TIỂU LUẬN: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG TRONG ĐỔI MỚI MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG LÃNH ĐẠO, NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ, NHÂN DÂN LÀM CHỦ
lượt xem 44
download
Quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” không chỉ là vấn đề lý luận quan trọng, mà còn là vấn đề thực tiễn cấp thiết, thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Trong bài viết này, tác giả trình bày và luận giải sáu quan điểm cơ bản cần nắm vững trong quá trình đổi mới mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Việc đổi mới mối quan hệ này phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự tham gia...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: TIỂU LUẬN: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG TRONG ĐỔI MỚI MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG LÃNH ĐẠO, NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ, NHÂN DÂN LÀM CHỦ
- TIỂU LUẬN: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG TRONG ĐỔI MỚI MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG LÃNH ĐẠO, NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ, NHÂN DÂN LÀM CHỦ
- Quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” không chỉ là vấn đề lý luận quan trọng, mà còn là vấn đề thực tiễn cấp thiết, thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Trong bài viết này, tác giả trình bày và luận giải sáu quan điểm cơ bản cần nắm vững trong quá trình đổi mới mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Việc đổi mới mối quan hệ này phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự tham gia tích cực của các ngành, các cấp cũng như sự hưởng ứng của toàn dân. Trong hơn 20 năm qua, mặc dù đã có những thay đổi mới nhất định trong nhận thức, quan điểm về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, nhưng có thể nói, hiện vẫn đang còn nhiều vấn đề chưa rõ cả về lý luận lẫn thực tiễn. Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ chưa được thể chế hoá, pháp luật hoá một cách đầy đủ; sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước cũng như việc bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa còn hạn chế. Hơn nữa, bối cảnh mới, tình hình mới, các nhân tố mới đòi hỏi phải nhận thức đúng đắn hơn và rõ hơn nữa về mặt lý luận mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ nhằm tạo cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị nước ta. Đổi mới mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, cần nắm vững một số quan điểm cơ bản sau đây:(*) 1. Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo của Nhà nước, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong việc thực hiện đường lối phát triển đất nước do Đảng đề ra Đảng ta đảm nhận sứ mệnh lịch sử là Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo cách mạng và dân tộc Việt Nam. Lịch sử 80 năm qua của cách mạng nước ta đã khẳng định rõ rằng, Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Vì vậy, mọi chủ trương và giải pháp đổi mới mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ không được xâm phạm và làm giảm vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải nhằm
- đạt được mục tiêu nâng cao sự lãnh đạo của Đảng, tăng hiệu quả lãnh đạo, bảo đảm ổn định chính trị để phát triển kinh tế, mang lại lợi ích nhiều hơn cho dân, từ đó dân tin yêu và gắn bó với Đảng hơn. Bài học kinh nghiệm không bao giờ được lãng quên rút ra từ thất bại đau xót của cải tổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu là, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải giữ vững được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong việc đổi mới mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Tuy nhiên, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng không có nghĩa là hạ thấp vai trò, trách nhiệm của Nhà nước, không có nghĩa là Đảng làm thay công việc của Nhà nước. Nhất là trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, dễ dẫn đến tình trạng bao biện, làm thay, biến bộ máy nhà nước thành công cụ thừa hành một cách thụ động, hình thức. Do vậy, cần phải đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng để vừa bảo đảm củng cố vị trí, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, vừa phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, bảo đảm sự tôn trọng của Đảng đối với tính độc lập nhất định về chức năng, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trên cơ sở xử lý hài hoà các quan hệ lãnh đạo và quan hệ đối thoại dân chủ của Đảng đối với Nhà nước trong tư cách Đảng là hạt nhân lãnh đạo chính trị; đồng thời, là thành viên của hệ thống chính trị. 2. Xác định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ và phương thức vận hành của từng tổ chức trong hệ thống chính trị Đảng cầm quyền là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nhưng Đảng không phải là cơ quan quyền lực nhà nước, không trực tiếp điều hành, quản lý xã hội. Quyền lực của Đảng là quyền lực chính trị, tức là quyền quyết định con đường phát triển xã hội, chế độ chính trị của đất nước, mục tiêu chiến lược và các quan điểm, nguyên tắc xây dựng đất nước. Nhà nước là cơ quan công quyền thực hiện sự thống nhất quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội theo pháp luật và bằng pháp luật. Phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước để tăng cường vai trò, hiệu quả lãnh đạo của Đảng, khắc phục phong cách hoạt động của Đảng theo kiểu quan liêu, nặng về mệnh lệnh, hành chính, xem nhẹ sự thuyết phục, giáo dục, nêu gương, kiểm tra. Nêu cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước bằng việc đưa ra Cương lĩnh chính trị, đường lối chiến lược, chủ trương và chính
- sách lớn về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh… để Nhà nước thể chế hoá và tổ chức thực hiện. Đồng thời, cũng trên cơ sở đó, kiện toàn, củng cố các tổ chức trong hệ thống bộ máy nhà nước để thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình, hạn chế tính thụ động, ỷ lại vào cơ quan lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng Đảng không can thiệp vào hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước, không bao biện và làm thay những nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước. Đảng lãnh đạo đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; xây dựng và phát huy vai trò của các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp); lãnh đạo cải cách nền hành chính nhà nước trên các lĩnh vực thể chế, bộ máy, cán bộ công chức và hành chính công. Trên cơ sở làm rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị, cần xây dựng cơ chế, quy chế phối hợp chức năng giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Thực hiện sự phân công, ràng buộc trách nhiệm cụ thể, giám sát lẫn nhau giữa cấp uỷ Đảng, chính quyền và nhân dân, tạo sự vận hành đồng bộ, thông suốt của hệ thống chính trị. Thể chế hoá đầy đủ và đồng bộ quyền giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội đối với Đảng, Nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức. 3. Gắn liền đổi mới, chỉnh đốn Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà nước và kiện toàn, củng cố các tổ chức chính trị – xã hội Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội là những bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị nước ta, tạo thành cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Trong cơ chế đó, sự yếu kém của bất kỳ một thành tố nào cũng có tác dụng tiêu cực đến thành tố khác và làm giảm sức mạnh của cả hệ thống. Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới, lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội; do đó, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện, làm cho Đảng ngang tầm với những yêu cầu, nhiệm vụ mới là vấn đề hệ trọng không chỉ đối với Đảng, mà còn là nhiệm vụ của Nhà nước và của toàn dân. Nhưng Đảng không thể mạnh nếu Nhà nước yếu kém và nhân dân không thực hiện và phát huy được quyền làm chủ của mình. Bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực và hiệu quả, thực sự phát huy được quyền làm chủ của nhân dân là một trong những tiêu chí đánh giá vai trò và hiệu quả lãnh
- đạo của Đảng. Trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền rất dễ xảy ra nguy cơ lạm quyền và thoái hoá, biến chất về phẩm chất, năng lực của cán bộ, đảng viên. Điều đó trực tiếp làm hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng và suy yếu hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước và vô hiệu hoá vai trò, tác dụng của các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là trong điều kiện còn thiếu một cơ chế giám sát hữu hiệu của nhân dân. Vì vậy, đòi hỏi phải gắn việc đổi mới mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ với việc chỉnh đốn, xây dựng Đảng, cải cách bộ máy nhà nước và củng cố các tổ chức chính trị - xã hội. Nhà nước là tổ chức trụ cột của hệ thống chính trị; do vậy, việc cải cách, hoàn thiện Nhà nước có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả của tổ chức và hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị. Phải làm cho các tổ chức chính trị - xã hội thật sự là các tổ chức đại biểu cho tiếng nói, lợi ích, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân và thực hiện chức năng phản biện, giám sát xã hội đối với hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, của cán bộ, đảng viên, công chức; khắc phục tình trạng hành chính hoá, nâng cao tính tự chủ, độc lập với Nhà nước của các tổ chức này. 4. Giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế, giữ vững bản sắc dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa Tiếp tục đổi mới mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là nhằm xây dựng chế độ ta ngày càng vững chắc, xã hội ta ngày càng tiên tiến, đất nước ta ngày càng ổn định, các thành quả cách mạng được củng cố và phát triển, không vì đổi mới mà phủ định quá khứ. Chúng ta tiếp tục đổi mới trong bối cảnh các thế lực thù địch đang đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” nhằm vô hiệu hoá sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam. Vì thế, phải hết sức cảnh giác với khuynh hướng “tả” khuynh và chủ nghĩa cực đoan trong quá trình đổi mới. Dù thế giới đang trải qua những biến động phức tạp nhưng xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo trong các quan hệ đối ngoại. Quán triệt quan điểm “Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững môi trường hoà bình ổn định để phát triển kinh tế – xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc” được khẳng định rõ trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá IX; hơn lúc
- nào hết, đất nước và nhân dân cần môi trường ổn định để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhằm chiến thắng đói nghèo, lạc hậu. Bài học của “cải tổ” chứng minh rằng, nếu thúc đẩy cải cách một cách vô nguyên tắc, thiếu thận trọng thì “cải tổ” lại dẫn đến sụp đổ. Bất cứ sự đổi mới nào phá vỡ môi trường ổn định đều đi ngược lại lợi ích cao nhất của Tổ quốc. Đổi mới mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ thực chất là kiện toàn hệ thống lãnh đạo và quản lý đất nước để tiếp tục thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Đại hội IX “lấy phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trung tâm, lấy xây dựng, chỉnh đốn Đảng làm nhiệm vụ then chốt” nhằm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển. Bởi vậy, đổi mới mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ phải đáp ứng thật tốt yêu cầu giải phóng mọi lực lượng sản xuất xã hội, mọi tiềm năng, tiềm lực ẩn chứa trong mọi tầng lớp nhân dân, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các thành phần kinh tế, thúc đẩy kinh tế tri thức phát triển. Toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành xu thế của thời đại mới. Trong xu thế đó, chúng ta đổi mới mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ phải thường xuyên nắm vững quan điểm: giữ vững bản sắc dân tộc Việt Nam và định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới. Nhưng, giữ vững bản sắc dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa tuyệt nhiên không phải là đóng cửa, biệt lập; mà nhất thiết phải chủ động hoà nhập vào trào lưu tiến hoá của thế giới, của thời đại. 5. Xây dựng xã hội công dân, củng cố Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, góp phần đắc lực đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày càng hoàn thiện đã được Đảng ta đề xuất từ hai thập kỷ nay. Theo hướng đó, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực cả về lập pháp, hành pháp lẫn tư pháp, nhưng cũng mới đạt được những kết quả bước đầu ở cấp Trung ương, trong khi yêu cầu xây dựng xã hội công dân đòi hỏi rất nhiều yếu tố từ người dân cho đến cơ chế quản lý của chính quyền các cấp, kể từ cấp cơ sở. Những bất cập phát sinh từ trình độ dân trí, từ đòi hỏi sự hiểu biết và tự giác chấp hành nghĩa vụ và quyền lợi của công dân, từ năng lực quản lý thành thục, tinh thông về nghiệp vụ, gọn nhẹ về tổ chức biên chế của các cơ quan nhà nước… đòi hỏi phải nỗ lực tự nâng cao, tự đổi mới về nhiều mặt của hệ thống chính trị nước
- ta. Những bất cập đó không dễ khắc phục trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, do yêu cầu phát triển trong xu thế hội nhập, tất cả đã trở thành những đòi hỏi khách quan không cho phép chậm trễ ở bất cứ lĩnh vực nào. Xã hội công dân và Nhà nước pháp quyền là hai mặt làm điều kiện cho nhau. Không thể củng cố Nhà nước pháp quyền trong một xã hội mà mỗi người dân chưa hiểu hết và làm đúng cả nghĩa vụ lẫn quyền lợi của mình, cũng không thể bảo đảm mọi quyền lợi và nghĩa vụ của công dân khi nhiều nhân viên nhà nước còn tự ý làm trái pháp luật hoặc không nhất quán trong hoạt động quản lý. Mục tiêu xây dựng nước ta đến năm 2020 “cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”(1) không chỉ yêu cầu về mặt kinh tế – kỹ thuật, mà phải bao gồm cả mặt chính trị – xã hội của nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mục tiêu đó đòi hỏi đến năm 2010 phải “đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”(2), bao hàm một cơ chế lãnh đạo và quản lý tương ứng. Một xã hội công dân bảo đảm mọi quyền tự do, dân chủ cho mọi người dân, được quản lý bằng một Nhà nước pháp quyền triệt để tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, vừa cổ vũ nhân dân làm giàu chính đáng, vừa xúc tiến mọi giải pháp xoá đói giảm nghèo, vừa gắn chặt tốc độ tăng trưởng kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội…, đó chính là cái “bất biến” trong đối nội để chủ động ứng xử với cái “vạn biến” trong đối ngoại. Sau khi gia nhập “Tổ chức thương mại thế giới” (WTO), chúng ta phải điều chỉnh không ít nội dung về chính sách kinh tế, về hệ thống pháp luật; mặt khác, yêu cầu về cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu để chiếm lĩnh thị phần cũng đòi hỏi sự quản lý của Nhà nước phải nhất quán và thông thoáng để mở đường cho kinh tế hàng hoá ngày càng phát triển.(2) Nhà nước trong hệ thống chính trị đổi mới phải thể hiện được các giá trị phổ biến đặc trưng cho Nhà nước pháp quyền nói chung và các giá trị đặc thù của Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải xây dựng và thực hiện một hệ thống các nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước một cách thật sự dân chủ và khoa học; cơ cấu lại chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hoàn chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phân nhiệm và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành
- pháp và quyền tư pháp. Bộ máy nhà nước phải được đổi mới đồng bộ từ Trung ương đến địa phương để tạo ra một nền hành chính hiệu quả và thông suốt, đồng thời xây dựng các điều kiện, tiền đề để từng bước tiến tới chế độ tự quản địa phương, phù hợp với đặc điểm, tình hình nước ta. Do vậy, việc đổi mới, kiện toàn các cấp chính quyền địa phương cần phải được nhận thức đầy đủ tính cấp thiết trước các yêu cầu phát triển hiện nay của đất nước. Tăng cường vai trò, hiệu lực của Nhà nước trong hệ thống chính trị là tăng cường năng lực, trách nhiệm phục vụ nhân dân của bộ máy công quyền. Do vậy, mọi giải pháp cải cách bộ máy nhà nước đều nhằm mục tiêu đảm bảo để nhân dân thật sự là chủ thể duy nhất của quyền lực nhà nước, tham gia tích cực vào quá trình thực hiện quyền lực nhà nước. Để đảm bảo yêu cầu này, bộ máy nhà nước phải được cơ cấu gọn nhẹ, năng động, trong sạch và hiệu quả. Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải công khai, minh bạch, thật sự dân chủ. Có như vậy mới thật sự khắc phục được tình trạng tha hoá quyền lực, quan liêu hoá và tham nhũng trong bộ máy công quyền. Trong quá trình hội nhập, chúng ta phải không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý kinh tế – xã hội. Ngoài việc triệt để tôn trọng các quyền của công dân, cần đặc biệt theo dõi và xử lý tốt các vấn đề nhạy cảm có quan hệ đến các tôn giáo, dân tộc, các quyền tự do, dân chủ đã ghi trong Hiến pháp. Chính sách và thái độ ứng xử với các phần tử và các nhóm chống đối là những vấn đề dễ bị các thế lực thù địch soi mói và xuyên tạc. Từng cơ quan nhà nước phải loại trừ cho kỳ được những hiện tượng cửa quyền, sách nhiễu, khinh suất, kém văn hoá, không lễ độ trong tiếp xúc với dân, với kiều bào về thăm quê hương, với người nước ngoài hoạt động trên đất nước ta, xây dựng một nếp văn hoá - hành chính xứng đáng với đất nước ngàn năm văn hiến. Nhà nước pháp quyền cần được củng cố theo hướng đề cao kỷ cương phép nước, thực hiện dân chủ với nhân dân, nghiêm minh với mọi tệ nạn và tội phạm. 6. Đổi mới mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ phải đồng thời là sự nghiệp tự đổi mới của hệ thống trong thượng tầng kiến trúc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, được toàn dân tham gia đóng góp Tiếp tục đổi mới mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ ở nước ta hiện nay, về thực chất, là việc tiếp tục đổi mới hệ thống thượng tầng
- kiến trúc chính trị – xã hội nhằm đáp ứng những yêu cầu đổi mới trong kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội. Muốn xử lý tốt hơn nữa mối quan hệ giữa ba hệ thống lãnh đạo (của Đảng), quản lý (của Nhà nước) và quần chúng nhân dân (do các tổ chức chính trị – xã hội làm đại biểu) theo đúng phương châm Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ thì bản thân từng hệ thống phải nhất trí, thông suốt yêu cầu đổi mới, tích cực tham gia quá trình đổi mới và trước hết phải tự chấn chỉnh cho phù hợp với yêu cầu đổi mới. Không thể chỉ đổi mới nhận thức và cơ chế của chủ thể lãnh đạo (hay chủ thể quản lý) mà không đồng thời đổi mới nhận thức và cơ chế của đối tượng lãnh đạo (và đối tượng quản lý). Bởi vậy, đổi mới mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ chẳng những cần được triển khai nhịp nhàng đồng bộ, mà còn đòi hỏi từng hệ thống phải chủ động tự đổi mới nhằm không ngừng nâng cao tác dụng và hiệu quả của bản thân từng hệ thống trong mối quan hệ với các hệ thống khác. Phân tích những vấn đề phát sinh trong xã hội hiện nay, đại bộ phận đều do mâu thuẫn giữa cá nhân này với cá nhân khác hoặc giữa nhóm cá nhân với tổ chức lãnh đạo hoặc tổ chức quản lý, nhưng không nhất thiết lúc nào cũng có nguyên nhân từ cả đôi bên. Điều đáng lưu ý ở cơ sở hiện nay là nơi nào có vấn đề phát sinh giữa nhân dân với cá nhân lãnh đạo, quản lý hoặc với cấp uỷ, chính quyền địa phương thì ở đó các tổ chức chính trị - xã hội cũng mất khả năng điều chỉnh, từ đó những vụ khiếu kiện đông người chưa dễ dàng chấm dứt. Nếu từng hệ thống không chủ động tự chấn chỉnh thì không dễ gì hạn chế tình trạng đó. Đối với toàn dân, mặc dù cuộc đổi mới trong hệ thống thượng tầng kiến trúc của đất nước không bao gồm từng người dân, nhưng đó là công cuộc đổi mới bản thân chế độ lãnh đạo và quản lý có quan hệ đến toàn bộ chính sách đối nội, đối ngoại của đất nước, đến quyền làm chủ của mỗi công dân. Mặt khác, đổi mới thượng tầng kiến trúc, xét cho cùng, là vì lợi ích lâu dài của toàn xã hội, toàn dân tộc, tuyệt nhiên không phải vì lợi ích nào của Đảng hay của Nhà nước (ví dụ: việc quán triệt và triển khai quy chế thực hành dân chủ ở làng - bản, xã đang trực tiếp tác động đến quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi công dân). Bởi vậy, vấn đề đổi mới mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là công việc cần được toàn dân hiểu rõ ý nghĩa, sự cần thiết và tích cực tham gia đóng góp. Chính sự đóng góp rộng rãi
- của nhân dân, nhất là những công dân đã sống qua nhiều chính thể, nhiều chế độ có thể đưa lại nhiều sáng kiến bổ ích. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, “lấy dân làm gốc” là một quan điểm cơ bản trong lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước ta. Tiếp tục đổi mới mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ có sự đóng góp ý kiến của nhân dân được tiến hành một cách có kế hoạch, có lãnh đạo chắc chắn sẽ càng làm rõ nhiều khía cạnh của luận điểm sâu sắc đó. Sự nghiệp đổi mới đã được nhiều Đảng Cộng sản tiến hành trước Đảng ta, nhưng không phải nơi nào cũng thành công tốt đẹp. Với kinh nghiệm lãnh đạo già dặn, Đảng ta chủ trương bắt đầu từ đổi mới cơ chế kinh tế, rồi thận trọng tiến hành đổi mới từng bước trong lĩnh vực chính trị và các lĩnh vực khác. Đó là chủ trương đúng đắn có ý nghĩa quyết định thắng lợi, đã được Đảng ta lựa chọn. Bởi vậy, quan điểm cơ bản trong việc tiếp tục đổi mới mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ nhất thiết phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, từ Trung ương Đảng đến cấp uỷ Đảng từng cấp, sự tham gia tích cực của các ngành các cấp, sự hưởng ứng của toàn dân mới bảo đảm đưa toàn bộ sự nghiệp đổi mới đến thành công tốt đẹp. q (*) Đại tá, Phó giáo sư, tiến sĩ, Thư ký khoa học chuyên trách, Hội đồng Lý luận Trung ương. (1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.76. (2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.76. VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRẦN ĐÌNH THẢO (*)
- Bài viết phân tích mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại giữa ổn định chính trị và phát triển kinh tế ở Việt Nam: ổn định chính trị là điều kiện, cơ sở quan trọng để phát triển kinh tế; phát triển kinh tế là yếu tố bảo đảm cho sự ổn định chính trị. Đồng thời, tác giả cũng luận chứng một số giải pháp để giải quyết một cách hiệu quả mối quan hệ giữa ổn định chính trị và phát triển kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay nhằm hướng đến phát triển bền vững. Từ năm 1986, dưới ánh sáng của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới về tư duy lý luận, tư duy kinh tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới đã thu được nhiều kết quả khả quan, nhiều lĩnh vực trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước đã và đang phát triển mạnh mẽ. Sự tăng trưởng liên tục với tốc độ khá cao của nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua đã tạo nên thế và lực mới của đất nước, sự đói nghèo dần dần bị đẩy lùi, đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện và có mặt được nâng cao. Niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng ngày càng được củng cố và phát triển đã tạo ra sự đồng thuận cao trong xã hội. Điều đó thể hiện sự thống nhất biện chứng trong quan hệ giữa ổn định chính trị với phát triển kinh tế là nền tảng bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước. Với quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác coi xã hội là một chỉnh thể bao gồm nhiều bộ phận, yếu tố có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau, bổ sung cho nhau và đều vận động, phát triển theo quy luật khách quan. V.I.Lênin cũng đã từng nói, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế. Tư tưởng đó chỉ rõ rằng, đường lối của Đảng và chủ trương, chính sách của Nhà nước phải phản ánh được nhu cầu và quy luật kinh tế. Chỉ trong điều kiện đó, chính trị mới lãnh đạo, quản lý kinh tế có hiệu quả, mới giữ được vai trò chủ đạo của chính trị.(*)Như vậy, có thể nói, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác luôn đặc biệt chú ý đến tầm quan trọng của mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế: một mặt, đánh giá cao vai trò của chính trị, coi ổn định chính trị là sự thể hiện sức mạnh của một nền kinh tế mạnh và phát triển; mặt khác, khẳng định sự phát triển vững chắc của nền kinh tế là cơ sở để củng cố, tăng cường sức mạnh chính trị và giữ vững sự ổn định chính trị. Trong điều kiện nước ta, sự ổn định chính trị gắn với vai trò lãnh đạo của Đảng, với chủ trương, đường lối khách quan, khoa học phản ánh đúng thực tiễn của đất nước.
- Có thể nói, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và ổn định chính trị luôn là vấn đề cốt lõi, quan trọng nhất và xuyên suốt công cuộc đổi mới và phát triển ở Việt Nam. Như chúng ta đã biết, trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm và khuyết điểm đã mắc phải trong thời kỳ trước đổi mới, đặc biệt là trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế - xã hội cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ XX, tại Đại hội lần thứ VI (1986), Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Tại Đại hội này, Đảng ta đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tếdựa trên ba nguyên tắc: một là, nhất thiết phải tuân theo quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất để xác định hình thức và bước đi thích hợp; hai là, phải xuất phát từ thực tế của đất nước và vận dụng quan điểm của V.I.Lênin coi nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ; ba là,phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả ba mặt - chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa. Chính đường lối đổi mới đúng đắn với những nội dung phù hợp đã tạo nên bước chuyển căn bản và làm thay đổi bộ mặt của nền kinh tế nước ta theo hướng tích cực. Điều này thể hiện ở chỗ, nếu trước đổi mới Việt Nam thường xuyên thiếu lương thực trầm trọng và phải nhập khẩu lương thực với số lượng lớn thì chỉ sau 3 năm tiến hành đổi mới, năm 1989, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 3 thế giới (sau Thái Lan và Hoa Kỳ); tình trạngkhủng hoảng kinh tế và lạm phát phi mã đã được chặn đứng. Từ thập niên 90 của thế kỷ XX, làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài bắt đầu đổ vào Việt Nam. Việt Nam trở thành một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tếnhanh nhất thế giới, trung bình 8%/năm; là một trong những nước đang phát triển có chỉ số HDI cao, được đánh giá cao về việc thực hiện phúc lợi xã hội, xóa đói giảm nghèo và thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ(MDG) của Liên Hợp Quốc. Năm 1991, do sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu, hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng. Trước tình hình mới có nhiều biến động, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Đại hội cũng xác định rõ phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã
- hội là đẩy lùi và kiểm soát lạm phát, ổn định phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội; bước đầu ổn định và từng bước cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động;bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế... Đó là những chủ trương hoàn toàn đúng đắn của Đảng trong tình hình mới. Thực tế cho thấy, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế; so với kế hoạch đề ra, nhiều mục tiêu chủ yếu đã được hoàn thành vượt mức. Tổng sản phẩm trong nước tăng 8,2%/năm; công nghiệp tăng 13,3% /năm; sản lượng lương thực tăng 26%; lạm phát giảm từ 67,1% năm 1991 xuống còn 12,7% năm 1995. Tuy nhiên, đánh giá chung thì Việt Nam vẫn là nước nghèo, nền kinh tế còn mất cân đối, lạc hậu, trình độ kém. Trong đời sống xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí và những tiêu cực khác; bắt đầu có sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng và giữa các tầng lớp dân cư. Xét về mặt chính trị, điểm đột phá mới có giá trị định hướng của Đảng ta chính là sự ra đời của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó, khẳng định rõ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng mang sáu đặc trưng cơ bản: 1/ Do nhân dân lao động làm chủ; 2/ Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; 3/ Có nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 4/ Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công; làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; 5/ Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; 6/ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới(1). Cương lĩnh xác định mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hoá phù hợp, làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh. Đó là một quá trình lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đường. Điểm mới trong nhận thức của Đảng thể hiện qua Cương lĩnh là đã nhấn mạnh phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; xác định kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Có thể nói, đây là cơ sở hết sức quan trọng, có giá trị định hướng cho
- nhận thức và hoạt động thực tiễn của chúng ta trong tiến trình đổi mới, phát triển nền kinh tế. Những thành tựu to lớn trên các phương diện của đời sống xã hội, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế trong những năm qua đã chứng minh sự đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước. Hiện nay, đánh giá về giá trị của Cương lĩnh năm 1991, Đảng ta đã khẳng định Cương lĩnh có giá trị to lớn cả về lý luận, chính trị, tư tưởng và chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã trở thành nền tảng cho các nghị quyết tiếp theo của Đảng, có vai trò định hướng cho toàn Đảng, toàn dân vững bước đi lên giành được những thành tựu quan trọng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng. Từ đó đến nay, Đảng ta đã có những bổ sung, phát triển cả về nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn trên nhiều vấn đề của Cương lĩnh, từng bước hình thành những nét cơ bản của một hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.(1) Mặc dù gặp nhiều khó khăn, song đánh giá một cách tổng quát, phần lớn các mục tiêu chủ yếu đề ra trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 đã được thực hiện. Trong bối cảnh chính trị thế giới có nhiều biến động lớn và phức tạp, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Việt Nam vẫn giữ vững và duy trì sự ổn định về chính trị - một điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự ổn định và phát triển của các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội. Cùng với sự ổn định về chính trị, nền kinh tế của đất nước cũng có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và năng lực hội nhập kinh tế quốc tế; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hóa và xã hội không ngừng tiến bộ; thế và lực của đất nước được nâng lên, khả năng độc lập tự chủ được tăng cường... tạo điều kiện để đất nước bước sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đánh giá tình hình đất nước sau 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Đại hội lần thứ VIII của Đảng đưa ra nhận định rằng, về cơ bản, Việt Nam đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đồng thời khẳng định tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đưa nước ta bước sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được trong việc giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế, cũng như khắc phục những khó khăn và yếu kém, Đại hội VIII xác định nhiệm vụ
- tổng quát của chúng ta trong thời kỳ phát triển mới là đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,... tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế(2).Thực tiễn cho thấy, nền kinh tế tiếp tục đạt được nhịp độ tăng trưởng khá cao và ổn định: tổng sản phẩm trong nước tăng 7%/năm, công nghiệp tăng 13,5%/năm; cơ cấu kinh tế thay đổi theo hướng tích cực: tỉ trọng công nghiệp tăng lên 36,6% và tỉ trọng nông nghiệp giảm còn 24,3%. Tuy vậy, sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam còn chưa vững chắc, sức sản xuất lạc hậu, trình độ kém; thu nhập quốc dân, năng suất lao động còn thấp, đời sống nhân dân còn khó khăn, tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm cao; trình độ khoa học - kỹ thuật kém, chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn, tình trạng chảy máu chất xám xuất hiện ngày càng nhiều ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân. Tại các kỳ Đại hội IX (2001) và Đại hội X (2006), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa... phấn đấu để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Có thể nói, trong suốt tiến trình đổi mới đất nước, sự thống nhất giữa ổn định chính trị và phát triển kinh tế luôn được Đảng và Nhà nước ta duy trì, củng cố và phát triển. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta nhấn mạnh, “Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh... Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định”(3). Tựu trung lại, trong tiến trình đổi mới, Đảng ta đã xác định những nội dung cơ bản, đó là: thứ nhất, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thứ hai, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thứ ba, gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội vì mục tiêu phát triển con người; thứ tư, từng bước thực hiện đổi mới hệ thống chính trị.
- Nhìn lại chặng đường hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, chúng ta có thể thấy rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có bước phát triển rõ rệt về trình độ lý luận, tư duy lý luận của Đảng đã được đổi mới và có những tiến bộ đáng kể, thể hiện qua các kỳ Đại hội. Qua tổng kết thực tiễn của quá trình đổi mới, những nghiên cứu lý luận đã cung cấp nhiều luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc bổ sung và phát triển đường lối đổi mới của Đảng, tăng cường sự thống nhất về chính trị, tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân. Yếu tố ổn định chính trị, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng ta rất quan tâm, coi đó là yếu tố quyết định hàng đầu. Trên thực tế, Việt Nam được đánh giá là một nước có nền chính trị ổn định nhất trong khu vực. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác lý luận hiện vẫn chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu của cách mạng, chưa làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới để phục vụ việc hoạch định chiến lược, chủ trương, chính sách của Đảng, tăng cường sự nhất trí về chính trị, tư tưởng trong xã hội. Nói chung, trình độ tư duy lý luận của Đảng về nhiều mặt vẫn có những bất cập so với yêu cầu của thực tiễn cách mạng nên vai trò tiên phong, dẫn đường của lý luận cách mạng còn bị hạn chế. Do vậy, cần thiết phải tiếp tục đổi mới công tác lý luận, bám sát thực tiễn, phân tích và tổng kết thực tiễn để khái quát thành lý luận mới. Giải quyết hiệu quả mối quan hệ biện chứng giữa ổn định chính trị và phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay là tiền đề cho sự phát triển bền vững. Do đó, theo chúng tôi: Thứ nhất, để giữ vững sự ổn định chính trị, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh sự phát triển kinh tế của đất nước, Đảng cần tiếp tục kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.(3) Trong suốt 80 năm qua kể từ khi thành lập, vai trò lãnh đạo của Đảng đã được thực tiễn cách mạng khẳng định, được xã hội và nhân dân thừa nhận. Từ khi bước vào công cuộc đổi mới, Đảng ta vẫn luôn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa. Trong nhận thức của Đảng, đó là con đường hợp quy luật phát triển, phù hợp với thực tiễn của cách mạng Việt Nam và phản ánh đúng nguyện vọng của nhân dân. Nhưng vấn đề là phải đổi mới nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội. Đối với Đảng, đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa xã hội
- được nhận thức ngày càng đúng đắn hơn và xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới phải dựa trên cơ sở đảm bảo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng ta cũng khẳng định rằng, đổi mới không phải là xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là nhận thức đúng đắn, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Với tinh thần ấy, trong những năm đổi mới, Đảng ta đã bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên một loạt vấn đề, như mục tiêu, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội; sở hữu tư liệu sản xuất; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, v.v.. Nhờ đó, tư duy lý luận của Đảng ngày càng sâu sắc hơn, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng vận dụng, phát triển phù hợp hơn với thực tiễn Việt Nam. Thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh giá trị, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thắng lợi của công cuộc đổi mới cũng là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam. Cùng với sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một trong những điều kiện quan trọng bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh toàn cầu hóa và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Đó cũng là cơ sở để duy trì, củng cố sự ổn định trong đời sống chính trị, tạo tiền đề, nền tảng lý luận và thực tiễn để phát triển kinh tế bền vững. Thứ hai, ổn định chính trị và phát triển kinh tế trên cơ sở đổi mới toàn diện, đồng bộ và có kế thừa. Đảng ta đã khẳng định, đổi mới là một sự nghiệp có tính chất cách mạng sâu sắc, toàn diện, tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến mọi cấp, mọi ngành, mọi người. Do đó, phải đổi mới toàn diện từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa đến các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Nhưng khi thực hiện đổi mới yêu cầu phải xác định được trọng tâm, trọng điểm, có sự tính toán cẩn thận các bước đi, hình thức, cách làm phù hợp; phải nắm lấy khâu then chốt, nắm lấy "mắt xích" chủ yếu trong mỗi thời kỳ, tránh dàn trải, thiếu tập trung và lãng phí. Đổi mới phải thực hiện đồng bộ từ Trung ương tới địa phương, từ các cấp, các ngành đến cơ sở. Thực hiện đổi mới phải dựa trên nguyên lý về sự phát
- triển có kế thừa, có chọn lọc và bỏ qua của chủ nghĩa Mác – Lênin. Phải coi đổi mới là động lực; ổn định là điều kiện, tiền đề; phát triển nhanh và bền vững là mục đích.Có như vậy, ổn định chính trị và phát triển kinh tế mới có cơ sở vững chắc để tồn tại, làm nền tảng cho sự phát triển bền vững của đất nước. Thứ ba, ổn định chính trị và phát triển kinh tế cần gắn với thực hiện dân chủ, công bằng xã hội, vì lợi ích của nhân dân. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta rất coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; bởi, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Dân chủ hóa đời sống xã hội sẽ làm cho mọi tiềm năng sáng tạo của con người được phát huy, tính tích cực, chủ động của nhân dân được tăng lên, sự tham gia của nhân dân vào các quá trình sáng tạo ra xã hội mới sẽ ngày càng có hiệu quả cao. Dân chủ được thể hiện và thực hiện chủ yếu và trực tiếp nhất qua Nhà nước và bằng Nhà nước. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là yêu cầu bức thiết của dân chủ hóa xã hội. Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa phải tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở lợi ích chung của đất nước. Công bằng xã hội là một trong những mục tiêu phấn đấu của chế độ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nó là tiêu chí và cũng là một động lực của sự phát triển, là một nhân tố của ổn định chính trị. Hồ Chí Minh đã nói: không sợ thiếu chỉ sợ phân phối không công bằng. Thực tiễn của công cuộc đổi mới trong những năm qua đã cho thấy tầm quan trọng của mối quan hệ thuận chiều giữa giữ vững sự ổn định chính trị với phát triển kinh tế và thực hiện công bằng xã hội. Đại hội X của Đảng đã chủ trương thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển và từng chính sách phát triển. Chủ trương đúng đắn đó của Đảng và Nhà nước đã được cụ thể hoá trong cuộc sống, như cấp sổ bảo hiểm y tế cho người nghèo, đầu tư mỗi năm hàng ngàn tỉ đồng cho xóa đói giảm nghèo,… Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, về bản chất, mang tính nhân
- dân sâu sắc, thể hiện ở chỗ nó bắt nguồn từ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân và do nhân dân thực hiện. Dựa vào nhân dân, qua thực tiễn phong phú của nhân dân, tiến hành tổng kết, từng bước khái quát thành lý luận, xây dựng và hoàn thiện đường lối đổi mới - đó là bước đi hợp quy luật. Đến lượt mình, đường lối đổi mới đã đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính đáng, nguyện vọng bức xúc của nhân dân, hợp quy luật, thuận lòng dân nên đã được nhân dân hưởng ứng, tham gia tích cực và nhanh chóng đi vào cuộc sống. Sau hơn 20 năm nhìn lại, Đảng ta đánh giá những nội dung của đổi mới kinh tế được khởi xướng từ Đại hội VI đã thu được những thành công tốt đẹp. Nền kinh tế đã có sự tăng trưởng nhanh, chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập có hiệu quả với thế giới. Cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường, đời sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện, tỉ lệ đói nghèo giảm mạnh, tình hình chính trị - xã hội ổn định. Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội liên tiếp tăng qua các năm, GDP tăng bình quân 7%/năm. Sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên nhiều, vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao... Có được sự tăng trưởng kinh tế đó, một nguyên nhân quan trọng là chúng ta đã giữ vững được sự ổn định chính trị, vai trò lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Sự đồng thuận trong xã hội đã dần dần được nâng lên, niềm tin của nhân dân đối với Đảng được củng cố. Đảng đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân đối với những chủ trương lớn, chính sách lớn có tính chất quyết định vận mệnh của dân tộc và đất nước. q (*) Tiến sĩ, Học viện Chính sách và Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. (1) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.315 – 316. (2) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới. Sđd., tr.544 – 545. (3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.17.
- NGHĨ VỀ MÙA XUÂN VÀ TUỔI TRẺ TRONG DI SẢN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỖ HUY (*) Từ quan niệm tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bài viết chỉ ra và phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về việc xã hội cần phải chăm sóc, bồi dưỡng và tạo điều kiện cho thanh niên có thể hoàn thành tốt những nhiệm vụ mà lịch sử giao phó và xứng đáng là những mầm xuân của đất nước. Đồng thời, bài viết chỉ ra rằng, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bản thân thanh niên cũng phải tự biết tu rèn về đạo đức, về trình độ khoa học, kỹ thuật, về khả năng mỹ cảm để xứng đáng là người chủ tương lai của nước nhà. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất yêu mùa xuân, bởi mùa xuân không chỉ là mùa đẹp nhất trong một năm – mùa của hoa lá đâm trồi nẩy lộc, cây cối tốt tươi, tiết trời ấm áp, mát mẻ, mà còn là mùa lễ hội để mọi người du xuân tìm về nguồn cội dân tộc, ôn nhớ những võ công đại thắng quân xâm lược. Trên đất nước Việt Nam từ thành thị đến nông thôn, đâu đâu mùa xuân cũng tưng bừng, rộn rã, người người vui vẻ, nhà nhà xum họp, hoa đào, hoa mai, hoa ban nở rực rỡ. Chủ tịch Hồ Chí Minh – người con ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam không chỉ lớn lên cùng với những ngày xuân ấy của đất nước, mà cùng với thời đại mang tên mình, Người còn tạo thêm năng lượng mới, sức sống mới cho mùa xuân của dân tộc. Với cả cuộc đời lao động và chiến đấu của mình, Hồ Chí Minh đã trở thành biểu tượng mùa xuân Việt Nam rạng rỡ trong tâm thức nhân loại hiện đại. Mùa xuân, Chủ tịch nước - Hồ Chí Minh xuống đồng chống hạn cứu lúa chiêm cùng với bà con nông dân; vào xưởng máy bàn bạc với những người thợ lấm lem dầu mỡ vất vả cải tiến kỹ thuật đưa máy móc về ruộng đồng để tạo ra năng suất mới cho đất nước. Mùa xuân, Chủ tịch nước - Hồ Chí Minh làm thơ chúc Tết đồng bào cả nước và kiều bào ở nước ngoài, chúc phúc các cụ cao niên, thăm hỏi những thương bệnh binh, mừng tuổi các gia đình có công và âu yếm các
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận: “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản trị nhân sự tại Tổng công ty xăng dầu Việt Nam ”
89 p | 579 | 202
-
Tiểu luận:"Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác tổ chức lao động khoa học cho lao động quản lý tại Công ty cơ khí 79”
77 p | 516 | 200
-
Tiểu luận: “Một số biện pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty May Chiến Thắng”
85 p | 327 | 128
-
Tiểu luận: “Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác quản lý tiền lương tại Công ty Sông Đà 2”
68 p | 277 | 84
-
Tiểu luận: “Một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm tại Công ty cổ phần Dệt 10-10 “
73 p | 228 | 72
-
TIỂU LUẬN:Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh hàng Nhập khẩu - Công ty vật tư thiết bị toàn bộ Matexim.Mở đầu Việt Nam đã và đang trên con đường tiến tới hội nhập khu vực, tham gia AFTA (năm 1995), APEC (năm 1998), ký kết Hiệp định Thương mạ
103 p | 162 | 52
-
TIỂU LUẬN: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác tạo động lực tại tập đoàn vận tải Phượng Hoàng
27 p | 179 | 51
-
TIỂU LUẬN:Một số ý kiến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của Công ty Bê Tông và Xây Dựng Thịnh Liệt.Lời nói đầuTrong cơ chế thị trường ngày nay, một Công ty hay một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì không những phải tổ chức tốt bộ máy quả
38 p | 219 | 51
-
TIỂU LUẬN: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước
34 p | 468 | 51
-
TIỂU LUẬN:Một số biện pháp để nâng cao lợi nhuận ở công ty may xuất khẩu Phương Mai.Lời mở đầu Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, xây dựng kinh tế hàng hoá niều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Bước v
75 p | 167 | 42
-
TIỂU LUẬN: Một số giả pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần Tiến Hà
78 p | 176 | 41
-
TIỂU LUẬN:Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ ở Công ty Thực Phẩm Hà Nội.Lời nói đầuSau 15 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đang từng bước thay đổi, cùng hoà nhập chung vào nền kinh tế thị trường đầy sôi động của khu vực cũng như của t
78 p | 184 | 40
-
TIỂU LUẬN:Một số ý kiến tăng cường hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở Công ty xây dựng và thương mại Việt - Nhật.Lời nói đầu Ngày nay, việc mở rộng quan hệ kinh tế xã hội với các nước trên thế giới là vấn đề được quan tâm của mọi quốc gia cũng như đối với
61 p | 134 | 37
-
TIỂU LUẬN:Một số ý kiến nhằm hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý ở Công ty Cổ phần Phân lân Hàm Rồng-Thanh Hoá.Lời nói đầuSự chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, sang cơ chế thị trường và cùng với sự đa dạng hoá các t
81 p | 176 | 35
-
TIỂU LUẬN: Một số giải pháp chống lãng phí thất thoát vốn trong đầu tư XDCB
43 p | 180 | 24
-
TIỂU LUẬN: Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở công ty thực phẩm miền Bắc
102 p | 137 | 22
-
TIỂU LUẬN: Một số giải pháp đầu tư thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp điện tử Hà Nội
119 p | 139 | 17
-
TIỂU LUẬN: Một số giải pháp phát triển thị trường hàng hoá của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2010
45 p | 112 | 13
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn