất khả năng thanh khoản, tuy nhiên những chứng khoán này sẽ nhanh chóng bị loại khỏi thị trường. Đối với người phát hành, điều quan trọng là cần phải lựa chọn phát hành loại chứng khoán thích hợp để thu hút được người đầu tư đảm bảo cho việc phát hành thành công thực hiện được mục tiêu huy động vốn. Đối với nhà đầu tư,
- cần nắm được đặc trưng của từng loại chứng khoán để cân nhắc lựa chọn đi đến quyết định đầu tư đúng vào loại chứng khoán thích ứng đáp ứng các yêu cầu mong muốn đề ra về thu nhập và mức độ mạo hiểm. 3.3. Phân loại chứng khoán Có nhiều cách phân loại chứng khoán nh ưng ở đây chỉ xin phân loại căn cứ vào tính chất huy động vốn: Có thể phân loại chứng khoán thành cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phái sinh. - Cổ phiếu( chứng khoán vốn): Là chứng khoán xác nhận quyền sở hữu một phần công ty cổ phần. Chứng khoán vốn do các công ty phát hành. Người sở hữu chứng khoán vốn không phải là chủ nợ của công ty mà là người sở hữu công ty và có quyền hưởng các thu nhập từ lợi nhuận công ty. - Trái phiếu( chứng khoán nợ vốn): Là chứng khoán xác nhận một khoản nợ của người phát hành đối với người nắm giữ chứng khoán. Chứng khoán nợ thể hiện sự cam kết của người phát hành thanh toán những khoản tiền lãi và khoản tiền gốc vào những thời điểm nhất định. - Các chứng khoán phái sinh: Là các chứng khoán thể hiện quyền được mua cổ phiếu, trái phiếu theo các điều kiện nhất định đã được thỏa thuận trước. Một số loại chứng khoán phái sinh chủ yếu: + Chứng quyền: chứng quyền là giấy xác nhận quyền được ưu tiên mua cổ phiếu mới phát hành tại mức giá thấp hơn giá thị trường. Các chứng quyền thường được phát hành cho các cổ đông hiện hành, sau đó chúng có thể được đem ra giao dịch. + Chứng khế: Là các giấy tờ phát hành kèm theo trái phiếu trong đó xác nhận quyền được mua cổ phiếu kèm theo những điều kiện nhất định. + Hợp đồng tương lai: Là các thỏa thuận cam kết mua hoặc bán một số chứng khoán nhất định trong tương lai tại giá thỏa thuận trước. + Hợp đồng lựa chọn: Là quyền được mua hoặc bán một số chứng khoán nhất định trong một khoản thời gian xác định, tại mức giá đã thỏa thuận trước.
- CHƯƠNG II: THỰC TIỄN 1. Tổng quan về Ngân hàng Quốc tế 1.1. Lịch sử ra đời và phát triển Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam( tên gọi tắt là Ngân hàng Quốc Tế- VIB Bank) được thành lập theo quyết định số 22/QĐ/NH5 ngày 25/1/1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Cổ đông sáng lập của Ngân hàng Quốc Tế bao gồm Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, các cá nhân và doanh nhân thành đạt tại Việt Nam và trên trường quốc tế. Từ khi bắt đầu hoạt động ngày 18 /9/1996. Trải qua nhiều thăng trầm có những lúc cũng giống như các Ngân hàng TMCP khác do vừa mới ra đời, trình độ quản lý còn yếu kém, quản lý các khoản nợ không tốt do đó VIB đã gặp nhiều đao đứng. Nhất là cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997 đã tác động tiêu cực tới hệ thống ngân hàng. Nhưng vượt qua khó khăn cộng với nỗ lực vượt khó VIB đã dần dần thoát ra tình trạng khó khăn . Hiện nay, Ngân hàng Quốc Tế đang phát triển thành một trong những tổ chức tài chính dẫn đầu thị trường Việt Nam. Là một ngân hàng đa năng, Ngân hàng Quốc Tế , với nền tảng công nghệ hiện đại, tiếp tục cung cấp một loạt các dịch vụ tài chính đa năng, trọn gói cho khách hàng với nòng cốt là những doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động lành mạnh và những cá nhân , gia đình có thu nhập ổn định tại các vùng kinh tế trọng điểm trên khắp cả nước. Sau 10 năm hoạt động, đến 31/12/2006 vốn điều lệ của Ngân hàng Quốc Tế là 1.000 tỷ đồng, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 120%. Tổng tài sản có đạt khoảng 16 .000 tỷ đồng, tăng gấp gần 2 lần so với cuối năm 2006 và đạt tổng tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 196%. Lợi nhuận trước thuế đạt 200 tỷ đồng, bằng 200 % so với năm 2005. Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn tự có bình quân đạt trên 20% và mức cổ tức chia cho các cổ đông tăng đều hàng năm. Tỷ lệ về khả năng chi trả luôn lớn hơn 1, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu luôn lớn hơn 8%.
- Nguồn lực quản lý và hoạt động không ngừng được tăng cường với v iệc bổ nhiệm nhiều chuyên gia giàu kinh nghiệm trong các lĩnh vực tài chính ngân hàng và một đội ngũ chuyên viên kinh nghiệm, giàu nhiệt huyết. Hình ảnh của Ngân hàng Quốc Tế trong lòng công chúng và khách hàng được cải thiện đáng kể bằng nhiều chương trình đổi mới và mở rộng năng lực phục vụ, tăng cường quảng bá hình ảnh ngân hàng. Cuối năm 2006, ngoài Hội sở tại Hà Nội, Ngân hàng Quốc Tế có 58 chi nhánh, Phòng Giao dịch tại 14 tỉnh, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc , Nghệ An , Quảng Ngãi, Đà Nẵng , Nha Trang, Đồng Nai, Bình Dương, Cần Thơ, An Giang, Bà Rịa- Vũng Tàu. Trong năm 2007, Ngân hàng Quốc Tế sẽ tiếp tục vươn tầm hoạt động đến các trung tâm kinh tế mới và nhiều tiềm năng khác trên phạm vi toàn quốc với tổng số dự kiến lên đến 80. Mạng lưới ngân hàng đại lý cũng không ngừng được mở rộng với hơn 2000 ngân hàng đại lý trên 65 quốc gia trên thế giới. Với phương châm kinh doanh “Luôn gia tăng giá trị cho bạn”, cam kết của Ngân hàng Quốc Tế trong năm 2007 và những năm tiếp theo là không ngừng gia tăng giá trị của khách hàng, của đối tác, của cán bộ nhân viên n gân hàng và của các cổ đông. 1.2. Lĩnh vực hoạt động Ngân hàng Quốc tế hoạt động trên những lĩnh vực chủ yếu sau: Dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp : Ngân hàng Quốc tế cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp và những khách hàng kinh doanh khác, b ao gồm: d ịch vụ tín dụng, c ác dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất nhập khẩu , dịch vụ bảo lãnh, d ịch vụ thanh toán, dịch vụ mua bán ngoại tệ . Các khoản vay được cung cấp cho nhiều mục đích khác nhau như: bổ sung vốn lưu động, mua sắm trang thiết bị tài sản cố định, đầu tư mở rộng sản xuất. Dịch vụ ngân hàng cá nhân : Ngân hàng Quốc tế cung cấp dịch vụ cho cá nhân bao gồm: dịch vụ tiết kiệm, d ịch vụ tín dụng tiêu dùng, dịch vụ thanh
- toán , dịch vụ xác nhận năng lực tài chính, dịch vụ thẻ, dịch vụ mua bán ngoại tệ. Các khoản cho vay tiêu dùng nhắm đến các mục đích sử dụng vốn cụ thể như: mua sắm, sửa chữa nhà đất, mua sắm xe hơi, vật dụng gia đình, đi du học , đầu tư cổ phiếu, đ i xuất khẩu lao động, thuê văn phòng dài hạn… Dịch vụ ngân hàng định chế: Ngân hàng Quốc tế cung cấp dịch vụ cho các ngân hàng, tổ chức tài chính và phi tài chính bao gồm: dịch vụ tiền gửi, dịch vụ quản lý tài sản , dịch vụ cho vay, dịch vụ đồng tài trợ, d ịch vụ mua bán ngoại tệ, dịch vụ ngân quỹ… 1.3. Cơ cấu tổ chức Trong hơn 10 năm qua , cùng với sự mở rộng của hệ thống Ngân hàng Quốc tế kéo theo những thay đổi trong cơ cấu tổ chức theo hướng mở rộng hơn , nhiều phòng ban mới, nhiều chi nhánh mới, số lượng cán bộ công nhân viên cũng tăng lên để đáp ứng với yêu cầu mới. Trong công tác xây dựng ổn định tổ chức, Ngân hàng Quốc tế luôn coi trọng đội ngũ cán bộ . Luôn bồi dưỡng nâng cao phẩm chất năng lực chuyên môn nghiệp vụ, năng lực quản lý điều hành và coi đó là nhiệm vụ hàng đầu để phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong tương lai.
- Hiện nay, thì cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Quốc tế như sau: Hội đồng Quản trị Ban kiểm soát Ủy ban quản lý Ủy ban tín dụng Tổng giám đốc tài sản Nợ-Có Phó Phó Phó Phó tổng tổng tổng tổng giám giám giám giám đốc đốc đốc đốc Khối Khối Khối Khối Khối Khối chức khách khách nguồn chi quản lý n ăng hàng hàng cá vốn và nhánh tín doanh hội sở nhân và dịch ngoại tệ dụng nghiệp vụ
- Hội đồng quản trị gồm 5 thành viên. Chủ tịch Hội đồng Quản trị là ông Trịnh Văn Tuấn và 4 ủy viên là các ông Đặng Khắc Vỹ, Nguyễn Xuân Luật, Hà Văn Hải, Đỗ Xuân Hoàng. Hội đồng quản trị giữ vai trò định hướng chiến lược phát triển cho ngân hàng và thực hiện Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông. Hỗ trợ công tác điều hành và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời phối hợp với ban kiểm soát tiếp tục duy trì tính an toàn và hoàn thiện cơ chế hoạt động của ngân hàng. Ban kiểm soát gồm 3 thành viên gồm các ông Phạm Quang Vinh, Nguyễn Văn Bắc , Vũ Trọng Trãi. Ban kiểm soát có nhiệm vụ kiểm tra thường xuyên hoạt động tài chính , giám sát việc chấp hành chế độ hạch toán , hoạt động của hệ thống kiểm tra và kiểm toán nội bộ của ngân hàng. Ủy ban Nợ- Có gồm 7 thành viên. Chịu trách nhiệm quản lý bảng cân đối kế toán của ngân hàng phù hợp với chính sách của ngân hàng; quản lý rủi ro thanh khoản và rủi ro thị trường gắn với các hoạt động của ngân hàng. Ủy ban tín dụng gồm 5 thành viên . Phê duyệt định hướng và cơ cấu dư nợ của toàn hệ thống ngân hàng Quốc tế theo mặt hàng, lĩnh vực, ngành nghề, mặt hàng kinh doanh ; quyết định các chính sách tín dụng; thông qua chính sách về lãi cho vay và các loại phí. Quyết định các chính sách về dự phòng rủi ro tín dụng và phê duyệt các khoản đầu tư tín dụng. Ban điều hành gồm có tổng giám đốc và 4 phó tổng giám đốc. Tổng Giám đốc là ông Hàn Ngọc Vũ . Phó Tổng Giám đốc- Giám đốc khối khách hàng cá nhân là ông Trịnh Thanh Bình. Phó Tổng Giám đốc- Giám đốc khối khách hàng Doanh nghiệp là ông Nguyễn Đình Tùng. Phó Tổng Giám đốc- Giám đốc khối chi nhánh và dịch vụ là ô ng An Thanh Sơn.

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận Một số giải pháp huy động vốn nhằm thúc đẩy sự pháp triển của các doanh nghiệp
17 p |
576 |
202
-
Tiểu luận: “Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp (FDI ) nhằm hình thành và phát triển các KCN tập trung trên địa bàn tỉnh Hưng Yên ”
57 p |
584 |
185
-
Tiểu luận: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam
97 p |
332 |
119
-
Tiểu luận Một số giải biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng Vốn Cố Định tại Công ty chè Long Phú
30 p |
270 |
94
-
Tiểu luận: " Một số giải pháp góp phần hoàn thiện các hình thức trả lương tại Công ty gạch ốp lát Hà nội"
75 p |
292 |
88
-
Tiểu luận: "Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh chương trình xoá đói giảm nghèo tại Yên Bái"
60 p |
139 |
76
-
Tiểu luận: “Một số giải pháp đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm tại Công ty Dược Liệu Trung Ương I”
80 p |
240 |
72
-
Tiểu luận: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các công cụ marketing – mix ở công ty TNHH quốc tế Song Thanh (STI)
93 p |
270 |
65
-
Tiểu luận: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động Mobile Marketing cho công ty truyền thông Gapit
52 p |
295 |
62
-
TIỂU LUẬN: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác tạo động lực tại tập đoàn vận tải Phượng Hoàng
27 p |
185 |
51
-
TIỂU LUẬN: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước
34 p |
477 |
51
-
TIỂU LUẬN:Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ ở Công ty Thực Phẩm Hà Nội.Lời nói đầuSau 15 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đang từng bước thay đổi, cùng hoà nhập chung vào nền kinh tế thị trường đầy sôi động của khu vực cũng như của t
78 p |
190 |
40
-
Tiểu luận: Một số giải pháp hỗ trợ người khuyết tật
13 p |
844 |
36
-
TIỂU LUẬN: Một số giải pháp chống lãng phí thất thoát vốn trong đầu tư XDCB
43 p |
186 |
24
-
TIỂU LUẬN: Một số giải pháp đầu tư thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp điện tử Hà Nội
119 p |
144 |
17
-
TIỂU LUẬN: Một số giải pháp phát triển thị trường hàng hoá của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2010
45 p |
118 |
13
-
TIỂU LUẬN: Một số giải pháp đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Thủ Đô
103 p |
129 |
13
-
TIỂU LUẬN: Một số giải pháp khắc phục những yếu kém về hoạt động tài chính cho công ty TNHH Hợp Hưng
61 p |
132 |
11


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
