intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận triết học: Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế

Chia sẻ: Đặng Vinh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:26

291
lượt xem
59
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chương 1 nguyên lý về mối quan hệ phổ biến trong phép biện chứng duy vật, chương 2 mối liên hệ giữa xây dựng nhà nước độc lập tự chủ với hội nhập quốc tế là những nội dung chính trong 2 chương của bài tiểu luận triết học "Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế". Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận triết học: Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC Tiểu luận triết học MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA ĐỘC LẬP TỰ CHỦ  VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ. Nhóm:  9   Lớp: Đêm 2  Khóa 24 thực hiện           Nhóm trưởng: Đặng Quang Vinh          Thành viên 1:  Lê Thị Kiều Oanh         Thành viên 2:  Nguyễn Xuân Xanh        Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa  1
  2. TP. Hồ Chí Minh, Tháng 1 năm 2015. MỤC LỤC I. TỔNG QUAN....................................................................................................i 1. Tổng quan và lý do chọn đề tài......................................................................i 2. Mục đích thực hiện đề tài...............................................................................ii 3. Nhiệm vụ đặt ra của đề tài............................................................................ii II. NỘI DUNG.......................................................................................................1 Chương 1: Nguyên lý về mối quan hệ phổ biến trong phép biện chứng  duy vật...................................................................................................................1 1.1. Các định nghĩa................................................................................................1 1.2. Tính tất yếu phải hội nhập quốc tế............................................................2 Chương 2: Mối liên hệ giữa xây dựng nhà nước độc lập tự chủ với hội  nhập quốc tế........................................................................................................3 2.1. Mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nhà nước độc lập tự chủ với hội   nhập quốc tế.........................................................................................................3    2.1.1. Kinh tế.......................................................................................................3    2.1.2. Chính trị.....................................................................................................4    2.1.3. Văn hóa......................................................................................................5 2.2. Vấn đề hội nhập quốc tế của Việt Nam....................................................6    2.2.1. Thành tựu..................................................................................................6 2
  3.    2.2.2. Hạn chế....................................................................................................8  2.3. Một số kiến nghị nhằm giữ vững độc lập tự chủ dân tộc và định hướng  xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập quốc tế..........................................9 III. KẾT LUẬN.....................................................................................................10 IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. [Phụ lục] 3
  4. I. TỐNG QUAN 1. Tổng quan và lý do chọn đề tài Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay đang trở thành một xu thế khách   quan và tất yếu của tất cả các nước trên thế  giới, không kể  các nước đang phát  triển hay phát triển, các nước giàu hay nghèo. Để có thể tranh thủ các nguồn lực  từ  bên ngoài đặc biệt là nguồn vốn, tiến bộ  khoa học công nghệ…đòi hỏi các   nước phải có sự  mở  cửa, giao lưu, buôn bán hợp tác với các nước trên thế  giới  mà đặc biệt là các nước tư  bản phát triển. Tuy vậy đi song song với việc hội   nhập quốc tế trên các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội…thì chúng   ta phải cần phải có sự  thống nhất nhận thức về  việc giữ  độc lập tự  chủ  trong   quá trình hội nhập. Đây là một mối lo ngại lớn với các nước trên thế  giới đặc  biệt là các nước đang phát triển. Mối lo này phần nào cũng có lý do chính đáng  bởi hầu hết các nước đang phát triển đều có xuất phát điểm từ  một nền kinh tế  nghèo nàn, lạc hậu, khoa học công nghệ  còn thấp kém, năng suất lao động còn   chưa cao, sức cạnh tranh về các loại hàng hóa trên thị trường thế giới thấp trong   khi đó các nước đi trước có lợi thế hơn hẳn về mọi mặt, việc mở rộng quan hệ  với các nước đó sẽ dẫn đến tình trạng các nước kém phát triển khó tránh khỏi bị  lệ  thuộc về  kinh tế  và từ  chỗ  bị  lệ  thuộc về  kinh tế  có thể  bị  sự  lệ  thuộc về  chính trị dẫn tới không giữ vững được chủ quyền. Hiện nay nước Việt Nam ta cũng đang tham gia vào các tổ chức, hiệp hội trên   thế giới. Nước ta cũng là một nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển hơn rất   nhiều so với các nước tư  bản trên thế  giới vì vậy chúng ta phải chủ  động tham  gia hội nhập quốc tế gắn liền với việc xây dựng một nhà nước với nền kinh tế  độc lập, tự chủ. Đảng và nhà nước ta đã xác định độc lập, tự  chủ kinh tế là nền   4
  5. tảng vật chất cơ  bản bảo đảm sự  bền vững của đất nước ta về  chính trị  cũng   như các vấn đề văn hóa, xã hội… Chính vì việc xây dựng một nhà nước với nền kinh tế độc lập tự chủ kết hợp   với hội nhập quốc tế  hiện nay đang là một vấn đề  nóng bỏng, cấp bách và cần  thiết đối với tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó có cả  nước ta. Vì vậy đề  tài này có một ý nghĩa thực tiễn vô cùng quan trọng không chỉ  với Việt Nam mà   còn với nhiều nước khác trên thế giới trong việc đề ra các đường lối, chính sách   trong quan hệ  giao lưu, buôn bán với nước ngoài. Chính vì những lý do trên mà   nhóm đã chọn đề  tài: “Mối quan hệ  biện chứng giữa độc lập, tự  chủ  và hội   nhập quốc tế” với hy vọng bài tiểu luận này góp một phần nhỏ vào công cuộc  xây dựng nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh. 2. Mục đích thực hiện đề tài Như các nhà lãnh đạo của chúng ta đã khẳng định:  “Việt Nam luôn muốn hòa   nhập thật tốt vào hội nhập thế giới, nhưng làm sao vừa hội nhập cho thật tốt lại   vừa đảm bảo được độc lập chủ quyền” . Trên thực tế đã có rất nhiều bài học cay   đắng của các nước đi trước, do hội nhập không đúng đã dẫn đến mất chủ quyền   và phụ thuộc vào bên ngoài. Chính vì vậy việc nghiên cứu đề tài này sẽ giúp cho   chúng ta hiểu rõ thêm về “Toàn cầu hóa”, đồng thời biết được những bước đi của  Việt Nam trong quá trình hội nhập. Ngoài ra, bài tiểu luận này cũng giúp chúng ta   hiểu thêm về  những thành tựu mà nước ta đã thực hiện được cũng như  những  bước đi sắp tới. 3. Nhiệm vụ đặt ra của đề tài + Làm rõ tất cả khái niệm, cơ sở lý thuyết có liên quan về mối quan hệ biện  chứng. 5
  6. + Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nhà nước độc lập tự chủ với  hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa… + Vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vào phân tích chủ trương, đường  lối của đảng về việc xây dựng nhà nước độc lập, tự chủ. + Đưa ra một số kiến nghị nhằm giữ vững độc lập tự chủ dân tộc và định hướng  xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập quốc tế. 6
  7. II. NỘI DUNG Chương 1: Nguyên lý về mối quan hệ phổ biến trong phép  biện chứng duy vật  1.1. Các định nghĩa Phép biện chứng là khoa học về  mối liên hệ  phổ  biến, nó chẳng qua là bộ  môn khoa học nghiên cứu những quy luật vận động phát triển của tự  nhiên, xã  hội và tư  duy. Như  vậy phép biện chứng đã thừa nhận sự  vật, hiện tượng của   thế  giới khách quan tồn tại theo mối quan hệ  phổ  biến, chúng vận động, phát  triển theo quy luật nhất định. Phép biện chứng có nhiệm vụ  phải chỉ  ra những  quy luật đó để  định hướng cho con người trong nhiệm vụ  thực tiễn. Phép biện   chứng có ba hình thức cơ bản trong quá trình phát triển của triết học đó là: Phép  biện chứng chất phác, phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng duy vật .  Phép duy vật biện chứng khẳng  định mọi sự  vật hiện tượng  đều tồn tại  trong mối liên hệ phổ  biến. Sự  vật là tiền đề, là điều kiện tồn tại và phát triển  của nhau. Chúng thường xuyên thâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau làm cho ranh giới   giữa các lớp sự  vật không phải là tuyệt đối mà bao giờ  cũng có lớp trung gian  chuyển tiếp. Tuy vậy mọi mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan,   là vốn có của mọi sự  vật, hiện tượng. Vấn đề  là con người phải hiểu biết các  mối liên hệ, vận dụng chúng vào hoạt động của mình giải quyết các mối liên hệ  phù hợp nhằm phục vụ nhu cầu lợi ích của xã hội và của bản thân. Mối liên hệ  không chỉ  mang tính khách quan mà còn mang tính phổ  biến. Tính phổ  biến của   mối liên hệ được thể  hiện  ở  chỗ: thứ  nhất bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng   liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài  mối liên hệ. Trong thời đại ngày nay không một quốc gia nào không có quan hệ,  liên hệ với quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì thế hiện nay   trên thế giới đã và đang xuất hiện xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt  của đời sống xã hội. Nhiều vấn đề  đã và đang trở  thành vấn đề  toàn cầu  như:   đói nghèo, bệnh tật .... Mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể tuỳ theo điều   kiện nhất định. Song, dù dưới những hình thức nào chúng cũng chỉ  là biểu hiện   của mối liên hệ  phổ  biến nhất, chung nhất. Nghiên cứu mối liên hệ  của các sự  7
  8. vật, hiện tượng trên thế  giới ta còn thấy rõ tính đa dạng, nhiều vẻ  của nó. Dựa   vào tính đa dạng đó có thể phân chia ra các mối liên hệ khác nhau theo từng cặp:   Mối liên hệ  bên trong và mối liên hệ  bên ngoài, mối liên hệ  chủ  yếu và thứ  yếu.... Song mỗi cặp mối liên hệ  có những đặc trưng riêng tuy theo từng điều  kiện, hoàn cảnh cụ thể các mối liên hệ tương ứng sẽ giữ vai trò quyết định. Con   người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp nhằm   đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình. Trong hoạt động thực tiễn   chúng ta phải có quan điểm toàn diện tránh quan điểm phiến diện, chỉ xét sự vật,  hiện tượng ở một mối liên hệ  đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính qui  luật của chúng. Cần phải phân biệt được đâu là những mối quan hệ bản chất tất   yếu của sự vật, đâu là những mối quan hệ khác để từ đó có kết luận đúng về sự  vật. Trong thực tế, theo quan điểm toàn diện khi tác động vào sự  vật chúng ta  không những phải chú ý đến những mối liên hệ  nội tại của chúng mà còn phải   lưu ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với sự vật khác và sự chuyển hoá lẫn   nhau giữa chúng trong từng điều kiện. Đồng thời chúng ta phải biết sử  dụng   đồng bộ  các biện pháp, các phương tiện khác nhau để  tác động nhằm đem lại   hiệu quả cao nhất. Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận quan điểm  toàn diện góp phần định hướng chỉ đạo hoạt động nhận thức và thực tiễn cải tạo   hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Thực hiện đúng quan điểm đó chính là  chúng ta đã nắm được và vận dụng tốt phương pháp biện chứng trong nhận thức   về hoạt động thực tiễn. 1.2. Tính tất yếu phải hội nhập quốc tế Hội nhập quốc tế  vừa là một tất yếu khách quan vừa là yêu cầu phát triển  kinh tế, chính trị, văn hóa ­ xã hội...của mỗi quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia   trên thế  giới không thể  tự  mình xây dựng được một đất nước phát triển trên   nhiều phương diện bất kể nước ấy giàu hay nghèo, đặc biệt là đối với các nước   chậm phát triển và đang phát triển. Nền kinh tế của các nước này còn thấp kém,  chậm phát triển, khoa học học kỹ thuật còn thua xa các nước tư  bản thì việc mở  rộng giao lưu, buôn bán với các nước trên thế giới là một vấn đề cần thiết và mang  tính tất yếu trong giai đoạn hiện nay.  Việt Nam cũng nằm trong các nước đang phát triển, xuất phát điểm của nước  ta là một nước nông nghiệp nghèo, do vậy chúng ta cần phải mở rộng  quan hệ với  các nước khác nhằm tạo thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt là   8
  9. trong lĩnh vực kinh tế. Trong Đại hội Đảng 9 của ta vừa qua, Đảng đã nêu ra "Chủ  động hội nhập quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực nâng cao   hiệu quả  hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự  chủ  và định hướng xã hội chủ  nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và bảo vệ  môi trường". Chương 2: Mối liên hệ giữa xây dựng nhà nước độc lập tự  chủ với hội nhập quốc tế 2.1. Mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nhà nước độc lập tự chủ với hội   nhập quốc tế    2.1.1. Kinh tế  Trong xu thế  toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, sự  tuỳ  thuộc lẫn nhau về  kinh tế ngày càng gia tăng, các nước trên thế giới đều rất coi trọng đến khả năng   độc lập tự  chủ  về  kinh tế  nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng của quốc gia, dân  tộc mình trong cuộc cạnh tranh kinh tế gay gắt và để xác lập một vị thế chính trị  nhất định trên trường quốc tế. Độc lập tự chủ về kinh tế phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng với   độc lập tự chủ về chính trị và các mặt khác để tạo thành sức mạnh tổng hợp của   một quốc gia. Độc lập tự chủ về kinh tế trước hết là không bị chi phối lệ thuộc   vào bên ngoài về  đường lối, chính sách phát triển kinh tế  vào những điều kiện  kinh tế chính trị mà họ muốn áp đặt cho ta trong trợ giúp, hợp tác song phương, đa  phương,.. mà những điều kiện  ấy sẽ gây tổn hại cho chủ quyền quốc gia và lợi   ích cơ bản của dân tộc. Độc lập tự chủ về kinh tế cũng có nghĩa là trước những  chấn động của thị  trường, của khủng hoảng kinh tế ­ tài chính, cũng như  trước   sự bao vây, cô lập từ bên ngoài vẫn giữ được sự ổn định và phát triển cần thiết,   không bị sụp đổ về kinh tế, chính trị. Khác với trước đây khi nói đến độc lập tự  chủ  về  kinh tế, nhiều người thường hình dung tới một nền kinh tế  khép kín, tự  cung tự cấp. Trong điều kiện hiện nay độc lập tự chủ về kinh tế phải là độc lập   tự chủ trong phát triển kinh tế thị trường và chủ  động hội nhập có hiệu quả  với  nền kinh tế  thế  giới, tích cực tham gia vào sự  giao lưu, hợp tác, phân công lao  động quốc tế trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực, lợi thế so sánh của quốc gia để  cạnh tranh có hiệu quả trên trường quốc tế. Trong điều  kiện  nền  kinh  tế  thế  giới phát triển và những đặc trưng chủ  yếu trên mô hình phát triển kinh tế  theo   9
  10. hướng hội nhập kinh tế quốc tế là căn cứ  để  phát triển các ngành kinh tế  có lợi   thế cạnh tranh cao. Đương nhiên, việc phát triển kinh tế này phải đặt trong mối   quan hệ  biện chứng với độc lập tự  chủ. Độc lập tự  chủ  trong mô hình kinh tế  theo hướng hội nhập quốc tế chấp nhận sự phụ thuộc lẫn nhau trên cơ  sở  cùng   có lợi trong quan hệ giữa các quốc gia. Sự phụ thuộc này diễn ra trên hầu hết các   lĩnh vực từ  hoạch định chính sách phát triển,… ví dụ  như  trong Liên minh Châu  Âu, hiện đã có đồng tiền chung, các quốc gia thành viên phải bảo đảm duy trì  một mức thâm hụt ngân sách và lạm phát chung. Trong mô hình kinh tế  này các  quốc gia tuy vẫn có quyền tự  chủ, quyền tự  chọn các ngành kinh tế  có lợi cho   mình. Thực tế cho thấy ngay các quốc gia có nhiều ngành công nghiệp nền tảng   khá phát triển như Nhật Bản mà vẫn phụ thuộc bên ngoài một cách đáng sợ. Nhật  phải nhập 100% dầu mỏ  để  có ngành hoá dầu và năng lượng điện, nhập khẩu   phần quặng sắt để có ngành luyện kim, nhập khẩu phần lớn bằng phát minh sáng  chế  để  có ngành công nghiệp chế  tạo,… Nếu có chiến tranh xảy ra, các hoạt  động nhập khẩu này chỉ bị ngừng trệ một thời gian ngắn thôi thì các ngành công   nghiệp sẽ hoàn toàn bị tê liệt và nền kinh tế Nhật khó tránh khỏi tổn thất. Nếu sợ  sự phụ thuộc này, nước Nhật sẽ không thể phát triển được. Nhưng bù lại, Nhật   lại xuất khẩu ô tô, hàng điện tử và những loại hàng chất lượng cao khác buộc các  quốc gia khác phải lệ thuộc vào Nhật những mặt hàng nay. Chính mối quan hệ lệ  thuộc lẫn nhau làm cho kinh tế Nhật có thể đứng vững ngay cả trong cuộc khủng   hoảng dầu lửa những năm 70. Song cũng cần phải nói rằng trong quá trình hội nhập kinh tế cần phải tránh  sự lệ thuộc quá nhiều vào các nước. Do đó, cần phải nhấn mạnh rằng trong quá  trình hội nhập kinh tế  quốc tế  cần phải phát huy tính độc lập tự  chủ, phát huy  nội lực của nền kinh tế, phải lấy nội lực của nền kinh t ế làm yếu tố quyết định   sự phát triển của nền kinh tế, còn những yếu tố bên ngoài chỉ là yếu tố mang tính   chất quan trọng.    2.1.2. Chính trị Độc lập tự chủ về chính trị có nghĩa là tự mình xác định mục tiêu, con đường   phát triển đất nước; tự mình hoạch định đường lối, chủ  trương, chiến lược phát  triển; tự mình xác lập và duy trì thể chế chính trị, không chấp nhận bất cứ sự can   thiệp nào từ  bên ngoài. Độc lập tự  chủ  về  chính trị  được thể  hiện cả  trong đối  nội và đối ngoại, cả kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh, quốc phòng... 10
  11. Quá trình hội nhập quốc tế và tự do hoá kinh tế có tác động đáng kể đến chủ  quyền về  chính trị  đối nội của quốc gia. Thứ  nhất, quyền lực của nhà nước bị  điều chỉnh, phạm vi và cách thức can thiệp của nhà nước vào đời sống kinh tế ­   xã hội phải thay đổi. Việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư  pháp  của nhà nước chịu sự  theo dõi, giám sát, phản biện ngày càng tăng từ  phía cộng   đồng xã hội, các doanh nghiệp, người dân, giới truyền thông, các tổ  chức phi  chính phủ và các tổ chức quốc tế. Mặc dù nhà nước và chính phủ quốc gia vẫn là   chủ thể hàng đầu, không thể thay thế trong cơ cấu quyền lực chính trị  hiện đại,  nhưng không phải là duy nhất và toàn năng. Quyền tài phán tối cao của nhà nước,  chính phủ  quốc gia đối với các vấn đề  đối nội và đối ngoại của đất nước vẫn   tiếp tục được khẳng định, nhưng phải gắn với hàng loạt trách nhiệm ngày càng  lớn, ngày càng nặng nề. Thứ hai, giao diện giữa khu vực công quyền và khu vực  thị  trường trở  nên phức tạp, các lợi ích công, tư  đan xen, chồng chéo, tạo điều  kiện cho các hành vi tham nhũng, móc ngoặc, thách thức nghiêm trọng hiệu lực   thực thi luật pháp, làm tổn hại quyền lực của nhà nước. Thứ ba, yêu cầu dân chủ  hoá xã hội gia tăng mạnh mẽ, bao gồm cả dân chủ  hoá hoạt động của Đảng và  nhà nước. Người dân ngày càng hiểu biết hơn về chính trị, nhận thức tốt hơn về  các quyền công dân, quyền con người, cũng như kỹ năng thực thi các quyền đó và   nhấn mạnh cả nhu cầu tham gia vào các hoạt động chính trị.  Lôgích của tiến trình đổi mới là đổi mới kinh tế phải được đồng bộ, hài hòa   với đổi mới chính trị, cải cách hành chính, cải cách lập pháp, tư  pháp. Yêu cầu   đổi mới toàn diện như  vậy đặt ra đòi hỏi ngày càng cấp thiết đối với năng lực   quản trị  của nhà nước và năng lực cầm quyền của Đảng tại tất cả  các cấp, các   ngành, các địa phương. Đẩy mạnh đổi mới chính trị, tối ưu hoá hoạt động của hệ  thống chính trị, phân bổ quyền lực chính trị hợp lý, kiểm soát quyền lực một cách  hiệu quả là cách tốt nhất đáp ứng các yêu cầu và thách thức đặt ra. Chủ  tịch Hồ  Chí Minh đã nói: ''Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái  tiếng''. Điều kiện để  bảo đảm độc lập tự  chủ  về  đối ngoại trong bối cảnh đẩy  mạnh hội nhập kinh tế quốc tế là: chính trị, xã hội ổn định; kinh tế  tăng trưởng  nhanh, bền vững; quốc phòng vững mạnh; nguồn nhân lực đối ngoại trung thành   và chuyên nghiệp; quan hệ cân bằng với các nước lớn. Trong bối cảnh thế  giới   hiện nay, dựa vào thế  và lực của quốc gia , nhiệm vụ của công tác đối ngoại là  kiên trì bảo vệ  và chủ  động tạo dựng môi trường quốc tế  hòa bình,  ổn định để  11
  12. tập trung xây dựng và phát triển đất nước nhanh và bền vững. Để  thực hiện  được các nhiệm vụ  này cần nâng cao hiệu quả  công tác đối ngoại, gắn ngoại  giao chính trị  với ngoại giao kinh tế. Nắm vững mục tiêu, kiên định nguyên tắc,  bám sát tình hình, linh hoạt  ứng biến. Tích cực tranh thủ  và chủ  động tạo dựng  thời cơ, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng đối ngoại với  các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội. Cần khẩn trương xây dựng chiến lược   và lộ  trình hội nhập phù hợp với thế  và lực của quốc gia cũng như  tương quan   quốc tế mới.    2.1.3. Văn hóa Trong thế  giới toàn cầu hóa, việc mở  rộng giao lưu, hợp tác quốc tế  là một   yêu cầu và xu thế  tất yếu để  phát triển. Trong quá trình đó, vai trò của văn hóa   ngày càng được coi trọng. Thông qua văn hóa, việc thiết lập, duy trì và phát triển   quan hệ  được thực hiện nhằm đạt mục tiêu đối nội và đối ngoại cụ  thể, trước   hết là các lợi ích cơ bản của quốc gia là phát triển, củng cố an ninh, mở rộng ảnh   hưởng và nâng cao vị  thế  quốc tế. Vì lẽ  đó, văn hóa trở  thành một bộ  phận cấu   thành không thể thiếu, nếu không nói là trước tiên (vì trong nhiều trường hợp, nó   có thể đi trước tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ chính trị và quan hệ kinh tế)  trong hoạt động đối ngoại của mỗi quốc gia. Trong giao lưu và tương tác giữa các quốc gia, thông qua nhiều hình thức dẫn  đến hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, văn hóa đã tạo dựng mối quan hệ nhiều  mặt lâu dài và bền vững. Rõ ràng, văn hóa là cầu nối cho quan hệ giữa các quốc   gia, giữa các dân tộc ngày càng phát triển, giúp cho việc hội nhập toàn diện, bền  vững trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Ở khía cạnh này, văn hóa đóng   vai trò "sứ  giả" của quốc gia trong đối ngoại. Vì vậy, nó trở  thành một trong ba   trụ  cột của chính sách đối ngoại mỗi nước: Chính trị  đối ngoại, Kinh tế  đối   ngoại và Văn hóa đối ngoại. Sức mạnh của văn hóa là điều không thể  phủ  nhận, nhưng cũng cần nhìn  nhận cả  hai mặt.  Ở khía cạnh tích cực, nó có sức xuyên phá qua mọi biên giới,   nhất là trong thế  giới phẳng hiện nay, qua đó mở  cửa cho các lợi ích khác theo   vào. Ở khía cạnh ngược lại, nó có thể trở thành yếu tố cản trở sự phát triển của   một quốc gia, dân tộc. Lịch sử đã chứng minh điều này. Sự  biến mất của nhiều   nền văn minh, văn hóa  ở  châu Phi, châu Mỹ… có thể  là những minh chứng cụ  12
  13. thể: một nền văn hóa, dù phát triển cao và rực rỡ đến đâu mà cô lập, khép kín thì  sẽ bị xơ cứng, thoái hóa, thui chột và không thể trường tồn.  Con người Việt Nam là sự kết tinh của nền văn hóa Việt Nam và họ chính là   người thể  hiện đậm nét "chất Việt", giữ  gìn bản sắc văn hóa rất riêng của dân   tộc mình qua mỗi thế  hệ. Vì vậy, quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa  Việt Nam cũng chính là quá trình thực hiện chiến lược con người, xây dựng và  phát huy nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Đây là một nguyên tắc,   là khâu trọng tâm của sự  nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hóa  và chế độ XHCN, như Hội nghị Trung ương 9, khóa XI đã chỉ rõ... 2.2. Vấn đề hội nhập quốc tế của Việt Nam    2.2.1. Thành tựu  Triển khai đường lối, chính sách của Đảng về mở rộng quan hệ đối ngoại và  hội nhập quốc tế trong thời kỳ đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu rất   quan trọng, góp phần phát triển kinh tế  ­ xã hội, giữ  vững môi trường hoà bình,   ổn định an ninh quốc gia, nâng cao vị  thế  của đất nước trên trường quốc tế.   Trong quan hệ song phương, nước ta đã củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị  hợp tác toàn diện với các nước láng giềng. Quan hệ đặc biệt  Việt Nam ­ Lào và  Việt Nam ­ Campuchia tiếp tục có nhiều bước phát triển mới trên cơ sở phương  châm chỉ  đạo “Hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị  truyền thống,  ổn   định lâu dài".  Hợp tác ngày càng tiến triển theo hướng thực chất hơn, phát huy   thế mạnh và tiềm năng của mỗi nước, bình đẳng, cùng có lợi, dành sự ưu tiên ưu   đãi hợp lý cho nhau, phù hợp với tính chất của quan hệ  đặc biệt giữa ba nước   Đông Dương..  Nhận thức rõ vị  trí của ASEAN, tầm quan trọng của hoà bình, ổn định và hội  nhập khu vực, từ sau khi gia nhập ASEAN,  Việt Nam đã ngày càng tham gia tích  cực và đầy đủ  vào mọi hoạt động của ASEAN. Qua đó, Việt Nam có nhiều đóng   góp quan trọng trên các lĩnh vực hợp tác chính của ASEAN, góp phần tạo dựng nền   tảng vững chắc để ASEAN đi đến quyết định lịch sử  là tăng cường liên kết tiến  tới xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015.  Các nước ASEAN hiện có hơn  một nghìn dự án đầu tư triển khai ở Việt Nam, với số vốn đầu tư trên 13 tỉ USD.   Việt Nam cũng có trên 120 dự án đang triển khai  ở các nước thành viên ASEAN   với tổng vốn gần 1 tỷ USD. Mặt khác, Việt Nam còn tham gia với tinh thần trách  nhiệm vào các cơ chế  hợp tác đa phương của ASEAN với các đối tác bên ngoài   13
  14. như: ASEAN+1, ASEAN+3,  Hợp tác  Á ­ Âu (ASEM),  Hội nghị  Thượng  đỉnh   Đông Á…  Bên cạnh sự  phát triển quan hệ  với các nước láng giềng và khu vực, Việt   Nam năng động cải thiện quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn như: Mỹ,   Trung Quốc, Nhật Bản, Nga... và các tổ  chức quốc tế  trong quá trình hội nhập  như: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu vực đầu tư  ASEAN (AIA),  ký Hiệp định khung với EU (1995); tham gia Diễn đàn Hợp tác Á ­ Âu (ASEM)  năm 1996, Diễn đàn APEC năm 1998; ký Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ  (2000) dựa trên những nguyên tắc cơ  bản của WTO và cuối năm 2006 đã chính  thức trở  thành thành viên thứ  150 của WTO. Nhìn tổng quát, tiến trình hội nhập   kinh tế  quốc tế  (HNKTQT) của nước ta đã xúc tiến với bước đi khá vững chắc   và đạt được kết quả  bước đầu rất đáng khích lệ. Trước hết, Việt Nam đã mở  rộng quan hệ kinh tế với hàng loạt quốc gia và khu vực, trở thành thành viên của  các tổ chức kinh tế, thương mại chủ chốt, tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập   kinh tế quốc tế ngày càng hiệu quả hơn. Hoạt động ngoại giao đa phương có sự  trưởng thành rõ rệt. Đặc biệt, thành  tựu  ấn tượng nhất trên lĩnh vực ngoại giao đa phương là việc Việt Nam được   bầu làm uỷ  viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ  2008­2009 với số  phiếu áp đảo, đánh dấu quá trình hội nhập quốc tế  của Việt  Nam đã trở nên sâu rộng.  Những thành tựu to lớn mà nước ta đạt được trong hội nhập quốc tế, trước   hết trên lĩnh vực kinh tế, là kết quả  của cả  một quá trình thực hiện nhất quán   đường lối, chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá với chủ  trương chủ  động và tích cực hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế  giới. Những thành tựu đó đã tạo thêm niềm tin để nước ta càng vững bước trên  đường hội nhập quốc tế, tận dụng tốt nhất những cơ hội mới đang mở ra. Chủ  động và tích cực hội nhập quốc tế  trong bối cảnh toàn cầu hoá tạo điều kiện   thuận lợi cho nước ta tham gia nhanh và hiệu quả  vào hệ  thống phân công lao  động quốc tế, tận dụng mọi nguồn lực phục vụ  mục tiêu phát triển. Do vậy,  chúng  ta   có   cơ   hội  đẩy  nhanh  quá   trình   điều  chỉnh,   tái   cơ   cấu  cấu  kinh  tế,   chuyển dịch cơ cấu lao động và rút ngắn thời gian vật chất của công cuộc công   nghiệp hoá ­ hiện đại hoá đất nước.  14
  15.    2.2.2. Hạn chế  Trong một số lĩnh vực quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế vào những thời  điểm cụ thể, sự đổi mới tư  duy còn chậm, chưa đáp ứng được tốt nhất yêu cầu   phát triển trong nước và phù hợp với những chuyển biến của tình hình thế  giới.   Một số mối quan hệ đối ngoại đã được xác lập nhưng vẫn còn những biểu hiện  hạn chế  về  tính chiều sâu, vẫn còn cần có thêm các nhân tố  cho sự  phát triển  vững chắc, ổn định, lâu dài.  Mối quan hệ  giữa kinh tế, an ninh, chính trị, đối ngoại trong một số  trường   hợp cụ  thể chưa gắn kết thật mật thiết với nhau. Sau thời kỳ mở r ộng quan hệ  đối ngoại, chưa có nhiều bước đột phá mới nhằm khai thác tốt nhất quan hệ lợi   ích đan xen tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là với một số nước lớn có liên  quan đến lợi ích chiến lược của nước ta.  Trong công tác hội nhập quốc tế, tiến độ  của công việc chuẩn bị  về  pháp lý   và thể chế vẫn còn khoảng cách so với yêu cầu hội nhập, với những chuyển biến   mới của tình hình thế  giới và khu vực. Nền tảng để  phát triển nền kinh tế  bền   vững chưa vững chắc, môi trường thu hút đầu tư, năng lực giải ngân các dự  án  đầu tư nước ngoài và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như của cả  nền kinh tế còn hạn chế... Việc xử  lý một vài vấn đề  trong nước chưa tính toán thật đầy đủ  đến phản   ứng và tác động quốc tế nhằm hạn chế việc bị các thế lực thù địch bên ngoài lợi   dụng gây khó khăn về ngoại giao. Công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại còn  biểu hiện chưa nhạy bén, hình thức chưa sinh động, hấp dẫn; cơ  chế  phối hợp   giữa các ngành, các cấp chưa đồng bộ, hiệu quả chưa như mong muốn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ  làm công tác đối ngoại  và hội nhập quốc tế  nhìn chung còn không ít bất cập, chưa thật sự  ngang tầm   chiến lược của thời kỳ chủ động và tích cực hội nhập sâu rộng với khu vực và thế  giới. Công tác nghiên cứu cơ  bản, dự  báo chiến lược trong lĩnh vực đối ngoại và   hội nhập quốc tế còn hạn chế. 2.3. Một số kiến nghị nhằm giữ vững độc lập tự chủ dân tộc và định hướng   xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập quốc tế 15
  16. Đẩy mạnh công tác tư tưởng, thông tin tuyên truyền nhằm tạo sự thống nhất  rộng rãi trong nhận thức xã hội về  những nội dung mới, những biểu hiện mới  của độc lập dân tộc và việc bảo vệ độc lập dân tộc, giữ vững định hướng XHCN   trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.  Tiếp tục mở rộng và phát huy dân chủ, tăng cường đổi mới xây dựng, củng  cố  và hoàn thiện hệ  th ống chính trị, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả  quản lý của Nhà nước.  Tháo gỡ  kịp thời những khó khăn, hạn chế, vướng mắc về  cơ  chế và chính   sách, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho đổi mới, phát triển kinh tế­ xã hội,  đặc biệt là tái cấu trúc kinh tế và thúc đẩy sản xuất kinh doanh.  Tăng cường sức mạnh quốc phòng ­ an ninh, kết hợp chặt chẽ quốc phòng ­  an ninh với kinh tế và đối ngoại. Đề cao cảnh giác trước âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng chính sách  mở cửa, hội nhập quốc tế của Việt Nam để "Diễn biến hoà bình". Quán triệt sâu sắc hơn nữa và thực hiện một cách sáng tạo, có hiệu quả  chủ  trương của Đảng về chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.  Xử  đúng đắn, lý linh hoạt các vấn đề  quốc tế  có liên quan trực tiếp đến an  ninh và phát triển của đất nước.  III. KẾT LUẬN Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế,   chúng ta có thể khẳng định một lần nữa giữa xây dựng nhà nước độc lập tự chủ  và chủ động hội nhập quốc tế có mối quan hệ biện chứng. Chỉ có thể  xây dựng   được một nhà nước độc lập tự  chủ  thì chúng ta mới có đầy đủ  tư  cách và thực   lực để chủ động hội nhập quốc tế đúng hướng và hiệu quả. Và ngược lại, chỉ có   chủ động hội nhập quốc tế chúng ta mới có thể nhanh chóng bổ  sung sức mạnh  16
  17. cho nội lực còn khiếm khuyết, thiếu hụt, rút ngắn con đường phát triển nhằm  không ngừng tự hoàn thiện mình để giữ vững nền độc lập dân tộc. Do đó, việc vận dụng nguyên lý về  mối liên hệ  phổ  biến vào phân tích chủ  trương, đường lối của đảng về việc xây dựng nhà nước độc lập, tự  chủ trên các   lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa…là việc làm hết sức đúng đắn, giúp chúng ta   không những hiểu rõ mà còn giúp cho chúng ta có thêm sự tự tin, ý chí quyết tâm  để  thực hiện chủ  trương, đường lối đó. Ngoài ra, việc phân tích mối quan hệ  biện chứng giữa độc lập tự  chủ  và hội nhập quốc tế  còn giúp làm sáng tỏ  quan  điểm đúng đắn của Đảng ta trong việc lãnh đạo xây dựng đất nước. 17
  18. IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tạp chí Cộng sản – Số 33/ Tháng 11/Năm 2010. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam,  Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  XI ,  NXB CTQG, Hà Nội 2011. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết của Bộ chính trị  số  07/NQ­TƯ Về hội   nhập kinh tế quốc tế, NXB CTQG, Hà Nội 2006. 4. Bài viết: “Hội nhập quốc tế và vấn đề giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa   ở nước ta – PGS.TS Nguyễn Tất Giáp”, Tạp chí Cộng sản, số 40/Tháng 12/Năm  2013. 5. Sách giáo trình Triết Học  – Chương 3, Tiểu ban Triết học – Trường Đại học  Kinh Tế TP.HCM, lưu hành nội bộ, TP.HCM ­ 2014. 
  19. [Phụ lục] 1.  Một số đặc trưng của nhà nước độc lập tự chủ Khác với trước đây khi nói tới nhà nước độc lập tự chủ, nhiều người thường   hình dung tới một nhà nước độc lập, tự  chủ  về mọi mặt và có nền kinh tế khép  kín, tự  cung, tự  cấp. Trong điều kiện hiện nay nhà nước độc lập tự  chủ  phải là  độc lập, tự  chủ  về  mặt chính trị, văn hóa – xã hội, đảm bảo lợi ích nhưng vẫn  duy trì được chủ  quyền trong các mối quan hệ  song phương hay đa phương, có  khả năng quản lý và kiểm soát các trào lưu văn hóa nước ngoài du nhập vào nước  mình. Ngoài ra, còn phải tự chủ trong phát triển kinh tế thị trường và tự  chủ  mở  cửa, hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới, tích cực tham gia vào sự giao   lưu, hợp tác, phân công lao động quốc tế trên cơ  sở phát huy tốt nội lực, lợi thế  so sánh của quốc gia để cạnh tranh có hiệu quả  trên thương trường quốc tế. Do  vậy, độc lập tự chủ trong điều kiện hiện nay có các đặc trưng sau: Trước hết và  quan trọng nhất là phải đảm bảo lợi ích phát triển của quốc gia ở mức cao nhất   có thể  được. Có thể  có một nền kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội không phụ  thuộc hoàn toàn vào bên ngoài, tự  đảm bảo được các nhu cầu chủ  yếu trong   nước. Đặc trưng thứ  hai của nhà nước độc lập tự  chủ  đó là sức cạnh tranh của   nền kinh tế  phải được cải thiện và tăng dần. Thể  chế  chính trị, kinh tế  xã hội   phải đủ mạnh đủ tạo ra một môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, chi phí và   rủi ro thấp; khả năng sinh lợi lớn. Cơ cấu kinh tế gồm những ngành có khả năng  cạnh tranh cao, có khả năng tự điều chỉnh, tự rút khỏi những ngành kém khả năng  cạnh tranh. Cơ cấu doanh nghiệp cũng phải bao gồm những doanh nghiệp có sức  mạnh trên thị  trường. Đặc trưng thứ  ba của nhà nước độc lập tự  chủ  đó là khả  năng  ứng phó có hiệu quả  với những chấn động chính trị, kinh tế, văn hóa ­ xã  hội bên ngoài lãnh thổ  nước mình. Những chấn  động đó có thể  là một cuộc   khủng hoảng hay suy thoái…
  20. 2. Nội dung của hội nhập quốc tế Các nguyên tắc hội nhập quốc tế nêu ra nói chung là không phân biệt đối xử,  tiếp cận thị trường, cạnh tranh công bằng, áp dụng các hành động khẩn cấp trong  trường hợp cần thiết, dành  ưu đãi cho các nước đang và chậm phát triển. Nội   dung của hội nhập quốc tế  là mở  cửa thị  trường, tạo điều kiện thuận lợi để  tự  do buôn bán, phát triển cũng như hợp tác phát triển song phương, đa phương, giao  lưu văn hóa – xã hội... Đối với lĩnh vực kinh tế, về thương mại hàng hoá khi gia nhập WTO thì các  nước cam kết bãi bỏ  hàng rào phi thuế  quan như  giấy phép xuất khẩu,… Về  thương mại dịch vụ, các nước mở  cửa thị  trường cho nhau với 4 phương thức:   cung cấp qua biên giới, sử  dụng dịch vụ  ngoài lãnh thổ, thông qua doanh nhân,  hiện diện thể nhân,…Về thị  trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư  nước   ngoài các yêu cầu về  tỷ  lệ  nội địa hoá cân bằng xuất nhập khẩu, hạn chế  tiếp   cận nguồn ngoại tệ… Các nguyên tắc này được tất cả các nước thành viên WTO  và các nước đang gia nhập WTO thừa nhận và thực hiện. Đối với lĩnh vực chính trị, các nước cam kết hợp tác cùng phát triển, tuyệt đối  không xâm phạm lãnh thổ của nhau, giữ vững chủ quyền biển đảo...Ổn định thể  chế chính trị để các doanh nghiệp nước ngoài có môi trường đầu tư thuận lợi và   an toàn... Đối với lĩnh vực văn hóa – xã hội, các nước cam kết tăng cường giao lưu, học   hỏi những nét đẹp văn hóa của nước bạn nhưng trên cơ  sở vẫn đảm bảo duy trì   nét đẹp văn hóa của nước mình. Du nhập, hòa hợp những giá trị văn hóa – xã hội  mới, hay và hiện đại nhưng tuyệt đối không hòa tan. 3. Đường lối quan điểm của Đảng ta trong quá trình hội nhập quốc tế
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
42=>0