intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Triết học số 37 - Ý thức và vai trò của ý thức trong đời sống xã hội

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:15

159
lượt xem
38
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Tiểu luận triết học, triết học Mac Lenin, ý thức và vai trò của ý thức trong đời sống xã hội, nguồn gốc ý thức, nguồn gốc xã hội,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Triết học số 37 - Ý thức và vai trò của ý thức trong đời sống xã hội

  1. A. PHẦN MỞ ĐẦU Bước vào thế  kỷ  mới, một câu hỏi lớn đang nổi cộm trong tư  duy   chính trị là: Thế giới  sẽ sống như thế nào với nước Mỹ lên ngôi đế chế và   nước Mỹ sẽ hành sử thế nào với phần còn lại của thế giới.  Một sự mất cân bằng lớn đang diễn ra trên mọi lĩnh vực  dưới một góc độ, trên tầm bao  quát vĩ mô nhất, cũng như ẩn chứa len lỏi dưới mọi tầng nấc vi mô nhất.   Đây là nỗi bản khoản, bức xúc tới mức ám  ảnh trong đời sống tinh thần   của nhân loại. Tất cả những vấn đề  trên đây sẽ  được tần nào sáng tỏ, hệ  thống qua việc tìm hiểu, hệ thống về   “ý  thức và vai trò của nó trong đời   sống xã hội". * Đối với mỗi con người nói riêng và quốc gia trên thế  giới tại sao lại  không muốn có một xã hội công bằng ­ văn minh  với những con người văn   minh, một xã hội không có sự bóc lột, trà đạp. Để hiểu rõ vấn đề ta đi sau   vào nghiên cứu đề tài:  "Ý thức và vai trò của ý thức trong đời sống xã  hội. 1. Nội dung và tính chất của ý thức xã hội. a. Khái niệm ý thức.  Đề  tài đi sâu nghiên cứu một số  vấn đề  nổi cộm trong xã hội ngày  nay qua những tình thái biểu hiện của ý thức. 1
  2. B. PHẦN NỘI DUNG I. Ý thức và tính chất của ý thức * Chủ  nghĩa duy tâm và tôn giáo cho rằng ý thức có một cuộc sống  riêng, tồn tại tách biệt vật chất thậm chí quy định, sinh ra vật chất. * Chủ  nghĩa duy vật tầm thường cho rằng ý thức cũng là một dạng  vật chất. *Chủ nghĩa duy vật cận đại đã thấy được ý thức phản ánh thế  giới  khách quan, đã chỉ  ra được kết cấu của ý thức song lại chưa thấy nguồn   gốc xã hội và vai trò xã hội của ý thức. * Chủ  nghĩa duy vật biện chứng đã kế  thừa, phát triển, khắc tục   những quan niệm trên đưa ra định nghĩa khoa học về ý thức. + Ý thức là sự  phản ánh sáng tạo thế  giới khách quan vào bộ  não  người thông qua lao động và ngôn ngữ. + Ý thức là toàn bộ  hoạt động tinh thần của con người bao gồm từ  cảm giác cho tới tư  duy, lý luận trong đó tri thức là phương thức tồn tại   của ý thức. b. Nguồn gốc ý thức. * Nguồn gốc tự nhiên. Trước Mác nhiều nhà duy vật tuy không thừa nhận tính chất siêu tự  nhiên của ý thức, song do khoa học chưa phát triển nên cũng đã không giải  thích đúng nguồn gốc và bản chất của ý thức. Dựa trên những thành tựu   của khoa học tự  nhiên nhất là sinh lýb học thần kinh, chủ  nghĩa duy vật   biện chứng khẳng định rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất nhưng  2
  3. không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ  là thuộc tính của một dạng vật  chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người là cơ  quan vật chất  của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ  óc người. Hoạt động ý thức của   con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người.   Ý thức phụ  thuộc vào hoạt động bộ  óc người, do đó khi bộ   óc bị  tổn   thương thì hoạt động ý thức sẽ không bình thường hoặc bị rối loạn. Vì vậy  không thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Ý   thức không thể  diễn ra, tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ  óc  người. Ngày nay sự phát triển mạnh mẽ của khoa học ­ kỹ thuật hiện đại đã  tạo ra những  máy móc thay thế  cho một phần lao  động trí  óc của con  người. Chẳng hạn các máy tính điện tử, rôbốt “tinh khôn”, trí tuệ nhân tạo.  Song điều đó không có nghĩa là máy móc cũng có ý thức như  con người.   Máy móc dù có tinh khôn đến đâu đi chăng nữa cũng không thể  thay thế  được cho hoạt động trí tuệ  của con người. Máy mcó là một kết cấu kỹ  thuật do con người tạo ra, còn con người là một thực thể xã hội. Máy móc  không thể  sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó  như con người. Do đó chỉ có con người với bộ óc của mình mới có ý thức  theo đúng nghĩa của từ đó.  * Nguồn gốc xã hội. Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan  trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra   đời của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. Ý thức ra đời cùng với   quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ  xã hội. Ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội, nó phụ  thuộc vào xã   hội, và ngay từ đầu đã mang tính chất xã hội. 3
  4. Loài vật tồn tại nhờ vào những vật phẩm có sẵn trong tự nhiên dưới   dạng trực tiếp, còn loài người thì khác hẳn. Những vật phẩm cần thiết cho  sự sống thường không có sẵn trong tự nhiên. Con người phải tạo từ những   vật phẩm  ấy. Chính thông qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế  giới  khách quan mà con người mới có thể  phản ánh được thế  giới khách quan,  mới có ý thức về thế giới đó. Quá trình hình thành ý thức không phải là quá trình con người thu  nhận thụ  động. Nhờ  có lao động con người tác động vào các đối tượng  hiện thực, bắt chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những   quy luật vận động của mình thành những hiện tượng nhất định và các hiện  tượng này tác động vào bộ  óc người. Ý thức được hình thành không phải  chủ  yếu là do tác động thuần tuý tự  nhiên của thế  giới khách quan, làm   biến đổi thế giới đó. Quá trình hình thành ý thức là kết quả hoạt động chủ  độngu của con người. Như  vậy, không phải ngẫu nihên thế  giới khách   quan tác động vào bộ  óc người   để  con người có thức, mà trái lại, con  người có ý thức chính vì con người chủ  động tác động vào thế  giới thông  qua hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới. Con người chỉ có ý thức do có   tác động vào thế giới. Nói cách khác, ý thức chỉ được hình thành thông qua  hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ  tác động vào thế  giới mà con  người khám phá ra những bí mật của thế giới, ngày càng làm phong phú và   sâu sắc ý thức của mình về thế giới. Trong quá trình lao động,  ở  con người xuất hiện nhu cầu trao đổi  kinh nghiệm cho nhau. Chính nhu cầu đó đòi hỏi sự  xuất hiện của ngôn   ngữ. Ph.Ăngghen viết: “Đem so sánh con người với các loài vật, người ta  sẽ  thấy rõ rằng ngôn ngữ  bắt nguồn từ  trong lao động và cùng phát triển  với lao động,l đó là cách giải thích duy nhất đúng về  nguồn gốc của ngôn  ngữ”. 4
  5. Ngôn ngữ  do nhu cầu của lao động và nhờ  vào lao động mà hình  thành. Nó là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có hệ  thống tín hiệu này ­ tức ngôn ngữ, thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện  được. Ngôn ngữ, theo C.Mác là cái vỏ  vật chất của tư  duy, là hiện thực  trực tiếp của tư tưởng, không có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức.  Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp đồng thời là   công cụ  của tư  duy. Nhờ  ngôn ngữ  con người mới có thể  khái quát hoá,  trừu tượng hoá, mới có thể suy nghĩ, tách khỏi sự vật cảm tính. Nhờ  ngôn  ngữ, kinh nghiệm, hiểu biết của người này được truyền cho người kia, thế  hệ này cho thế hệ khác. Ý thức không phải là hiện tượng thuần tuý cá nhân  mà là một hiện tượng có tính chất xã hội, do đó không có phương tiện trao  đổi xã hội về  mặt ngôn ngữ  thì ý thức không thể  hình thành và phát triển  được. Như vậy, ngôn ngữ là yếu tố quan trọng để phát triển tâm lý, tư duy  và văn hoá con người, xã hội loài người nói chung. Vì thế  Ph. Ăngghen   viết: “sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ... đó là hai sức   kích thích chủ yếu” của sự chuyển biến bộ não của con người, tâm lý động   vật thành ý thức. 2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội a. Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội. Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội àa do những   nguyên nhân sau đây:  ­ Một là, do bản thân ý thức vốn là cái phản ánh tồn tại xã hội. Sự  biến đổi của tồn tại xã hội thường diễn ra với tốc độ  nhanh mà ý thức xã  hội không phản ánh kịp và trở  nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái  phản ánh tồn tại xã hội cho nên nó chỉ  biến đổi sau khi tồn tại xã hội đã   biến đổi. 5
  6. ­ Hai là, do tính chất bảo thủ  của một số hình thái ý thức xã hội cụ  thể  và những tư  tưởng chứa đựng trong các hình thái đó (thí dụ  tư  tưởng  tôn giáo, những quan niệm và chuẩn mục đạo đức, những tập tục v.v...). ­ Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những   tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy những tư  tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ  và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ. b. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển . Quan điểm của triết học Mác ­ Lênin về  tính kế  thừa của ý thức xã   hội có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tinh thần của   xã hội. Lênin viết: “Văn học vô sản phải là sự phát triển lôgích của tổng số  kiến thức mà loài người đã tích luỹ  được dưới ách thống trị  của xã hội tư  bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu”. Chúng ta khẳng định: Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng   giao lưu quốc tế  phải đặc biệt quan tâm gìn giữ  và nâng cao bản sắc văn  hoá dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và   lòng tự hào dân tộc, tiếp thu tinh hoa các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp  thêm nền văn hoá Việt Nam. 6
  7. c. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội. Ăngghen viết:” Sự  phát triển về  chính trị, phát luật, triết học, tôn  giáo, văn hoá, nghệ  thuật v.v... dựa vào sự  phát triển kinh tế. Nhưng tất   cdả những sự phát triển đó đều tác động lẫn nhau và cùng tác động đến cơ  sở kinh tế”. Mức độ   ảnh hưởng của tư  tưởng đối với sự  phát triển xã hội phụ  thuộc vào những điều kiện lịch sử  cụ thể: vào tính chất của các mối quan  hệ  kinh tế  mà trên đó tư  tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử  của giai cấp  mang ngọn cờ  tư  tưởng; vào mức độ  phản ánh đúng đắn của tư  tưởng   trong quần chúng. Cũng do đó  ở  đây cần phân biệt vai trò của ý thức tư  tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển xã hội. Chủ  nghĩa duy vật lịch sử  không những đối lập với chủ  nghĩa duy   tâm trong sự tuyệt đối hoá vai trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ cả quan  điểm của chủ  nghĩa duy vật tàm thường (hay chủ  nghĩa duy kinh tế) phủ  nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội. Như  vậy, nguyên lý của chủ  nghĩa duy vật lịch sử  về  tính độc lập  tương đối của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung, bác  bỏ  mọi quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về  mối quan hệ  giữa   tồn tại xã hội và ý thức xã hội. II. VAI TRÒ CỦA Ý THỨC TRONG ĐỜI SỐNG XàHỘI. Nhận thấy ý thức con người được phản ánh thông qua những tình  thái ý thức xã hội, mà những tình thái đó có tác động trực tiếp tới đời sống   xã hội con người. Đặc biệt trong vấn đề về tư tưởng chính trị pháp quyền   ­ tình cảm ­ tri thức... vì vậy ta hãy xét tới sự  tác động hay vai trò những  tình thái ý thức xã hội này trong đời sống xã hội con người. 1. Tư tưởng chính trị và pháp quyền. 7
  8. Tình thái  ý thức chính trị xuất hiện trong xã hội có giai cấp và nhà nước nó   phản ánh các quan hẹe chính trị, kinh tế xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc và  các quốc gia. Nó thể hiện thái độ các giai cấp đối với quyền lực nhà nước.  Chiến tranh vùng vịnh, chiến tranh cô xô vô nổ  ra cùng tới một con  kịch phát chưa từng có của chủ  nghĩa hẹp hòi, tôn giáo cực đoan lan tràn  khắp nơi và rồi ánh bình mình của thế kỷ XXI đã nhuốm màu bạo lực với   sự   kiện  ngày   11  ­9  ­2001  và   tiếp   nối   ngay  sau   đó  là   cuộc   chiến   tranh   Atgamixtan   cuộc   chiến   tranh   Mỹ   sắp   giáng   xuống   đầu   nhân   dân   I   rắc  không chỉ  và vấn đền quan hệ  song tương giữa một quốc gia dầu lửa bị  xếp vào “trục ma quy” với siêu cường duy nhất trên thế giới mà còn là vấn   đề thế giới đang phải đối đầu với chủ nghĩa đơn thương độc đoán Mỹ. Đã từ lâu Mỹ và một số quốc gia trên luôn đặt thế giới vào tâm trạng  phập phồng bất an. Nhưng Mỹ và các quốc gia đó không nhận thức được   hậu quả hay do cố tình không nhận thấy được hậu quả tất yếu mà Mỹ  và  các quốc gia đó do áp đặt quân sự  và các chính sách kinh tế  khác, trên các   quốc gia (như GHDCND Triều Tiên, Irắc, Afganixtan). “135 lịch sử  kinh hoàng nước Mỹ  11 / 9 /01 đã làm chấn động địa   cầu. Và câu hỏi đặt ra là nguyên nhận thảm hoạ này do đâu? Hậu quả  để  lại sau thảm hoạ trở thành những nguyên nhân của những sự biến mới trên   trường quốc tế là gì? Hành động tiến công của những tên không tặc khủng bố  nhằm vào  nước Mỹ  có phải là điều tất nhiên? Và những đòn tấn công đó vào nước  Mỹ  thông qua những cái ngẫu nhiên. Mỹ  đã bất chấp những cái tồn tại  khách quan luôn phá vỡ  những quy  ước chung và hành động theo ý thức  thuộc cái riêng mà mình muốn. Và cuộc khủng bố nổ ra lẽ đương nhiên là  lời cảnh báo buộc Mỹ  phải xem xét lại chính mình về  mọi mặt chính trị,   quân sự ngoại giao. Mỹ nên tôn trọng những hiệp định chung đã được thoả  8
  9. thuận trong các tổ chức mang tính quốc tế như Liên hợp quốc và liệu rằng   những đòn trả  đũa của Mỹ  đánh vào Irắc có thêm một lần phạm phải sai   lầm chủ quan nữa chăng. 2. Hình thái ý thức trong đạo đức ­ phong tục ­ tập quán a) Sự  tự  ý thức về  lương tâm, danh dự  và lòng tự  trọng, v.v.. phản  ánh khả năng tự chủ của con người, là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là  nét cơ  bản biểu hiện cái thiện trong con người, và cũng là biểu hiện tố  chất nhân văn của con người. Với ý nghĩa đó, ý thức đạo đức là nhân tố  quan trọng của tiến bộ xã hội, của sự nhân đạo hoá xã hội. Và cũng do đó,   các quan niệm về  thiện và ác, về  hạnh phúc, công bằng, lương tâm, danh  dự, lòng tự trọng trở thành những giá trị phổ biến nhất của ý thức đạo đức   trong đời sống văn hoá tinh thần của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi cộng  đồng. b) Trong tiến trình phát triển của xã hội đã hình thành những giá trị  đạo đức mang tính toàn nhân loại, tồn tại trong mọi xã hội và trong các hệ  thống đạo đức khác nhau, có tác dụng điều chỉnh hành vi của mọi người,   nhằm giữ  gìn trật tự  xã hội chung và sinh hoạt thường ngày của từng cá  nhân và cộng đồng bất kể họ thuộc giai cấp nào, dân tộc nào, quốc gia nào. c) Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp đối kháng thì nội dung của đạo  đức bị chi phối bởi nội dung giai cấp. Trong nội dung của các phạm trù đạo  đức luôn luôn phản ánh địa vị  và lợi ích của giai cấp. Mỗi giai cấp trong   những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử  xã hội đều tạo ra những  quan điểm đạo đức riêng của mình. Giai cấp tiêu biểu cho xu thế phát triển   đi lên của xã hội thì đại diện cho một nền đạo đức tiến bộ. Còn các giai   cấp đã rời khỏi vũ đại lịch sử thì đại diện cho một nền đạo đức suy thoái.   Ph.Ănghen viết: “Chung quy lại thì mọi thuyết đạo đức đã có từ  trước tới   9
  10. nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ. Và cũng  như xã hội cho tới nay đã phát triển trong sự đối lập giai cấp, đạo đức luôn  luôn là đạo đức của giai cấp. Cho nên hoặc giả nó bênh vực sự thống trị và   lợi ích của giai cấp thống trị, hoặc giả, khi giai cấp bị trị đã trở  nên khá  mạnh, thì nó tiêu biểu cho sự nổi dậy chống kẻ thống trị, hoặc giả, khi giai   cấp bị  trị  đã trở  nên khá mạnh, thì nó tiêu biểu cho sự  nổi dậy chống kẻ  thống trị và biểu cho lợi ích tương laicủa những người bị áp bức”. Hiện nay ở một số nước tư bản phương Tây đang lưu hành một quan   niệm sai lầm cho rằng trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và  công nghệ  đã xuất hiện một kiểu đạo đức mới không có tính giai cấp.  Trong đó, người ta đặc biệt nhấn mạnh đến đạo đức tôn giáo như một thứ  đạo đức duy nhất có khả  năng chỉ  ra cho toàn thể  loài người con đường  phát triển đi lên. d. Trong lịch sử phát triển của đạo đức các giá trị phổ biến của nó đã  không ngừng được tạo ra và hoàn thiện. Tuy nhiên, chỉ trong đạo đức cộng  sản các giá trị đó mới có khả năng thể hiện đầy đủ nhất. Đạo đức cộng sản được hình thành trong cuộc đấu tranh cách mạng  của giai cấp công nhân, bắt nguồn từ đạo đức cách mạng của giai cấp đó,  và kế thừa những giá trị đạo đức của loài người. Ý   thức có  ảnh hưởng to lớn trong quá trình hình thành phát triển   cũng như  tồn tịa và suy vong đối với phong tục tập quán. Con người sáng  tạo ra lịch sử của mình có vai trò quyết định đối với sự phát triển xã hội mà  trong quá trình đó hình thành ý thức phong tục ­ tập quán.  3. Vai trò của hình thái ý thức khoa học.   Tri thức khoa học đang trở  thành một lực lượng sản xuất trực tiếp   đó là đặc điểm nổi bật nhất của sự phát triển của nó trong điều kiện hiện   10
  11. đại. Tri thức khoa học ngày nay được kết tinh trong mọi yếu tố  của lực   lượng sản xuất­ trong người lao động và trong đối tượng lao động, trong  kỹ thuật, trong các quy trình công nghệ, trong tổ chức và quản lý sản xuất. Khoa học ngày nay phát triển theo khuynh hướng vừa phân ngành  mạnh mẽ  vừa xâm nhập vào nhau và kết hợp với kỹ  thuật thành một sức   mạnh trí tuệ thống nhất để nhận thức và cải tạo hiện thực. Ngày nay không chỉ  có khoa học tự  nhiên và kỹ  thuật, mà cả  khoa   học xã hội cũng phát triển mạnh mẽ, có vai trò trực tiếp thúc đẩy sản xuất  phát triển. 4. Vai trò của hình thái ý thức nghệ thuật. Nghệ thuật chân chính gắn liền với đời sống hiện thực của nhân dân   lao động,l là nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ xã hội thông qua việc đáp   ứng nhu cầu thẩm mỹ  của con người. Khi phản  ánh thế  giới hiện thực   trong các hình tượng nghệ  thuật, nghệ  thuật đã tác động đến lý trí và tình   cảm của con người, kích thích tính tích cực hoạt động của con người, xây  dựng  ở  con người những hành vi đạo đức tốt đẹp. Thông qua những tác   phẩm có giá trị  truyền qua các thế  hệ  mà nghệ  thuật còn giúp con người   nhận thức đời sống xã hội. Như  vậy, nghệ  thuật đóng vai trò to lớn trong  các nhân tố giáo dục con người, nhận thức và cải tạo hiện thực. 5. Ý thức tôn giáo. Các biến đổi dữ dội làm đảo lộn thế giới trong thế kỷ đầy bão tố đã  gây nên “cuộc khủng hoảng xã hội và thế  giới”. Đó là lời đánh giá của  chính một nhân vật quan trọng của toà thánh Vatican, cha Peter Gumpel lúc  này có một cái nhìn toàn cảnh về bức tranh tôn giáo toàn cầu cuối thế kỷ là   cần thiết. Có thể nói bức tranh phức tạp pha trộn nhiều màu sắc thiếu hài  hoà. 11
  12. Ngày nay với sự  bùng nổ  của nhiều giáo phái khiến trào lưu xã hội   có niều thay đổi, có nhiều giáo phái được hình thành với nghi lễ mới dung   tục học quyền bỏ. Nhiều khi mang tính pha tạp hỗn hợp giả danh khoa học   hoặc trộn lẫn các tín ngưỡng đã có cả trường hợp cực đoan, dẫn đến tự sát   tập thể. Tuy nihên ta nhận thấy mục đích của những đạo giáo này đều  hướng con người tới cái thiện, cái đẹp. 6. Hình thái ý thức khoa học nhân dạng ­ tâm linh ­ tín ngưỡng.  Đến cuối thế kỷ 20 ở Phương Đông cũng như ở phát triển khoa học ­  nhân dạng trôi nổi biến tướng nhiều dạng. Xấu nhiều, tốt ít phản khoa học  và bị lợi dụng trở thành một công cụ truyền bá mê tín, có lúc phục vụ cho ý  đồ  và âm mưu chính trị.  Khoa học nhận dạng được chuyển thành hai xu   hướng:  Một   là   được   người   cầm   quyền   sử   dụng   làm   thành   một   công   cụ  thống trị có tác dụng được đề cao trong xã hội.  Hai là bị đào thải vì quá nhiều bọn xấu lợi dụng trở thành nghề  bói  toán lợi dụng.  Ngày nay khoa học nhận dạng vẫn đang tồn tại trong xã hội, có xu  hướng phát triển mạnh hơn, trong xã hội xuất hiện những trào lưu mạnh  mẽ hơn. Sở dĩ như vậy bởi con người luôn muốn tìm hiểu những gì quanh   mình. Đặc biệt với những nước Phương Đông khoa học nhận dạng tâm  linh ­ tín ngưỡng đã phát triển tới mức rất cao. (Trung Quốc ­ Nhật Bản...). 12
  13. C. KẾT LUẬN Như  chúng ta đã biết, thực ra sự  sụp đổ  của hệ  thống xã hội chủ  nghĩa  ở Liên Xô cũ và Đông Âu là do diễn giải sai chủ nghĩa Mác ­ Lênin.   Tức là nhận thức sai về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là về nhữgn bước đi về  quan điểm hay làm quá nhanh, sự sụp đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên   Xô và Đông Âu là một trong những sự biến kịch tính nhất trong thế kỷ XX.   Cũng từ đó, trật tự thế giới lưỡng cực tan vỡ và thế giới bước vào một trật  tự  chính trị, không gian chiến lược hoàn toàn khác trong hơn 100 năm qua   gươngmặt thế  giới rạng ngời và cũng đau đớn hai cuộc chiến tranh đại  chiến (I, II) và hàng nghìn cuộc chiến tranh xung đột lớn nhỏ đủ  dạng, đủ  mọi nguy cơ làm cho 150 triệu người chế quyền lực, súng đạn, đất đai, đô  la,l dầu lửa, nhân quyền... làm cho cả  thế  giới luôno vật vã, phập phồng,  bất ổn. Việt Nam cũng là quốc gia chịu nhiều ảnh hưởng những cuộc chiến   tranh áp bức bóc lột đồng thời chịu ảnh hưởng nặng nề của chế độ  phong  kiến đô hộ, cho nên để có kinh tế phát triển sánh với quốc gia thế giới. Thì đòi hỏi đảng ta phải đặc biệt trú trọng tới tư tưởng chính trị ­ nét  văn hoá dân tộc, để  đưa đất nước phát triển nhưng đồng thời cũng không  tàn mất đi bản sắc văn hoá dân tộc. 13
  14. TÀI LIỆU THAM KHẢO + Giáo trình triết. + Giáo trình kinh tế ­ chính trị. + Báo an ninh thế giới (1­ 2003). + Khoa học nhân dạng + Những vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường. + Bàn về thanh niên. 14
  15. 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0