intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: NHỮNG MÂU THUẪN NẢY SINH TRONG QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNGTRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ CON ĐƯỜNG VÀ ĐỘNG LỰC LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chia sẻ: Pham Vu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:116

190
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'tiểu luận: những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình nhận thức và vận dụngtriết học mác - lênin về con đường và động lực lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam hiện nay', luận văn - báo cáo, báo cáo khoa học phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: NHỮNG MÂU THUẪN NẢY SINH TRONG QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNGTRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ CON ĐƯỜNG VÀ ĐỘNG LỰC LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

  1. TIỂU LUẬN: NHỮNG MÂU THUẪN NẢY SINH TRONG QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNGTRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ CON ĐƯỜNG VÀ ĐỘNG LỰC LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
  2. Trong bài viết này, tác giả đã tập trung phân tích những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình nhận thức và vận dụng triết học Mác - Lênin về con đường và động lực đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay; đồng thời chỉ ra những hạn chế đang còn tồn tại cả trong nhận thức lẫn trong thực tiễn, làm rõ những nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến tình trạng đó. Trên cơ sở đó, tác giả nhấn mạnh rằng, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước cần được tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa, song đổi mới phải dựa trên những nguyên tắc đúng đắn với những hình thức, biện pháp, bước đi thích hợp. Đặc biệt, trong điều kiện một Đảng Cộng sản duy nhất cầm quyền, dân chủ hoá là giải pháp quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả hoạt động của Đảng. Mâu thuẫn là xung lực nội tại của mọi sự sống. Nhà triết học Hêghen đã nói như vậy. Điều đó cũng hoàn toàn đúng khi nói đến quá trình nhận thức và vận dụng triết học Mác - Lênin về con đường và động lực lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Liên quan tới vấn đề này, điều đầu tiên chúng tôi muốn nói là mâu thuẫn của việc chúng ta nhận thức và vận dụng triết học Mác - Lênin về sự phát triển xã hội cũng như con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin, từ đó, Người đưa lý luận cách mạng khoa học này vào Việt Nam. Việc tiếp nhận di sản tư tưởng – lý luận đó một cách tích cực, chủ động, sáng tạo đã dẫn tới sự ra đời một đường lối cách mạng đúng đắn, đưa công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đến thành công, xác lập nền dân chủ cộng hoà và đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
  3. Song, môi trường tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng, như đã nêu trên, cũng gây ra những hạn chế nhất định. Môi trường kinh tế – xã hội nảy sinh, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin là nền kinh tế đại công nghiệp và giai cấp công nhân phát triển tới trình độ tương đối thuần thục, chủ nghĩa tư bản đã ra đời ở các nước đó; nền dân chủ tư sản, văn hoá dân chủ tư sản, pháp quyền tư sản đã được xác lập và vận hành tương đối có hiệu quả; người lao động nói chung, công nhân nói riêng đã được rèn luyện và trưởng thành trong môi trường đó, trình độ văn hoá chung ít nhiều đã được nâng cao một cách đáng kể; sự giác ngộ mục tiêu đấu tranh ít nhiều đã dựa trên lý trí khoa học… Từ đó, tạo ra cái “phông” để tiếp nhận, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách có hiệu quả, ít phạm phải nguy cơ ảo tưởng – không tưởng, nôn nóng chủ quan muốn nhanh chóng đi tới đích bằng những cuộc tấn công trực diện vào chủ nghĩa tư bản. Đối với nước ta, hoàn cảnh kinh tế – xã hội khi tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và cả trong một quá trình dài vận dụng lý luận đó trong thời gian tiếp theo hoàn toàn chưa phải như vậy. Kinh tế sản xuất nhỏ là phổ biến; giai cấp công nhân yếu cả về chất lẫn về lượng; ảnh hưởng tư tưởng thực dân, phong kiến còn khá nặng nề… Điều kiện kinh tế – xã hội đó tạo thành khó khăn nhất định trong việc chúng ta tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng vào việc phân tích tình hình xã hội và lựa chọn con đường cho sự phát triển đất nước. Khi nói về khó khăn này, V.I.Lênin viết: “Chủ nghĩa Mác được giai cấp công nhân và những nhà tư tưởng của giai cấp đó lĩnh hội một cách dễ dàng nhất, nhanh chóng nhất, đầy đủ nhất và chắc chắn nhất trong điều kiện nền đại công nghiệp được phát triển tới mức cao nhất. Những quan hệ kinh tế lạc hậu hay chậm phát triển thường xuyên dẫn tới chỗ là, trong phong trào công nhân, xuất hiện những phần tử chỉ lĩnh hội được một số khía cạnh của chủ nghĩa Mác, một số bộ phận riêng biệt của thế giới quan mới, hoặc một số khẩu hiệu và yêu sách riêng biệt, mà lại không thể đoạn tuyệt dứt khoát với tất cả những truyền thống của thế giới quan tư sản nói chung và của thế giới quan dân chủ – tư sản nói riêng”(1). Đó là khó khăn về mặt nhận thức. Còn khó khăn về mặt tiền đề hiện thực cho quá trình cách mạng đó, V.I.Lênin cũng chỉ ra: “Chúng ta không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội được nếu không có di sản của nền văn hoá tư bản. Chúng ta không có gì khác để xây dựng chủ nghĩa xã hội ngoài
  4. những cái mà chủ nghĩa tư bản để lại cho chúng ta”. Trong hoàn cảnh thiếu tiền đề như vậy, người cộng sản chỉ có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nhờ biết vận dụng thành quả của chủ nghĩa tư bản, biết sử dụng chuyên gia tư sản. “Bây giờ chúng ta phải xây dựng trong thực tiễn, - V.I.Lênin viết, - và chúng ta phải thiết lập xã hội cộng sản với bàn tay của kẻ thù của chúng ta. Điều này có vẻ như là một mâu thuẫn thậm chí có thể là một mâu thuẫn không giải quyết được, nhưng thực ra, chỉ có bằng cách đó mới có thể giải quyết được vấn đề xây dựng chủ nghĩa cộng sản”(2). Với tinh thần đó, V.I.Lênin nhấn mạnh: chúng ta phải biết dùng ngay bàn tay giai cấp tư sản, bắt nó cày trên miếng đất mà trên đó, chủ nghĩa tư bản không thể nảy sinh và tồn tại được. Sự yếu kém của cơ sở kinh tế – xã hội dễ dẫn đến sự phiêu lưu mạo hiểm trong những quyết sách lớn, nhưng lại dễ do dự, chần chừ trước những việc làm dường như là nhỏ nhặt nhưng hết sức thiết thực cho nhân dân. Đề cập tới căn bệnh đó, V.I.Lênin viết: “Trong toàn bộ lĩnh vực những quan hệ xã hội, kinh tế và chính trị, chúng ta đều tỏ ra là cách mạng “ghê gớm”. Nhưng về mặt cấp bậc, về mặt tôn trọng những hình thức và những thể lệ về thủ tục hành chính thì “tính cách mạng” của chúng ta lại thường hay nhường chỗ cho tinh thần thủ cựu hủ bại nhất. Người ta có thể nhận thấy ở đây một hiện tượng đáng chú ý là trong đời sống xã hội, bước nhảy vọt phi thường kèm theo một sự rụt rè ghê gớm trước những thay đổi nhỏ nhặt nhất”(3). Những khó khăn và mâu thuẫn nói trên cũng in đậm dấu ấn của chúng vào bức tranh mâu thuẫn của quá trình nhận thức và vận dụng triết học Mác - Lênin về con đường và động lực đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. 1- Mâu thuẫn của quá trình nhận thức và vận dụng triết học Mác - Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội Ở Việt Nam, sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước đã hoàn toàn thống nhất. Bên cạnh một số thành tựu giành được trong giai đoạn đầu xây dựng lại đất nước, chúng ta có tư tưởng say sưa với thắng lợi, chủ quan, nóng vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn. Đất nước lại bị các thế lực thù địch bao vây, cấm vận; chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc xảy ra,... Những khuyết điểm của mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp cũng bộc lộ ngày
  5. càng gay gắt. Chúng ta đứng trước những khó khăn, thách thức mới, đất nước dần dần lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng(4). Đưa đất nước thoát khỏi tình trạng đó là vấn đề sống còn của cách mạng nước ta. Muốn vậy, trước hết phải thay đổi mạnh mẽ, cơ bản cách nghĩ, cách làm. Theo tinh thần đó, Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (tháng 8 - 1979), đã chủ trương và quyết tâm làm cho sản xuất “bung ra”. Nhu cầu bức xúc đó gặp phải lực cản hết sức to lớn từ phong cách tư duy, nề nếp làm ăn cũ vốn ăn sâu bám rễ trong không ít cán bộ, đảng viên và nhân dân suốt 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội với mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Do sự bao cấp về tư duy, đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân quen sống “vô lo vô nghĩ”, tất cả mọi cái đã được một bộ phận cao nhất của xã hội lo thay, chỉ việc nói theo, làm theo… Điều này khiến người ta lo lắng khi phải tự tìm lối thóat cho bản thân mình. “Mỗi người hãy tự cứu mình trước khi kêu trời cứu” – một tư tưởng rất đúng khi đó đã được đưa ra, nhưng không phải mọi người đều cảm nhận và có năng lực làm được. Từ chỗ quen với nếp sống coi giải quyết công ăn việc làm là trách nhiệm của Đảng, của Nhà nước chuyển sang cách nghĩ, cách làm mới: mỗi người phải tự tạo việc làm cho mình - đó là một bước chuyển không hề đơn giản. Cho đến nay, nghĩa là sau hơn 20 năm đổi mới, trong xã hội ta không phải là không còn một số người vẫn nghĩ và nói như vậy. Đương nhiên, phê phán tư tưởng ỷ lại đó không phải để rồi loại bỏ hoàn toàn trách nhiệm tạo công ăn việc làm cho nhân dân của Đảng và Nhà nước. Nhưng trong vấn đề này, trách nhiệm của Đảng và Nhà nước không còn như cũ (công dân đến tuổi lao động là nhà nước phải xếp công việc cho họ), mà chủ yếu là tạo cơ chế, chính sách, đòn bẩy… để người dân tự tạo việc làm cho mình. Một đột phá trong cơ chế, chính sách như vậy trong những năm đầu đổi mới là sự ra đời của cơ chế khoán trong nông nghiệp. Những tìm tòi, sáng tạo của Đảng được thể hiện ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá IV và các nghị quyết tiếp theo đã đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới sau này. Tuy nhiên, những tìm tòi đổi mới ban đầu diễn ra còn rất khó khăn, phức tạp. Trước những khó khăn về kinh tế và đời sống, có khuynh hướng muốn quay lại với quan niệm và cách làm cũ. Hội nghị Trung ương 5 khoá V (tháng 12 - 1983) coi sự chậm chạp trong cải tạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên nhân của tình trạng khó khăn về kinh tế - xã hội, và chủ trương để ổn định tình hình, phải đẩy
  6. mạnh hơn nữa việc cải tạo xã hội chủ nghĩa; Nhà nước phải nắm hàng, nắm tiền, xoá bỏ thị trường tự do về lương thực và các nông hải sản quan trọng; thống nhất quản lý giá; bảo đảm cung cấp đủ 9 mặt hàng theo đúng định lượng cho người ăn lương; lập cửa hàng cung cấp,...Trong hợp tác xã nông nghiệp thì quản lý, điều hành chặt chẽ tất cả các khâu theo kế hoạch. Hội nghị Trung ương 6 khoá V (tháng 7 - 1984) vẫn chủ trương “đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa”, đẩy mạnh thu mua nắm nguồn hàng, cải tạo thị trường tự do,... Điều đó cho thấy, sự đổi mới tư duy là không đơn giản; quan niệm cũ về cải tạo xã hội chủ nghĩa còn ăn sâu bám rễ trong nhiều người. Trên thực tế, khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày một nghiêm trọng; đời sống nhân dân, nhất là người làm công ăn lương, ngày càng khó khăn. Qua đó cho thấy, đổi mới là quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn, sự tiến lên kèm theo với những thụt lùi. Con đường không thẳng tắp. Đại hội VI đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước - từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức bộ máy; từ đổi mới phương pháp lãnh đạo đến phong cách hoạt động; từ đổi mới kinh tế đến đổi mới hệ thống chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Trong khi chủ trương đổi mới toàn diện như vậy, Đại hội cũng xem đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá. Điều đó chứng tỏ có mâu thuẫn gay gắt giữa yêu cầu thực tiễn đổi mới với sự lạc hậu trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội. Đại hội VII (năm 1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thành tựu phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta đạt được sau 5 năm đổi mới được biểu hiện tập trung nhất trong văn kiện quan trọng này. Bước tiến đó biểu hiện ở hai nội dung cơ bản: 1/ Quan niệm tổng quát nhất về xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta cần xây dựng; 2/ Những phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ mới. Để sự lãnh đạo của Đảng thực sự là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của quá trình đổi mới, Đảng phải kiên trì và phát triển nền tảng tư tưởng, lý luận cách mạng và khoa học. Nền tảng tư tưởng, lý luận đó là gì? Nhiều năm trước đó, chúng ta luôn khẳng định đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Song, cơ sở nảy sinh chủ nghĩa Mác – Lênin là thực tiễn phương Tây. Mà phương Tây thì chưa phải là toàn bộ thế giới và do vậy, chúng ta phải mang lại cơ sở phương Đông cho chủ nghĩa
  7. Mác (Hồ Chí Minh). Xuất phát từ quan điểm phương pháp luận đó, dựa trên thành quả nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh của Đảng khẳng định vị trí và vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn bộ quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”. Trong nhiều năm trước đây, các học giả mácxít, nhất là các học giả mácxít ở các nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, thường có nhận thức không đúng về kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, coi chúng là những cái vốn có chỉ của chủ nghĩa tư bản, phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản; đồng thời phê phán, lên án bất kỳ ai có ý định nêu lên tư tưởng chủ nghĩa xã hội cũng phải phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền, cho đó là rơi vào âm mưu của giai cấp tư sản. Bước vào giai đoạn đổi mới, Đại hội VII (1991) của Đảng khẳng định đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp theo, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1 - 1994), lần đầu tiên Đảng khẳng định phải xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cùng với sự khẳng định chủ nghĩa xã hội cần phải phát triển kinh tế thị trường, đây cũng là một điển hình của mâu thuẫn giữa tư duy cũ và tư duy mới về chủ nghĩa xã hội… Nhận thức về quan hệ đối ngoại cũng vượt qua một mâu thuẫn cực kỳ quan trọng: từ chỗ nhấn mạnh quá mức “hai phe, 4 mâu thuẫn”, coi thế giới tư bản chủ nghĩa cơ bản là thế giới thù địch, chúng ta đã nêu lên một tư tưởng đối ngoại hết sức quan trọng, mang tầm chiến lược: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Đường lối này đã được cụ thể hoá trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá IX với cách nhìn nhận mới và thống nhất về các vấn đề đối tác và đối tượng. Đây là một cách nhìn biện chứng, định hướng cho chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn mới. Đại hội X có một cống hiến quan trọng vào việc giải quyết mâu thuẫn giữa lý tưởng căn bản, lâu dài của Đảng với nhiệm vụ cụ thể của từng thời kỳ, đó là chủ trương cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân (bao gồm cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) với
  8. một số quy định do Ban Chấp hành Trung ương đưa ra. Như vậy, có thể thấy rằng, chính là nhờ quá trình phát hiện và giải quyết mâu thuẫn trong nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày một rõ hơn. Khẳng định điều đó không có nghĩa là những mâu thuẫn trong quá trình nhận thức của chúng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được giải quyết hết. Trái lại, công cuộc đổi mới càng được triển khai sâu rộng bao nhiêu thì những vấn đề mới nảy sinh cần giải quyết ngày càng nhiều bấy nhiêu. Chẳng hạn, cho đến nay, khi nhu cầu hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được đặt ra rất cấp thiết, thì chúng ta vẫn chưa hình thành được một khung lý luận về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên nhiều khi chưa tôn trọng đầy đủ và nhất quán những nguyên tắc của nền kinh tế thị trường trong xây dựng, vận hành và xử lý các vấn đề của nền kinh tế. Chúng ta cũng chưa xác định rõ và tạo được sự nhất trí cao về những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là về tính định hướng xã hội chủ nghĩa, nên còn lúng túng, không biết thế nào là đúng hướng, thế nào là chệch hướng. Mặt khác, chúng ta cũng chưa nhận thức rõ về vị trí, vai trò và mối quan hệ giữa các nhân tố cấu thành chủ yếu của nền kinh tế thị trường, như Nhà nước, thị trường và doanh nghiệp… cho nên chưa phát huy tốt tác dụng của các nhân tố đó. Hiện có không ít ý kiến cho rằng, không nên phân định các thành phần kinh tế, vì sự phân định đó sẽ dẫn đến thái độ phân biệt đối xử. Nhưng nhiều ý kiến khác lại nhấn mạnh việc phân định các thành phần kinh tế là cần thiết, vì đó là thực tế khách quan, giúp nhận rõ xu hướng vận động và phát triển của nền kinh tế để có chính sách phát triển và quản lý phù hợp. Cũng chưa có sự thống nhất trong nhận thức về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Có ý kiến cho rằng, xác định như vậy sẽ tạo ra tình trạng không bình đẳng và cạnh tranh không lành mạnh giữa các thành phần kinh tế; có ý kiến đề nghị không nên đặt vấn đề có một thành phần kinh tế nào đóng vai trò chủ đạo. Lại có ý kiến cho rằng, Nhà nước đóng vai trò chủ đạo chứ không phải kinh tế nhà nước; rằng, Nhà nước là lực lượng định hướng, dẫn dắt và quản lý sự phát triển. Về mặt đường lối, Đảng đã xác định mục tiêu đến năm 2020, nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nhưng hiện vẫn chưa làm rõ các tiêu
  9. chí cụ thể để làm đích hướng tới. Nói chung, các bước đi của cả quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá chưa được làm rõ, chậm cụ thể hoá mô hình, dẫn đến còn nhiều lúng túng trong thực hiện. Nhận thức thế nào là nền kinh tế độc lập tự chủ và sự tuỳ thuộc giữa các nền kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau. Cho đến nay, cũng chưa có một quan niệm thống nhất về công bằng và bình đẳng, về sự phân hoá giầu nghèo ở nước ta. Có ý kiến cho rằng, xu hướng phân hóa giàu nghèo, phân hóa phát triển đang gia tăng như hiện nay là không phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa, do đó, không thể chấp nhận được. Ý kiến khác cho rằng, thoát khỏi tụt hậu mới chính là nhiệm vụ hàng đầu, mang tính sống còn của dân tộc ta, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, do vậy, cần ưu tiên hơn cho mục tiêu tăng trưởng, cần chấp nhận phân hóa giàu nghèo ở một mức độ nhất định và trên cơ sở tăng trưởng cao để giải quyết tốt hơn vấn đề công bằng xã hội. Còn có sự thiếu thống nhất trong nhận thức về hội nhập văn hoá và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Không ít vấn đề lý luận về Đảng cầm quyền trong điều kiện kinh tế thị trường, dân chủ hoá và mở cửa chưa được làm sáng tỏ… 2- Mâu thuẫn của quá trình nhận thức và vận dụng triết học Mác - Lênin về động lực đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội Động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là một hệ thống: kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể và toàn dân; thi đua xã hội chủ nghĩa; đấu tranh giai cấp; hội nhập kinh tế quốc tế; đại đoàn kết toàn dân tộc; dân chủ xã hội chủ nghĩa… Trong phạm vi bài viết này, tôi xin chỉ trình bày một số mâu thuẫn liên quan tới động lực đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. - Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là động lực chủ yếu bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để phát huy được động lực này, chúng ta đang phải giải quyết một loạt mâu thuẫn: + Mâu thuẫn giữa yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá với tình trạng thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, chậm chuyển đổi lao động, ngành nghề ở nông thôn, sự thâm nhập của văn hoá đô thị với truyền thống văn hoá nông nghiệp – nông thôn tồn tại hàng ngàn năm với những mặt tích cực và tiêu cực của nó… Do chưa giải quyết tốt
  10. mâu thuân này, tình trạng nông dân không biết sử dụng có hiệu quả tiền đền bù đất canh tác bị thu hồi dẫn đến “hai bàn tay trắng” đang gây nhiều vấn đề xã hội bức xúc; tình trạng thiếu ổn định về kinh tế – xã hội ở nông thôn có xu hướng gia tăng; nhiều chuẩn mực văn hóa cũ – trong đó có những yếu tố tích cực - đang bị đảo lộn, mai một dần, trong khi những chuẩn mực văn hoá mới đáp ứng đúng nhu cầu đổi mới ở nông thôn chưa được xác lập; tệ nạn xã hội thâm nhập và phát triển trên cơ sở kinh tế nông nghiệp, tâm lý nông dân càng trở nên bức xúc. + Mâu thuẫn giữa việc bảo đảm khối đoàn kết thống nhất trên nền tảng một hệ tư tưởng, một quan hệ lợi ích chung… với tình trạng phân hoá của cơ cấu giai cấp – xã hội đang diễn ra hết sức phức tạp. Xét về cơ cấu giai cấp, giai cấp công nhân Việt Nam ở thời kỳ trước đổi mới mang tính thống nhất và thuần nhất, chỉ bao gồm công nhân quốc doanh và công nhân tập thể. Ngày nay, sự đa dạng hoá thành phần kinh tế đã kéo theo sự đa dạng hoá cơ cấu của giai cấp này. Xét về phương diện kinh tế - chính trị, giai cấp công nhân hiện bao gồm: công nhân quốc doanh, công nhân tập thể, công nhân làm việc trong các doanh nghiệp cá thể – tiểu chủ, công nhân trong doanh nghiệp tư nhân (được hiểu như là tư bản tư nhân), công nhân làm việc trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, công nhân xuất khẩu lao động… Xét về cơ cấu kinh tế – kỹ thuật, giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay bao gồm: công nhân lao động giản đơn; công nhân kỹ thuật; kỹ thuật viên, kỹ sư thực hành; công nhân tri thức (lao động của họ vừa nhằm tạo ra các tri thức mới, vừa vận dụng tri thức mới đó vào sản xuất vật chất); công nhân dịch vụ thực hiện chức năng của mình bằng những quy trình, công nghệ hiện đại;… Xét về nguồn gốc xuất thân, số công nhân sinh ra trong gia đình có truyền thống vài đời là công nhân chiếm tỷ trọng nhỏ; phần lớn trong số họ cách đây không lâu còn là nông dân. Sự khác biệt về nơi làm việc, về truyền thống gia đình, về trình độ tay nghề và - cùng với nó - là sự khác nhau về thu nhập… dẫn tới sự khác nhau không chỉ về nhu cầu, lợi ích cụ thể, mà cả một số vấn đề liên quan tới mục tiêu, lý tưởng sống của cá nhân công nhân cũng như của tổ chức công đoàn – những nhân tố có vai trò quan trọng bảo đảm sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức của phong trào công nhân.
  11. Đội ngũ trí thức của đất nước cũng đang trải qua một thời kỳ biến động phức tạp. Sự đa dạng về nguồn gia nhập đội ngũ trí thức, về nguồn đào tạo, về ngành nghề và nơi làm việc… ngày một gia tăng. Điều đó, về cơ bản, tạo ra sức mạnh của đội ngũ trí thức trong thời kỳ đổi mới. Mặt khác, trình độ phát triển còn thấp về kinh tế, khả năng trang bị cho nghiên cứu khoa học cũng như điều kiện ứng dụng kết quả nghiên cứu còn nhiều hạn chế đã ảnh hưởng không nhỏ tới động lực làm việc của trí thức. Bên cạnh đó, cũng cần thấy rằng, đặc trưng hoạt động của trí thức là sáng tạo. Môi trường thuận lợi nhất cho hoạt động đó là dân chủ. Dân chủ cần cho sáng tạo như không khí cần cho cơ thể sống vậy. Trong khi đó, tình trạng quan liêu – cái đối lập với dân chủ – ở nước ta còn tồn tại khá nặng nề. Liên quan tới hoạt động sáng tạo của trí thức, chúng ta đã trải qua hơn 10 năm soạn thảo với hàng chục bản sơ thảo khác nhau để đưa ra Quy chế dân chủ trong công tác tư tưởng – lý luận, nhưng đến nay vẫn chưa ban hành được. Sự thiếu vắng của văn bản pháp lý này đã và đang là một cản trở đối với hoạt động của trí thức. Các giai cấp, tầng lớp xã hội khác cũng có những điểm tương tự. Đại đoàn kết toàn dân tộc chỉ được củng cố và phát huy như một động lực mạnh mẽ nhất khi các nhân tố cấu thành cộng đồng dân tộc ý thức rõ lợi ích chung của đất nước, lấy đó làm điểm tương đồng, mọi người đều nỗ lực thực hiện lợi ích chung đó. Ở nước ta hiện nay, giữ vững độc lập, thống nhất Tổ quốc, vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” chính là điểm tương đồng như vậy. Đó là nói về điểm tương đồng trong tính tổng quát, ở tầm vĩ mô. Còn đi vào cụ thể, như đã trình bày trên đây, sự tương đồng đó lại đang được thể hiện và thực hiện thông qua những mục tiêu, lợi ích cụ thể hết sức đa dạng, hết sức khác nhau. Sự kết hợp hài hoà các mặt đối lập đó đang là một nhu cầu bức xúc ở nước ta hiện nay. - Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh dân chủ hoá đời sống xã hội là động lực của công cuộc đổi mới. Để phát huy được động lực này, chúng ta đang phải giải quyết không ít mâu thuẫn có liên quan. Một trong số đó là kinh tế nhiều thành phần nhưng thể chế chính trị lại nhất nguyên: ở nước ta, chỉ một đảng duy nhất cầm quyền – Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó hình thành nền “dân chủ nhất nguyên”. Dân chủ trong điều kiện một Đảng Cộng sản duy nhất cầm quyền có nhiều thuận lợi cơ bản, song cũng có nhiều thách thức cam go.
  12. Như chúng ta đã biết, quyền lực bao giờ cũng có hai mặt: một mặt, quyền lực là sức mạnh to lớn để Đảng sử dụng nhằm đưa cả dân tộc vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước; mặt khác, quyền lực lại có thể làm hư hỏng nhiều con người, thậm chí cả một đảng nắm quyền lực. Cũng như V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đã chỉ ra từ rất sớm nhiều biểu hiện hư hỏng đó: tham quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực, tranh giành quyền lực, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân… làm cho dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ còn là hình thức. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa và sự tan rã của các Đảng Cộng sản cầm quyền ở Liên Xô và Đông Âu gần cuối thế kỷ trước cũng có nguyên nhân sâu xa từ đó. Trong bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định Đảng phải tiếp tục đổi mới, đất nước phải tiếp tục đổi mới, nhưng cần đổi mới có nguyên tắc; phải tiếp tục hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với những nguyên tắc đúng đắn, những hình thức, biện pháp, bước đi thích hợp. Khẳng định điều đó không có nghĩa đến nay chúng ta đã giải quyết được mọi khó khăn, mâu thuẫn của quá trình dân chủ hoá ở nước ta đang đặt ra – cả từ phương diện lý luận lẫn chính sách thực tiễn. - Về nhận thức: Nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn nhiều hạn chế. Không ít người đồng nhất tình trạng dân chủ hiện nay với dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta mới đang đi những bước đầu trên con đường tạo lập nó. Một số khác lại có ảo tưởng muốn đạt ngay một trình độ phát triển cao của dân chủ khi nhiều tiền đề khách quan và chủ quan chưa chín muồi. Do không hiểu thực chất dân chủ trong chủ nghĩa tư bản, một bộ phận trong cán bộ, đảng viên và nhân dân ngộ nhận dân chủ đó như là giá trị tuyệt đỉnh mà chủ nghĩa xã hội cũng phải khuôn theo. Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, dân chủ và pháp luật còn xuất hiện ở không ít người. - Trong thực tiễn: Việc đổi mới nền hành chính quốc gia còn rất hạn chế. Bộ máy hành chính còn nhiều tầng nấc làm cho việc quản lý các quá trình kinh tế - xã hội chưa thật nhanh, nhạy và có hiệu quả. Tình trạng quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu của một bộ phận công chức nhà nước chưa được khắc phục; kỷ cương, phép nước bị xem thường ở nhiều nơi. Phương thức tổ chức, phong cách hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể vẫn
  13. chưa thoát khỏi tình trạng hành chính, xơ cứng. Nạn tham nhũng trong hệ thống chính trị còn trầm trọng. Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi còn bị vi phạm. Những hạn chế trên đây có nguyên nhân khách quan và chủ quan của chúng. Về khách quan: Dân chủ với tư cách một vấn đề chính trị do trình độ kinh tế quy định. Trình độ thấp kém của kinh tế hiện nay ở Việt Nam chưa thể là mảnh đất tốt cho sự phát triển của dân chủ trong xã hội. Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa xã hội cũng có nghĩa là bỏ qua dân chủ tư sản, nhân dân chưa có ý thức và năng lực thực hành dân chủ, chưa có một nền văn hoá dân chủ ở mức cần thiết, chưa có thói quen tuân thủ pháp luật nên dễ rơi vào cực đoan này hay cực đoan kia. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân mới đang từng bước được xây dựng; hệ chuẩn pháp luật còn thiếu và chưa đồng bộ, thiếu nhất quán. Mặt bằng dân trí, trình độ học vấn chung còn có sự bất cập. Thêm vào đó, còn phải kể tới tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Về chủ quan: Nhận thức về dân chủ trong điều kiện một Đảng Cộng sản duy nhất cầm quyền, đang từng bước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế… còn có những điểm chưa rõ. Trong khi đó, vấn đề này lại chưa được tập trung chỉ đạo nghiên cứu. Các cấp uỷ Đảng chưa tập trung thảo luận, quyết định, có giải pháp đồng bộ, triệt để nhằm thống nhất về quan điểm, chủ trương, giải pháp đổi mới hệ thống chính trị, tìm tòi những hình thức thực hiện dân chủ đa dạng. Việc nghiên cứu vấn đề dân chủ và hệ thống chính trị trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, để từ đó rút ra những điều có thể tham khảo cho việc đổi mới hệ thống chính trị, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam còn chưa đạt yêu cầu cao. Nhiều cấp bộ Đảng chưa thực sự trở thành biểu tượng về dân chủ trong xã hội. Thực tiễn đã khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của công cuộc đổi mới nói chung, phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất
  14. cầm quyền nói riêng. Nhưng để có một xã hội thực sự dân chủ, Đảng phải từng bước vươn lên thành biểu tượng về dân chủ. Để dân chủ hoá Đảng, cần chú ý 3 điểm: - Dân chủ hoá, đổi mới mạnh mẽ quá trình hoạch định các quyết sách chính trị của Đảng. Muốn vậy, cần tổ chức hệ thống hỏi ý kiến nhân dântheo định kỳ và đột xuất đối với mọi cán bộ lãnh đạo và tổ chức đảng. Để việc hỏi ý kiến có chất lượng, cần tạo mọi điều kiện để dân biết đường lối, chủ trương, chính sách và trách nhiệm của cơ quan, cá nhân, cán bộ phụ trách thực hiện, kết quả thực hiện một nhiệm vụ nào đó đã được giao. - Xây dựng và vận hành hệ thống phản biện của Mặt trận, đoàn thể và nhân dân nói chung đối với đường lối, chính sách của Đảng. - Dân chủ hoá hoạt động của Đại hội Đảng, dân chủ hoá trong sinh hoạt của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị là trọng điểm. Trên cơ sở đó, xây dựng dân chủ trong sinh hoạt của cấp uỷ Đảng các cấp còn lại,… Để Đảng thực sự là tấm gương về dân chủ, còn cần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của bản thân Đảng, trước hết là hoạt động xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Dân chủ hoá là giải pháp quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả hoạt động của Đảng trên lĩnh vực này. Trong công tác tư tưởng, chính trị: không áp đặt; khi có ý kiến khác nhau, tôn trọng ý kiến đa số nhưng có cơ chế bảo lưu ý kiến của thiểu số, tôn trọng ý kiến cấp trên nhưng cũng có cơ chế bảo lưu ý kiến cấp dưới; định rõ thời hạn xem xét, kết luận các ý kiến thiểu số đó./. (*) Giáo sư, tiến sĩ, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. (1) V.I.Lênin. Toàn tập, t.20. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.77. (2) V.I.Lênin. Sđd., t.38, tr.170. (3) V.I.Lênin. Sđd., t.45, tr.454. (4) Mặc dù đến Đại hội VII (tháng 6 năm 1991), Đảng ta mới chính thức sử dụng khái niệm "khủng hoảng kinh tế - xã hội" (Văn kiện Đại hội VII, tr. 59).
  15. CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA NGUYỄN DUY QUÝ (*) Phân tích vấn đề thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay trên cơ sở làm rõ sự khác nhau giữa công bằng xã hội và bình đẳng xã hội, mối quan hệ gắn bó giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội, thực trạng thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam trước và trong những năm đổi mới, tác giả đã đi đến kết luận: chỉ có trên cơ sở dựa vào công bằng xã hội để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển, chúng ta mới vừa bảo đảm được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, vừa thực hiện được định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường. Trong các giai đoạn khác nhau của lịch sử nhân loại, vấn đề công bằng xã hội luôn được xã hội quan tâm cả ở phương Tây cũng như ở phương Đông với những kiến giải khác nhau. Nhà xã hội học Pháp - E.Durkheim quan niệm rằng, các xã hội hiện đại chỉ có thể ổn định một khi tôn trọng công bằng xã hội. Còn nhà xã hội học Mỹ - John Rawls thì lại cho rằng, những bất công về kinh tế và xã hội phải được tổ chức sao cho mọi người có thể chấp nhận được và bản thân chúng cũng phải được xem xét trên cơ sở tính đến vị trí và chức năng của mỗi người. Với quan niệm này, ông đã đưa ra nguyên tắc “tối đa hóa cái tối thiểu” cho những người bị thiệt thòi, yếu thế trong xã hội và xem đó như lý tưởng của xã hội công bằng, là con đường tiến lên xã hội công bằng đó bằng đạo đức. Vấn đề đặt ra là, khi bàn về công bằng xã hội thì vấn đề cốt lõi là phải tìm ra được và giải quyết được sự cân bằng giữa công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế. Tại Đại hội lần thứ VIII (1996), Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển”(1).
  16. Tăng tưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định và thường được đo bằng một số đại lượng, trong đó GDP (tổng sản phẩm quốc nội) và GNP (tổng sản phẩm quốc dân) là những thước đo thường được sử dụng nhất. Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về lượng (quy mô sản lượng) của một nền kinh tế nào đó, tính trong thời gian nhất định. Vì vậy, bản thân khái niệm này thường làm nảy sinh câu hỏi: liệu việc tăng lên về lượng có thể dẫn đến sự thay đổi về chất hay không? Có thể nói ngay rằng, tăng trưởng kinh tế, mặc dù là một tiêu chí quan trọng của tiến bộ xã hội, nhưng bản thân nó là sự thể hiện không đầy đủ của tiến bộ xã hội, bởi theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học, tiến bộ xã hội là quá trình phát triển của xã hội loài người từ thấp lên cao, từ một hình thái kinh tế – xã hội này đến một hình thái kinh tế – xã hội khác cao hơn. Vì vậy, tiến bộ xã hội không chỉ thể hiện trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà cả trong sự phát triển của quan hệ sản xuất; không chỉ trong sự phát triển của cơ sở hạ tầng, mà cả trong sự phát triển của kiến trúc thượng tầng; không chỉ trong sự phát triển của tồn tại xã hội, mà cả trong sự phát triển của ý thức xã hội; không chỉ trong việc nâng cao mức sống của con người, làm cho con người thoát khỏi mọi áp bức bóc lột, bất công, mà còn được phát triển toàn diện và tự mình làm chủ cuộc sống của mình. Tăng trưởng kinh tế, đương nhiên, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, liên quan đến sự thịnh suy của một quốc gia. Vì vậy, chính phủ nước nào cũng ưu tiên các nguồn lực của mình cho tăng trưởng kinh tế, coi đó là cái gốc, là nền tảng để giải quyết mọi vấn đề khác. Trên cơ sở giải quyết được vấn đề tăng trưởng kinh tế, nghĩa là tạo ra được nhiều của cải vật chất, người ta mới có thể giải quyết hàng loạt vấn đề khác, đặc biệt là các vấn đề xã hội, như nâng cao mức sống của người dân, tăng cường phúc lợi xã hội, giảm bớt tình trạng thất nghiệp, đảm bảo cho mọi người có công ăn việc làm ổn định, v.v.. Tuy nhiên, đứng từ góc độ tiến bộ xã hội mà xét thì không phải lúc nào tăng trưởng kinh tế cũng đồng hành hay là dẫn đến tiến bộ xã hội. Thậm chí có nơi, có lúc, tăng trưởng kinh tế còn đem đến thảm hoạ cho con người, nếu kết quả của tăng trưởng kinh tế được sử dụng cho những mục đích phi nhân đạo, không trong sáng. Một khi
  17. trong xã hội mà người ta chỉ duy nhất quan tâm đến tăng trưởng kinh tế và bằng mọi giá để thúc đẩy sự tăng trưởng ấy thì điều đó có thể sẽ chứa đựng một nguy cơ khó lường. Do vậy, chúng ta phải luôn kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội. Còn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội thì sao? Để tìm hiểu rõ vấn đề này, chúng tôi muốn lưu ý một điều là không được đồng nhất công bằng xã hội với bình đẳng xã hội. Thực ra, đây là hai khái niệm khác nhau. Nói tới bình đẳng xã hội là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người về một (hoặc một vài) phương diện xã hội nào đó, chẳng hạn về kinh tế, chính trị, văn hoá... Còn công bằng xã hội lại là một khái niệm mang tính lịch sử, bị quy định bởi hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Có thể nói, mỗi xã hội đều có chuẩn mực riêng của mình về công bằng xã hội, chuẩn mực đó do hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của xã hội đó quy định. Riêng trong chủ nghĩa xã hội, như C.Mác đã đề cập trong Phê phán cương lĩnh Gôta, công bằng xã hội được thể hiện trong nguyên tắc phân phối theo lao động. C.Mác chỉ ra rằng, trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sau khi đã khấu trừ đi những khoản cần thiết để duy trì sản xuất, tái sản xuất cũng như để duy trì đời sống của cộng đồng, toàn bộ số sản phẩm của xã hội còn lại sẽ được phân phối theo nguyên tắc: mỗi người sản xuất sẽ được nhận trở lại từ xã hội một số lượng sản phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lượng lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội, sau khi đã khấu trừ số lao động của anh ta trong các quỹ xã hội(2). Đây là một nguyên tắc phân phối rất công bằng, bởi ở đây, tất cả những người sản xuất đều có quyền ngang nhau đối với việc tham dự vào quỹ tiêu dùng của xã hội khi làm một công việc ngang nhau. Mặc dù vậy, C.Mác cũng đã chỉ rõ rằng, trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, sự phân phối công bằng đó chẳng những chưa loại trừ được, mà vẫn còn hàm chứa trong nó sự chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã hội, bởi “với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia, v.v.”(3). Đó vừa là ưu việt, vừa là thiếu sót của nguyên tắc phân phối theo lao động – một thiếu sót mà theo C.Mác, là không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa(4).
  18. Chính vì thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động nên, như C.Mác đã nhận xét ở trên, ngay cả trong chủ nghĩa xã hội, khi công bằng xã hội được thực hiện thì chúng ta vẫn chưa thể thực hiện được bình đẳng xã hội. Điều đó có nghĩa là, trong điều kiện hiện nay, khi Việt Nam chúng ta còn đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sự bình đẳng xã hội mới chỉ có thể thực hiện được trong một số lĩnh vực, còn sự bình đẳng xã hội hoàn toàn là điều chưa thể thực hiện được. Về công bằng xã hội thì sao? Theo chúng tôi, trong điều kiện hiện nay của đất nước ta, không những chúng ta hoàn toàn có thể, mà còn cần phải thực hiện cho được công bằng xã hội. Theo quan niệm về công bằng xã hội, như đã trình bày ở trên, thì không nhất thiết phải giàu có mới thực hiện công bằng xã hội. Hơn nữa, càng chưa giàu có, càng nghèo khó lại càng phải thực hiện công bằng, nếu muốn tạo ra bầu không khí hoà thuận, tin tưởng lẫn nhau, nếu muốn giữ gìn cho xã hội được ổn định. Sự phân phối công bằng đó cần được thể hiện như thế nào ở Việt Nam hiện nay? Trong thời kỳ trước đổi mới (trước năm 1986), Việt Nam đã thực hiện sự phân phối mà về thực chất, mang tính bình quân. Vì vậy, bước vào thời kỳ đầu đổi mới, Việt Nam nhấn mạnh đến nguyên tắc phân phối theo lao động. Đến năm 1991, tại Đại hội Đảng lần thứ VII, nguyên tắc phân phối đã được bổ sung thêm và xác định: phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh là chính. Tuy nhiên, xuất phát từ tình hình thực tế hơn 7 năm sau đổi mới, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (tháng 1 năm 1994), Đảng ta đã thống nhất nêu ra nguyên tắc phân phối mới mà theo đó, “phân phối theo lao động là chủ yếu, khuyến khích và đãi ngộ xứng đáng các tài năng; đồng thời phân phối theo nguồn vốn đóng góp vào sản xuất kinh doanh”. Nguyên tắc phân phối này đã được bổ sung, hoàn chỉnh hơn tại Đại hội IX của Đảng (2001). Theo đó, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội”(5). Đây là một nguyên tắc phân phối công bằng phù hợp với các điều kiện của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đổi mới của Việt Nam hơn 20 năm qua đã cho thấy, chính việc thực hiện các nguyên tắc phân phối ngày càng công bằng này đã có tác dụng lôi cuốn mọi người tham gia sản xuất, kinh doanh và đó là một trong những nguyên nhân quan
  19. trọng dẫn đến tăng trưởng kinh tế nhanh. Như trên đã trình bày, phân phối theo lao động là một nguồn gốc quan trọng tạo ra của cải cho xã hội. Trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trước nhu cầu bức bách phải thu hút vốn đầu tư để có điều kiện mở rộng sản xuất thì ngoài phân phối theo lao động, phân phối theo vốn và nguồn lực khác phải được coi là công bằng. Đây chính là quan niệm mới về sự thực hiện công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Nhưng, một khi kinh tế thị trường có sự tăng trưởng khá thì cũng là khi mặt tiêu cực của nó tác động tương đối mạnh đến các mặt của đời sống xã hội. Tăng trưởng kinh tế nhanh trong điều kiện cơ chế thị trường đã làm cho bảng giá trị của xã hội, trong một số trường hợp, biến động theo chiều hướng tiêu cực. Bất công xã hội có nguy cơ tăng lên. Những hành vi phản văn hoá, những biểu hiện của lối sống thực dụng theo chiều hướng quay lưng lại với những giá trị truyền thống... đã nảy sinh trong đời sống xã hội. Cùng với hiện tượng này, cũng đã xuất hiện mâu thuẫn giữa sự tăng trưởng kinh tế với phân phối các giá trị vật chất cũng như giá trị tinh thần do tăng trưởng kinh tế đem lại. Trong các vấn đề xã hội cần quan tâm thì công bằng xã hội là một trong những vấn đề đáng lưu tâm nhất. Kinh tế càng tăng trưởng thì vấn đề công bằng xã hội càng được đặt ra một cách bức xúc. Vì thế, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương đúng đắn và trên thực tế, đã và đang giải quyết những vấn đề nổi cộm một cách có hiệu quả. Rút kinh nghiệm từ những bài học đắt giá trong việc hoạch định chính sách phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam đã chủ trương coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội; không chờ tới khi kinh tế phát triển cao rồi mới thực hiện các chính sách về công bằng xã hội, mà ngay từ khi bắt đầu tiến hành đổi mới đã phải kết hợp nhiệm vụ kinh tế với các nhiệm vụ xã hội, giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới chính sách kinh tế với đổi mới chính sách xã hội, coi đó là một phương thức để thực hiện công bằng xã hội. Thực tiễn trên đã chứng tỏ rằng, khi có chính sách xã hội đúng đắn đi liền với chính sách tăng trưởng kinh tế thì có thể khắc phục được những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường mà không làm mất đi tính năng động và hiệu quả của bản thân cơ chế thị
  20. trường. Đó chính là nguyên nhân đã khiến cho cộng đồng quốc tế đánh giá cao kết quả của việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay. Báo cáo của Liên hợp quốc “Đưa các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đến với người dân” (11/2002) đã đánh giá rằng: “Kể từ 1990 đến nay, nhìn chung Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển của mình, một số kết quả nổi bật, trong bối cảnh mức thu nhập còn thấp của quốc gia. Việt Nam liên tục dẫn đầu các nước đang phát triển về thành tích xoá đói giảm nghèo, trên thực tế đã giảm một nửa tỷ lệ nghèo của quốc gia (từ trên 60% năm 1990 xuống còn khoảng 32% trong những năm gần đây), như vậy hoàn thành sớm so với kế hoạch toàn cầu là giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015. Trong thập kỷ qua, Việt Nam cũng đã tăng cường đáng kể khả năng tiếp cận với giáo dục tiểu học, nước sạch và vệ sinh môi trường cũng như đã giảm tỷ lệ bất an ninh lương thực, tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi, tỷ lệ tử vong ở các bà mẹ và tỷ lệ sinh. Kết quả là đã cải thiện đáng kể cuộc sống của người dân. Giờ đây, người dân Việt Nam có tuổi thọ dài hơn và sức khoẻ tốt hơn”(6). Giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội có mối tương tác khá đặc biệt. Tăng trưởng kinh tế đem lại những giá trị vật chất to lớn chính là điều kiện để thực hiện công bằng xã hội. Nếu không có những điều kiện kinh tế tối thiểu được đảm bảo thì tiến bộ và công bằng xã hội rất khó được thực hiện. Kinh tế càng phát triển, càng có điều kiện thuận lợi hơn để hoạch định và thực thi các chính sách về công bằng xã hội. Ngược lại, công bằng xã hội có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Nhờ khả năng có thể tạo ra một xã hội hoà hợp, lành mạnh và ổn định – một xã hội mà mỗi cố gắng, mỗi đóng góp đều được đánh giá một cách thoả đáng, công bằng xã hội có thể tạo ra một xã hội hài hoà giữa những lợi ích cá nhân và cộng đồng. Công bằng xã hội, trên thực tế, vừa là điều kiện quan trọng để tạo ra ổn định xã hội, vừa là một động lực để tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy, cần phải dựa vào công bằng xã hội để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời phải kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội. Có như thế mới vừa đảm bảo được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, vừa thực hiện được định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Để thấy rõ mối tương quan ấy, chúng ta cần nghiên cứu, xem xét những biến đổi
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2