intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam

Chia sẻ: Nguyen Linh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:97

319
lượt xem
119
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

"Tiểu luận: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam" với kết cấu trình bày nội dung sau: các vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại NHTM, thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam. Cùng nhau tham khảo nhé.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam

  1. TIỂU LUẬN: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam
  2. LỜI NÓI ĐẦU Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Chúng ta đặt mục tiêu rút ngắn khoảng cách phát triển kinh tế xã hội với các nước trong khu vực và trên thế giới, phấn đấu đến năm 2020 trở thành nước công nghiệp. Đầu tư vào các dự án kinh tế hiệu quả được coi là chiếc chìa khoá để mở ra thành công. Hệ thống ngân hàng tài chính với chức năng là kênh dẫn vốn quan trọng bậc nhất của nền kinh tế đã tham gia đầu tư ngày càng tích cực vào các dự án. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (NHNTVN) cũng không đứng ngoài xu thế đó. Nếu như trước đây, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thường được biết đến là một ngân hàng chuyên doanh hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu và thường chỉ quan hệ với các doanh nghiệp nhà nước lớn, thì nay với chiến dịch chuyển dịch cơ cấu, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã nổi lên như một ngân hàng đa năng, cung cấp các dịch vụ tín dụng có chất lượng cao, tương xứng với tiềm năng của ngân hàng. Cho vay theo dự án được coi là ưu tiên trong chiến lược cho vay của ngân hàng. Nhưng đây là hình thức tín dụng có độ rủi ro cao vì những đặc thù nhất định. Mở rộng, nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn, hạn chế rủi ro là một bài toán khó và tương đối phức tạp đối với hệ thống các ngân hàng thương mại ở Việt Nam nói chung cũng như Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói riêng. Một trong hai hoạt động chính của ngân hàng là hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng có chất lượng tốt hay xấu đều ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của ngân hàng, trong đó tín dụng trung và dài hạn là các khoản ngân hàng cho vay với số vốn lớn, thời hạn dài và thời gian thu hồi vốn chậm, do đó, rủi ro từ hoạt động tín dụng trung và dài hạn là rất lớn, nhưng làm tốt thì lợi nhuận thu được từ tín dụng trung và dài hạn rất cao. Qua một thời gian thực tập tại Ngân hàng Ngoại thương, nhận thấy đây là một vấn đề cấp thiết ngân hàng quan tâm và được sự giúp đỡ tận tình, em quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài
  3. hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Nội dung của chuyên đề được chia thành ba phần chính: Chương 1: Các vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam.
  4. CHƯƠNG 1 CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của ngân hàng thương mại 1.1.1.1. Khái niệm của Ngân hàng thương mại Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các loại hình Ngân hàng. Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại Ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập từ Ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước (thành phố, tỉnh…). Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hóa dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị kỹ thuật. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hóa và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, ủy nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử…Và khi họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường đến ngân hàng để nhận lời tư vấn. Các khoản tín dụng của ngân hàng cho Chính phủ (thông qua mua chứng khoán Chính phủ) là nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phát triển. Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ ổn định kinh tế. Tóm lại, Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà
  5. chúng thực hiện trong nền kinh tế. Nhưng cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi: “Hoạt động của ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. 1.1.1.2. Đặc điểm của Ngân hàng thương mại Thứ nhất, ngân hàng thương mại trung gian tài chính thực hiện kinh doanh tiền tệ. Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tàm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người bổ sung vốn; (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Do tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1) nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy, thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một lượng vốn lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín dụng. Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn. Đây là quan hệ tài chính trực tiếp. Tuy nhiên, quan hệ tài chính trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về qui mô, thời gian, không gian... Điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy nở trung gian tài chính. Trung gian tài chính đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó khuyến khích tiết kiệm, đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư (tăng thu nhập cho người đầu tư). Trung gian tài chính đã tập hợp các người tiết
  6. kiệm và đầu tư. Cơ chế hoạt động trung gian sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng kỹ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch. Ngân hàng sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực tế, các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Ngân hàng cũng thỏa mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng. Ngân hàng là một trung gian thanh toán. Ngân hàng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ với nhiều hình thức thanh toán như bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ...cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng cũng thực hiện bù trừ lẫn nhau thông qua Ngân hàng Trung ương hoặc thông qua trung tâm thanh toán. Hiện nay, ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất ở hầu hết các quốc gia. Một lý do để ngân hàng phát triển thịnh vượng là khả năng thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng “thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro – lợi nhuận hấp dẫn nhất. Thứ hai, ngân hàng là tổ chức kinh doanh phải có điều kiện. Ngân hàng chịu sự điều hành chặt chẽ của Chính phủ hơn bất kỳ tổ chức nào trong nền kinh kế, bởi ngân hàng là thủ quỹ của cả nền kinh tế. Ngân hàng muốn được cấp giấy phép hoạt động phải có một lượng vốn nhất định, cam kết thực hiện một số chính sách nhất định như cho vay, tài trợ cho một dự án hay một khoản chi tiêu nào đó, đồng thời trong quá trình hoạt động, ngân hàng chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Muốn hoạt động tốt, ngân hàng không ngừng gia tăng nguồn vốn của mình, tuyển nhân sự có đủ số lượng và chất lượng, có mạng lưới chi nhánh rộng khắp để đáp ứng nhanh các nhu cầu của khách hàng và thực hiện nhiều hoạt động khác, nhằm thu được lợi nhuận lớn, hạn chế rủi ro cho cả người gửi tiền và ngân hàng.
  7. 1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại 1.1.2.1. Huy động vốn ♦ Huy động vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu của ngân hàng thường bao gồm: vốn tự có (vốn góp), thặng dư vốn và lợi nhuận tích lũy. Để bắt đầu hoạt động ngân hàng (được pháp luật cho phép), chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn hình thành vốn ban đầu khác nhau: ngân hàng nhà nước do ngân sách nhà nước cấp; Ngân hàng cổ phần do cổ đông đóng góp; Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh đóng góp; ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu của tư nhân. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng phải không ngừng gia tăng vốn chủ sở hữu của mình bằng: nguồn tích lũy từ lợi nhuận (chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư); nguồn thặng dư vốn cổ phần, nguồn bổ sung từ góp thêm, cấp thêm...hoặc từ các quỹ và nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần (các khoản cho vay trung và dài hạn). ♦ Nhận tiền gửi: Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn tiền của ngân hàng thương mại. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau như:  Tiền gửi thanh toán: là tiền gửi của cá nhân hoặc doanh nghiệp gửi và nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ trong phạm vi số dư cho phép với lãi suất rất thấp hoặc có thể bằng không;  Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội: là khoản tiền của doanh nghiệp hoặc các tổ chức xã hội gửi vào ngân hàng với kì hạn nhất định (có thể là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm...) với lãi suất kì hạn tương ứng. Kì hạn càng cao thì lãi suất tiền gửi càng lớn. Người gửi có thể đến ngân hàng rút tiền nếu có cần một khoản tiền chi tiêu, tuy nhiên chỉ được hưởng lãi suất thấp hơn do không rút đúng hạn.  Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: là khoản tiền tiết kiệm của dân cư gửi vào ngân hàng với kì hạn nhất định. Ngân hàng đưa ra nhiều hình thức huy động và lãi
  8. suất cạnh tranh hấp dẫn (ví dụ như tiền gửi với các kì hạn khác nhau, tiết kiệm bằng ngoại tệ hoặc bằng vàng...).  Tiền gửi của các ngân hàng khác: nhằm mục đích thanh toán hộ và một số mục đích khác ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên, nguồn này thường không lớn. ♦ Đi vay từ các tổ chức khác: Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, khi cần, ngân hàng thường vay mượn thêm với các phương thức đi vay đa dạng:  Vay ngân hàng Nhà Nước: đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc hoặc dự trữ thanh toán), ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu là tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn.  Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn vay mượn lẫn nhau giữa các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Nguồn này dùng để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sụng và thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng Nhà nước.  Vay trên thị trường vốn: đây là nguồn vay nợ nhằm bù đắp thiếu hụt tiền cho vay trung và dài hạn. Các ngân hàng vay bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu). ♦ Huy động bằng các nguồn khác: như nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán và nguồn khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả... 1.1.2.2. Sử dụng vốn Hoạt động chính của ngân hàng thương mại là tìm kiếm các khoản vốn (huy động vốn) để sử dụng nhằm thu lợi nhuận. ♦ Hoạt động ngân quỹ: Ngân hàng phải để một lượng tiền mặt trong két nhất định nhằm để chỉ trả nhanh chóng khi có với các nhu cầu của khách hàng. Tiền mặt không phát sinh, do vậy, để vừa đáp ứng thực hiện mục tiêu thanh khoản vừa tạo ra
  9. một khoản thu nhập cho ngân hàng, ngân hàng thường có một khoản tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước, tại các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. ♦ Hoạt động đầu tư chứng khoán: ngân hàng thương mại nắm giữ chứng khoán vì mục tiêu thanh khoản và đa dạng hóa tài sản. Các chứng khoán ngân hàng nắm giữ thường là: chứng khoán chính phủ; chứng khoán của các ngân hàng khác, các công ty tài chính và chứng khoán của các công ty khác. Ngân hàng nắm giữ chứng khoán vì chúng mang lại thu nhập cho ngân hàng (lớn hơn so với tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng) và có thể bán đi để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết. Nhưng phải hiểu rằng đầu tư chứng khoán ở đây là đầu tư vào trái phiếu, tín phiếu... chứ không phải là đầu tư vào cổ phiếu. Đầu tư vào cổ phiếu thuộc hoạt động hùn vốn của ngân hàng. ♦ Hoạt động tín dụng: là hoạt động đặc trưng của ngân hàng thương mại, chiếm tỷ trọng lớn nhất và mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng. Thường được phân chia thành theo thời gian (tín dụng ngắn, trung và dài hạn), theo hình thức tài trợ chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê, chiết khấu..., chia theo tài sản đảm bảo, theo rủi ro (các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp) hay theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp...) hay theo đối tượng tài trợ (hàng hóa, hoặc bất động sản...) hoặc theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng...). ♦ Các hoạt động khác: Các hoạt động khác là các hoạt động như hoạt động thanh toán, hoạt động ủy thác, hoạt động hùn vốn (ngân hàng tham gia góp vốn với các tổ chức khác dưới hình thức nắm giữ cổ phiếu, góp vốn liên doanh, liên kết...), các hoạt động sử dụng vốn khác như mua sắm, nhà cửa trang thiết bị phục vụ cho quá trình kinh doanh của khác hàng và cho thuê. 1.1.2.3. Hoạt động khác Bên cạnh các hoạt động mang tính truyền thống và đặc trưng, ngân hàng thương mại cũng tiến hành các hoạt động khác nhằm tìm kiếm lợi nhuận như: cung cấp dịch vụ ủy thác, dịch vụ tư vấn, dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý...
  10. 1.2. Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại 1.2.1. Khái niệm của tín dụng Tín dụng xuất phát từ chữ Latinh Creditium có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm. Tiếng anh là Credit. Theo Kmarx, tín dụng là quá trình chuyển nhượng tạm thời một một lượng giá trị từ người sở hữu đến người sử dụng sau một khoảng thời gian nhất định thu hồi một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, tín dụng có nghĩa là sự vay mượn dựa trên sự tin tưởng. Theo quan hệ tài chính, tín dụng được hiểu theo nghĩa sau đây:  Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay: Tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người cho vay; hay tín dụng là sự chuyển dịch từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thâm hụt tiết kiệm.  Trong mối quan hệ tài chính cụ thể: Tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.  Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng. Như vậy có thể hiểu: Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền vay hàng hóa) giữa bên cho vay và bên đi vay, trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho vay khi đến hạn thanh toán. Như vậy, khái niệm tín dụng gồm ba mặt cơ bản và một quan hệ được gọi là tín dụng khi có đầy đủ cả ba mặt dưới đây:  Có sự chuyển giao quyền sử dụng một tài sản từ người này sang người khác.  Sự chuyển giao này mang tính chất tạm thời.  Khi hoàn lại tài sản đã chuyển giao cho người sở hữu phải kèm thêm một lượng giá trị dôi thêm – gọi là lãi hay lợi tức. Tín dụng có các hình thức chủ yếu là tín dụng Nhà nước, tín dụng thương mại, và tín dụng Ngân hàng. Tín dụng thương mại là việc mua bán chịu (hay mua bán trả chậm) hàng hóa, dịch vụ giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng là
  11. quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng với một bên là tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Trong nền kinh tế hiện đại, tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất không chỉ với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Không một doanh nghiệp nào có thể tồn tại vững chắc trên thương trường mà không vay vốn của ngân hàng. Việc vay vốn từ ngân hàng đảm bảo nguồn tài chính cho hoạt động sản xuất – kinh doanh, đặc biệt là các dự án mở rộng sản xuất hay đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp. 1.2.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của tín dụng trung và dài hạn Khái niệm của tín dụng trung và dài hạn Ở Việt Nam theo điều 8, số 1627/2001/QĐ-NHNN quy chế cho vay của tổ chức tín dụng: “Tín dụng trung hạn là các khoản tín dụng có thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng, các khoản tín dụng có thời hạn từ 60 tháng trở lên là tín dụng dài hạn”. Tín dụng trung hạn chủ yếu được người đi vay sử dụng để mua tài sản cố định, cải tiến đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh và xây dựng các dự án mới có quy mô vừa và nhỏ. Tín dụng dài hạn chủ yếu để tài trợ vào việc đổi mới dây chuyền sản xuất hiện đại, xây dựng công trình có quy mô, thời gian hoạt động dài như xây dựng nhà ở, các xí nghiệp nhà mày mới, các thiết bị phương tiện vận tải có giá trị lớn. Nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn nhưng từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng thương mại đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng dư nợ ngân hàng. Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn:  Vốn đầu tư lớn, thời hạn dài, thu hồi vốn chậm: Đối tượng tài trợ của tín dụng trung và dài hạn là tài sản cố định và các công trình xây dựng. Đặc điểm của đối tượng này là có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài. Do đó, khoản cho vay để tài trợ cho các đối tượng này đòi hỏi một số vốn đầu tư lớn. Mặt khác,
  12. nguồn để trả nợ là các quỹ khấu hao cơ bản và lợi nhuận thu được từ dự án. Vì vậy, thời hạn trả nợ thường kéo dài đến khi dự án kết thúc.  Rủi ro cao: Do lượng vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm nên độ rủi ro của các khoản tín dụng trung và dài hạn là cao.  Lợi nhuận từ các khoản tín dụng trung và dài hạn lớn: do lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn, nên các khoản cho vay trung và dài hạn thường có mức lãi suất cao. Thêm vào đó, do khoản cho vay thường có số vốn lớn nên thu nhập mà khoản tín dụng này đem lại cho ngân hàng là lớn. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn ♦ Đối với doanh nghiệp: là một chủ thể trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh từ phía các đối thủ. Để tồn tại, phải triển và thắng thế trong cạnh tranh, điều cần thiết là các doanh nghiệp phải chú trọng đến việc mở rộng sản xuất, mua sắm trang thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm và giảm chi phí đến mức thấp nhất có thể. Muốn thực hiện được điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đầu tư rất lớn. Nguồn tài trợ mà doanh nghiệp có thể lấy từ các nguồn: tự tích lũy lợi nhuận không chia (đây là nguồn quan trọng, tuy nhiên phương thức tài trợ này đòi hỏi một thời gian dài, có thể khiến các doanh nghiệp bỏ lỡ cơ hội kinh doanh); phát hành cổ phiếu, trái phiếu (nguồn này có ưu điểm là tập trung được lượng vốn lớn trong thời gian ngắn song doanh nghiệp phải đối mặt với sự phân quyền kiểm soát trong công ty, và không phải doanh nghiệp nào cũng được phép và sự tín nhiệm để phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra công chúng, trái phiếu cũng không tạo ra sự linh hoạt về kỳ hạn trả nợ) và sử dụng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng, có ưu thế hơn so với các nguồn trên, thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, nó giúp doanh nghiệp chớp lấy thời cơ kinh doanh nhờ rút ngắn thời gian tìm kiếm vốn. Thủ tục vay ngân hàng tuy chặt chẽ nhưng nếu tuân thủ đúng thì thời gian doanh nghiệp nhận được khoản tín dụng này của ngân hàng là ngắn hơn nhiều so với tự tích lũy hay phát hành trái phiếu, cổ phiếu. Thứ hai, không dẫn đến sự phân chia quyền kiểm soát công ty với bên ngoài so với việc phát hành cổ phiếu. Thứ ba, tín dụng trung và dài hạn ngân hàng tạo ra sự
  13. linh hoạt về kì hạn: doanh nghiệp có thể vay vốn ngân hàng theo kỳ hạn phù hợp với yêu cầu kinh doanh và chu kỳ thu nhập. Việc điều chỉnh kỳ hạn nợ của các khoản tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng là dễ dàng: khi doanh nghiệp làm ăn thuận lợi, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư và làm ăn có lãi, có thể trả nợ ngân hàng trước hạn. Ngược lại, khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất – kinh doanh, có thể xin ngân hàng gia hạn nợ. Mặt khác, việc trả nợ trung và dài hạn được chia thành các kỳ hạn hợp lý và ổn định, giúp cho doanh nghiệp chủ động trong việc tìm kiếm nguồn trả nợ. ♦ Đối với ngân hàng: Tín dụng trung và dài hạn với đặc điểm là vốn đầu tư lớn, thời gian cho vay dài, rủi ro cao nên có lãi suất cao, là nguồn mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Thông qua hoạt động tín dụng trung và dài hạn, ngân hàng không ngừng mở rộng quy mô khách hàng, bằng việc: thu hút thêm các khách hàng mới, tạo ra mối liên hệ chặt chẽ và lâu bền với các khách hàng truyền thống. Nhờ đó, ngân hàng không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, ngày càng khảng định vị thế và vai trò của mình trong nền kinh tế. Tín dụng trung và dài hạn góp phần vào việc làm cho vốn huy động không bị nhàn rỗi, mà được sử dụng hiệu quả để đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Do ngân hàng không thể ngừng nhận tiền gửi từ dân cư, và vẫn phải trả lãi cho tiền gửi nên nếu để khoản tiền nhàn rỗi trong “ket”, làm tăng chi phí ngân hàng và giảm lợi nhuận. Tín dụng trung và dài hạn là một trong các cơ sở để ngân hàng mở rộng huy động vốn, sử dụng vốn một cách khả thi, tăng sức cạnh tranh của bản thân ngân hàng. ♦ Đối với nền kinh tế: Ở mọi quốc gia, nhu cầu vốn trung và dài hạn là rất lớn để đầu tư phát triển cơ sở hạn tầng. Nhu cầu này có thể được đáp ứng bằng nhiều nguồn như: Ngân sách Nhà nước, viện trợ phát triển, vay nợ nước ngoài nhưng nguồn quan trọng nhất vẫn là tín dụng trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại. Do đó, tín dụng trung và dài hạn rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội.
  14. 1.3. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại 1.3.1. Khái niệm của chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại Bất kì một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường đều phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đưa ra mức giá phù hợp,...Ngân hàng thương mại – một doanh nhiệp đặc biệt – cũng không nằm ngoài quy luật đó. Hoạt động tín dụng mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng là điều kiện hàng đầu để ngân hàng không ngừng phát triển. Xuất phát từ mối quan hệ tín dụng, xem xét chất lượng tín dụng trên ba giác độ: ngân hàng thương mại, khách hàng và nền kinh tế. ♦ Trên giác độ ngân hàng thương mại Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, thực lực theo hướng tích cực của bản thân ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng tín dụng phải đảm đảm chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý và gia tăng, dư nợ ngày càng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo và giảm thiểu, đảm bảo cân đối giữa nguồn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trong nền kinh tế. ♦ Trên giác độ khách hàng Thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, sự am hiểu về khách hàng sẽ làm cho ngân hàng hiểu rõ nhu cầu tín dụng của Ngân hàng, đảm bảo thỏa mãn nhu cầu về vốn cho họ. Trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay, chất lượng là yêu cầu hàng đầu, vì vậy, chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng: lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản, không phiền hà, thu hút được khách hàng nhưng vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc và quy định của tín dụng. ♦ Trên giác độ nền kinh tế Tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, thu hút tối đã nguồn vốn nhàn rỗi trong nước, góp phần tăng trưởng kinh tế, đảm bảo các mục tiêu kinh tế của Nhà nước và chính phủ đặt ra.
  15. Như vậy, chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp được đánh giá trên quan điểm của: ngân hàng, khách hàng và của nền kinh tế. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn là một bộ phận của chất lượng tín dụng cũng không nằm ngoài sự đánh giá này. Tóm lại, tín dụng trung và dài hạn được đánh giá là có chất lượng khi: khoản tín dụng đó đạt được mục đích vay vốn đã đề ra; hoàn trả vốn vay đầy đủ, đúng hạn, mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội cho cả người vay và người đi vay. 1.3.2. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại Chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói riêng là một chỉ tiêu tổng hợp, vừa mang tính cụ thể, vừa mang tín trừu tượng. Do đó, để đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn cần thiết lập hai nhóm chỉ tiêu: chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định lượng: 1.3.2.1. Chỉ tiêu định tính Chỉ tiêu này được thể hiện qua một số khía cạnh sau:  Khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng: thủ tục đơn giản, nhanh chóng, thuận tiện, kỳ hạn và phương thức thanh toán phù hợp với chu kỳ kinh doanh và chu kỳ thu nhập của khách hàng.  Ngân hàng có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực cấp tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng, cở sở vật chất được trang bị tốt và đầy đủ. Hình thức huy động vốn, hình thức cho vay và đầu tư đa dạng. Ngân hàng không ngừng cung cấp các dịch vụ mới.  Đối tượng khách hàng đa dạng, lượng khách hàng vay trung và dài hạn đông đảo, không ngừng được mở rộng. Cách đánh giá chỉ tiêu định tính: Để đánh giá chỉ tiêu định tính, các cách thường dùng là các cách dùng trong thống kê học như điều tra, phỏng vấn và phương pháp chuyên gia. Trong đó, điều tra là phương pháp hay sử dụng nhất. Thông qua điều tra, quan sát có thể biết được thủ tục cho vay đối với khách hàng như thế nào, rút ra nhận xét. Cũng có thể thấy được cơ sở vật chất của ngân hàng. Thông qua điều tra cũng cho thấy được đối tượng khách hàng là ai, số lượng là bao nhiêu, đang kinh doanh ngành nghề gì, cần vay sử dụng vào
  16. mục đích nào. Hình thức huy động vốn, đầu tư, cho vay của ngân hàng đa dạng hay không, sử dụng phương pháp này cũng cho kết quả tương đối chính xác. Ngoài ra, có thể dùng phương pháp phỏng vấn để thấy được khách hàng có hài lòng với ngân hàng hay không, các chuyên gia đánh giá về hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng ra sao. Để đánh giá chất lượng tín dụng của mình thông qua chỉ tiêu định tính, Ngân hàng thường thuê các công ty kiểm toán uy tín. 1.3.2.2. Chỉ tiêu định lượng ♦ Dư nợ tín dụng trung và dài hạn (TDH) Tổng dư nợ của ngân hàng bao gồm: dư nợ vốn ngắn hạn, dư nợ vốn trung dài hạn, vốn góp đồng tài trợ. Chỉ tiêu dư nợ phản ánh số còn cho vay của ngân hàng trong một thời kì nhất định – thường là một năm. Chỉ tiêu này phản ánh một phần uy tín, khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng. Tổng dư nợ cao, chứng tỏ ngân hàng cho vay được nhiều, có hút được nhiều khách hàng, uy tín của ngân hàng tương tối tốt. Ngược lại, tổng dư nợ thấp cho thấy ngân hàng khả năng thu hút khách hàng là thấp, uy tín chưa cao, khả năng mở rộng khách hàng còn hạn chế. Dư nợ tín dụng trung và dài hạn Tỷ lệ dư nợ tín dụng trung và dài hạn = Tổng dư nợ tín dụng Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng của tín dụng trung và dài hạn trong tổng dư nợ.  Nếu đem so sánh với các chỉ tiêu khác của ngân hàng như tỷ lệ dư nợ tín dụng ngắn hạn trên tổng dư nợ tín dụng, thì chỉ tiêu này cho thấy quy mô của tín dụng trung và dài hạn so với tín dụng ngắn hạn. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ ngân hàng có quy mô tín dụng trung và dài hạn lớn, đồng thời đem lại thu nhập cao nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro lớn cho hoạt động tín dụng của ngân hàng.  Có thể đem so sánh chỉ tiêu này với chỉ tiêu trung bình ngành. Nếu tỷ lệ tín dụng trung và dài hạn trên tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng cao hơn trung bình ngành, chứng tỏ, khả năng thu hút khách hàng có nhu cầu cho vay trung và dài hạn là lớn, uy tín của ngân hàng tương đối tốt. Ngược lại, nếu tỷ lệ này thấp
  17. hơn trung bình ngành, chứng tỏ ngân hàng chưa thực sự hấp dẫn các khách hàng nhu cầu vay trung và dài hạn. Chỉ tiêu này chỉ là một phần đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Thông qua chỉ tiêu này, chưa thể đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng tốt hay xấu. Để đánh giá toàn diện và tương đối chính xác, phải xem xét đồng thời các chỉ tiêu. ♦ Vòng quay vốn tín dụng trung và dài hạn: Doanh số thu nợ TDH BQ trong kỳ Vòng quay vốn tín dụng TDH = Dư nợ tín dụng TDH BQ trong kỳ Vòng quay vốn trung và dài hạn phản ánh số vòng chu chuyển vốn tín dụng trung và dài hạn trong chu kỳ (thường là một năm). Vòng quay vốn tín dụng cho biết hiệu quả trong việc sử dụng vốn ngân hàng. Vòng quay càng lớn chứng tỏ ngân hàng sử dụng vốn có hiệu quả, khả năng thu nợ của ngân hàng tốt. Vòng quay vốn tín dụng trung và dài hạn nhỏ chứng tỏ, khách hàng không thể hoàn trả nợ đúng hạn, làm phát sinh nợ quá hạn hoặc ngân hàng phải tiến hành gia hạn nợ cho khách hàng. ♦ Nợ quá hạn và nợ khó đòi Nợ quá hạn trung và dài hạn Tỷ lệ nợ quá hạn TDH = Dư nợ tín dụng trung và dài hạn Khi đến kỳ hạn trả nợ, nếu khách hàng không thể hoàn trả đầy đủ và đúng hạn, không được ngân hàng gia hạn nợ thì khoản nợ đó chuyển thành nợ quá hạn. Các ngân hàng đều cố gắng sao cho hạ tỉ lệ này xuống càng thấp càng tốt, bởi lẽ tỷ lệ này cao thì chứng tỏ ngân hàng đang gặp nhiều rủi ro. Tuy nhiên, trên thực tế, do những rủi ro trong kinh doanh là không thể tránh khỏi nên các ngân hàng thường chấp nhận một tỷ
  18. lệ nợ quá hạn nhất định coi như giới hạn an toàn. Theo ý kiến của một chuyên gia thì tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ ở mức dưới 3% là có thể chấp nhận được. Tuy nhiên chỉ tiêu này đôi khi cũng chưa phản ánh đầy đủ chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Bởi vì, bên cạnh những ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý, còn có những ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn thấp thông qua việc cho vay đảo nợ, không chuyển nợ quá hạn theo đúng quy định. Nợ khó đòi trung và dài hạn Tỷ lệ nợ khó đòi trung và dài hạn 1 = Nợ quá hạn trung và dài hạn Nợ khó đòi trung và dài hạn Tỷ lệ nợ khó đòi trung và dài hạn 2 = Dư nợ tín dụng trung và dài hạn Hai chỉ tiêu này cho thấy tỷ trọng nợ khó đòi trung và dài hạn trong tổng nợ quá hạn trung và dài hạn và trong tổng dư nợ tín dung trung và dài hạn. Chỉ tiêu này càng thấp càng tốt, chứng tỏ các khoản nợ có khả năng không đòi được càng giảm, phản ánh hiệu quả hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Các chỉ tiêu về nợ quá hạn và nợ khó đòi vẫn là những chỉ tiêu phản ánh rõ nét nhất chất lượng tín dụng của ngân hàng. Chỉ tiêu này cho thấy không phải lúc nào dư nợ tín dụng cao cũng tốt vì nếu ngân hàng không có chiến lược quản lý nợ tốt thì sẽ dẫn đến phát sinh nhiều nợ quá hạn, nợ khó đòi. ♦ Hệ số sử dụng vốn trung và dài hạn Dư nợ tín dụng trung và dài hạn Hiệu suất sử dụng vốn trung và dài hạn = Tổng nguồn vốn trung, dài hạn Chỉ tiêu này phản ánh mức độ sử dụng vốn trung và dài hạn đề đầu tư cho tín dụng trung và dài hạn. Nếu tỷ lệ này nhỏ hơn hoặc bằng một, chứng tỏ, nguồn vốn
  19. trung và dài hạn để để tài trợ cho tín dụng trung và dài hạn, tín dụng trung và dài hạn có sự phù hợp về kỳ hạn nên độ an toàn sẽ được đảm bảo. Ngược lại, nếu tỷ lệ này lớn hơn một, chứng tỏ nguồn vốn huy động trung và dài hạn không đủ để tài trợ cho tín dụng trung và dài hạn ngân hàng. Tuy nhiên, phải so sánh một cách tương đối. Chẳng hạn như nếu tỷ lệ này nhỏ hơn nhiều so với một, chứng tỏ ngân hàng sử dụng quá nhiều nguồn vốn ngắn hạn đề tài trợ cho tín dụng trung và dài hạn. Điều này là không an toàn cho ngân hàng, tiềm ẩn rủi ro cao, nếu khách hàng ồ ạt đến rút tiền. Nhưng nếu tỷ lệ này gần bằng một, có nghĩa rằng chỉ có một phần nguồn vốn ngắn hạn dùng để tài trợ cho tín dụng trung và dài hạn, điều này làm giảm rủi ro, vừa làm giảm chi phí lãi của khoản tiền nhàn rỗi của các khoản tiền gửi ngắn hạn không tài trợ hết cho tín dụng ngắn hạn. ♦ Chỉ tiêu lợi nhuận Lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn Chỉ tiêu lợi nhuận 1 = Dư nợ tín dụng trung và dài hạn Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng trung và dài hạn, cho biết một trong một trăm phần trăm dư nợ tín dụng trung và dài hạn thì lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn là bao nhiêu. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ tín dụng trung và dài hạn là một nghiệp vụ sinh lời cao. Lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn Chỉ tiêu lợi nhuận 2 = Tổng lợi nhuận của ngân hàng Chỉ tiêu này cho biết lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng thu nhập của ngân hàng. Nó phản ánh tầm quan trọng của tín dụng trung và dài hạn trong hoạt động ngân hàng. 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn
  20. Việc xác định các nhân tố có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng là rất quan trọng trong việc đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng của hoạt động tín dụng này. 1.4.1. Nhân tố chủ quan ♦ Quy mô và cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng thương mại Các ngân hàng khi cho vay phải cần có lượng vốn lớn. Do yêu cầu đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên nên các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng phải được tài trợ chủ yếu bằng nguồn vốn trung và dài hạn. Nếu một ngân hàng có nguồn vốn dồi dào nhưng chủ yếu là vốn ngắn hạn, không ổn định khì không nên mở rộng cho vay trung và dài hạn. Các nguồn vốn của một ngân hàng có thể sử dụng cho vay trung và dài hạn bao gồm: nguồn tự có của ngân hàng, vốn vay trung và dài hạn, vốn huy động trung và dài hạn và một bộ phận nhất định vốn ngắn hạn. Quy mô của các nguồn này là một trong những nhân tố quyết định quy mô cho vay trung và dài hạn và do đó ảnh hưởng đến chất lượng cho vay trung và dài hạn của ngân hàng. Ngoài ra, một ngân hàng có nguồn vốn trung và dài hạn dồi dào cũng dễ dàng hơn trong việc tạo lập uy tín đối với khách hàng, nhờ đó thu hút được nhiều khách hàng hơn. ♦ Hiệu quả của công tác thẩm định của ngân hàng Một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng tín dụng là vốn và lãi phải được trả đúng hạn. Điều này khó có thể có được nếu dự án được thực hiện không hiệu quả như mong muốn, hoặc doanh nghiệp cố tình lừa đảo ngân hàng. Để hạn chế nguy cơ đó ngân hàng cần thực hiện tốt công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng. Nếu thẩm định sai, đánh giá sai năng lực pháp lý, tài chính và hiệu quả của dự án sẽ dẫn đến gia tăng các khoản nợ xấu, nợ quá hạn. Chi phí trong hoạt động thu nợ, thanh lý tài sản của ngân hàng tăng, gây tổn thất cho ngân hàng, giảm lợi nhuận. Thậm chí, ngân hàng không thể thu được nợ, mất vốn ngân hàng. Cũng có thể những dự án có hiệu quả nhưng không được cấp tín dụng, ngân hàng sẽ mất đi một khoản lợi nhuận. Thực hiện tốt công tác thẩm đinh giúp ngân hàng loại bỏ những dự án không khả thi, giảm rủi ro cho ngân hàng đồng thời tiết kiệm chi phí cho nền kinh tế, nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2