intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận "Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc”

Chia sẻ: HUI.VN | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:29

188
lượt xem
66
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động...". Sự khẳng định đó nói lên vai trò to lớn và cực kỳ quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng nước ta.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận "Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc”

  1. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động...". Sự khẳng định đó nói lên vai trò to lớn và cực kỳ quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng nước ta. Tư tưởng của Người là sự kế thừa tinh hoa trí tuệ của nhân loại được vận dụng sáng tạo dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đưa cách mạng Việt Nam tới thắng lợi vẻ vang. Tư tưởng Hồ Chí Minh còn sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta và là tài sản quý giá trong kho tàng văn hóa nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh bao quát nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú mà nền tảng là tư tưởng triết học. Tìm hiểu tư tưởng biện chứng của Người trong cách mạng giải phóng dân tộc là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Bởi vì để xác định được mục tiêu, đường lối và phương pháp cách mạng đúng đ ắn thì tư tưởng biện chứng khoa học có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Có thể nói, tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc mang tính cách mạng, khoa học và sáng tạo phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể ở Việt Nam - một đất nước thuộc địa nửa phong kiến. Tư tưởng đó có ý nghĩa rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam trong mấy chục năm qua và ngày nay đang tiếp tục soi sáng công cuộc đổi mới đ ất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của dân tộc ta trên nhiều lĩnh vực như: xác định đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phát huy nội lực kết hợp với chủ động hội nhập quốc tế; xây dựng đạo đức mới, văn hóa mới; xây dựng Đ ảng và Nhà nước vững mạnh. Vì vậy nghiên cứu tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh không những cần thiết mà còn là vấn đề cấp bách. 1
  2. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh là một lĩnh vực rộng lớn và phong phú. Nó đã được nhiều tác giả trong nước cũng như ngoài nước dày công nghiên cứu và công bố nhiều công trình có giá trị lý luận cũng như thực tiễn. Đặc biệt trong dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều công trình nghiên cứu đã nêu lên những đóng góp to lớn của Người đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và với nền văn hóa thế giới. Gần đây, nhiều công trình khoa học nghiên cứu về nhiều lĩnh vực khác nhau của Người lần lượt ra đời. Có thể nêu một số công trình: Tư tưởng Hồ Chí Minh - Một số nội dung cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995 của PGS, PTS Nguyễn Bá Linh; Một số chuyên đề về môn học tư tưởng Hồ Chí Minh , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997 của tập thể các tác giả do PGS, PTS Mạch Quang Thắng (chủ biên). Cùng với các công trình nêu trên, một số tác giả đã có những công trình nghiên cứu để làm sáng tỏ sự nghiệp lãnh đạo cách mạng sáng suốt và đúng đắn của Hồ Chí Minh nhằm đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong số đó đáng chú ý là những công trình: Những cống hiến lý luận của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vào học thuyết mác-xít về giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, Tạp chí Thông tin lý luận, số 11-1993, Nguyễn Thế Hinh; Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; Nguyễn Đức Bình. Những công trình nghiên cứu trên đã gợi mở một số vấn đề về tư tưởng triết học Hồ Chí Minh như: về nguồn gốc và thế giới quan; về thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc v.v... Tuy nhiên, chưa có một chuyên khảo nào bàn về tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. 2
  3. 3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của đề tài Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam, tiểu luận góp phần làm sáng tỏ bản chất cách mạng và khoa học cùng với những đặc điểm chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó rút ra một số quan điểm cơ bản vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Nhiệm vụ: Phân tích nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Xác định những quan điểm cơ bản vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới hiện nay. Phạm vi: Nội dung nghiên cứu đề tài là tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc để hiểu rõ hơn luận điểm này trong hệ tư tưởng Hồ Chí Minh, và luận điểm này đóng góp như thế nào đối với kho tàng lý luận Chủ nghĩa Mac Lênin. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Đề tài này dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phương pháp luận về cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ”. Đồng thời, đề tài sử dụng phối hợp các phương pháp như: lôgic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, so sánh đối chiếu và hệ thống cấu trúc. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Đề tài tiếp thu các thành tựu lý luận đã đạt được bổ sung và góp phần làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc .. Qua đó, tác giả mong muốn góp phần nhỏ bé vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.. 6. Kết cấu của đề tài Đề tài gồm có 3 phần: Phần mở đầu có 6 tiết. Phần nội dung có 2 chương. 3
  4. Phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. CHƯƠNG 1 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC 1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CÁC MÁC - ĂNGGHEN - LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC 1.1.1. Quan điểm của Mác-Ăngghen-Lênin về vấn đề dân tộc C. Mác, Ph. Ăngghen đã nêu ra các quan điểm cơ bản có tính chất phương pháp luận để nhận thức và giải quyết những vấn đề về nguồn gốc, bản chất của vấn đề dân tộc, những quan hệ cơ bản của dân tộc, thái độ của giai cấp công nhân và đảng của nó với vấn đề dân tộc. Trên cơ sở những quan điểm này, Lênin đã phát triển lên thành một hệ thống lý luận toàn diện, sâu sắc về vấn đề dân tộc, làm cơ sở cho cương lĩnh, đường lối, chính sách của các đảng cộng sản kiểu mới về vấn đề dân tộc. Theo quan điểm Mác - Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử. Trước dân tộc là những hình thức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản dẫn đến sự ra đời của các nhà nước dân tộc tư bản chủ nghĩa. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành chính sách vũ trang xâm lược cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhược tiểu, vấn đề dân tộc trở nên gay gắt, từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Sau Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga, với sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh đã dẫn đến sự tan rã hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, nhiều nước thuộc địa cũ trở thành các quốc gia dân tộc độc lập . 4
  5. Khi bàn về sự phát triển của vấn đề dân tộc, Lênin cũng đã đ ề cập hai xu hướng phát triển của vấn đề dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản: Xu hướng thứ nhất là sự thức tỉnh của ý thức dân tộc, của phong trào đ ấu tranh chống áp bức dân tộc sẽ dẫn tới việc thành lập các quốc gia dân tộc độc lập, Xu hướng thứ hai là với việc tăng cường và phát triển các mối quan hệ giữa các dân tộc sẽ dẫn tới việc phá hủy hàng rào ngăn cách dân tộc, thiết lập sự thống nhất quốc tế của chủ nghĩa tư bản, của đời sống kinh tế, chính trị, khoa học… nói chung. Xu hướng thứ nhất chiếm ưu thế trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản mới phát triển, còn xu hướng thứ hai là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản già cỗi sắp chuy ển sang xã hội xã hội chủ nghĩa. Cả hai xu hướng đều phát triển trong điều kiện đối kháng giai cấp gay gắt. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa dân tộc tư sản không thể giải quyết được vấn đề dân tộc mà chỉ làm cho mối xung đ ột dân tộc ngày càng tăng lên. Chỉ có cách mạng vô sản và chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở thủ tiêu ách áp bức giai cấp và áp bức dân tộc mới tạo điều kiện để thực hiện sự bình đẳng dân tộc và xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc, làm cho các dân tộc ngày càng xích lại gần nhau. Từ đó, Lênin yêu cầu các đảng cộng sản phải kiên quy ết đ ấu tranh với mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc tư sảnvà chủ nghĩa sôvanh, giành thắng lợi cho chủ nghĩa quốc tế vô sản. 1.1.2. Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là vấn đề dân tộc nói chung mà là vấn đề dân tộc thuộc địa. Vấn đề dân tộc thuộc đ ịa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xoá bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, th ực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập. Tư tưởng của Người về vấn đề dân tộc được thể hiện trong những luận điểm cơ bản sau đây: 5
  6. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Đối với Hồ Chí Minh, cái má Người cần nhất trên đời là: đồng bào đ ược tự do, Tổ quốc được độc lập… Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Người đã tìm hiểu Tuyên ngôn độc lập (1776) của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền (1791) của cách mạng Pháp. Từ đó, Người khái quát: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Cách mạng tháng Tám thành công, Người khẳng định trước toàn thể quốc dân đồng bào và trước thế giới trong bản “Tuyên ngôn độc lập”: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy". Kết hợp dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Hồ Chí Minh từ một người yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin đã tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình theo con đường cách mạng vô sản, tức là đã tiếp thu lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin. Người nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Người đã vận dụng sáng tạo lý luận ấy vào việc giải quyết nhiệm vụ cụ thể của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, phù hợp với đặc điểm lịch sử - xã hội của các nước phương Đông. Ở trong thời của Mác - Ăngghen, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa tư bản đã được mở rộng, nhưng các cuộc đấu tranh giành độc lập chưa phát triển mạnh, chưa có ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và suy vong của chủ nghĩa tư bản. Trung tâm cách mạng thế giới vẫn ở châu Âu, vận mệnh loài người vẫn được coi là phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Do đó, tương lai của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa cũng được nhìn nhận trong 6
  7. sự phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản chính quốc. Tuy nhiên, đối với các nước thuộc địa phương Đông, vấn đề đặt ra trước hết là phải đấu tranh giành lại độc lập dân tộc. Và cuộc cách mạng ấy có tính chủ động, độc lập nhất đ ịnh so với cách mạng vô sản ở châu Âu. Hồ Chí Minh là người có sự hiểu biết sâu sắc về tính chất xã hội thuộc địa, thấy được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội ấy là mâu thuẫn dân tộc, thấy được tiềm năng và động lực cách mạng của nhân dân thuộc địa. Người đã đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái của một số đảng cộng sản Tây Âu và đi đến luận điểm: các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức của chính mình, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới để trước hết, phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc, rồi từ thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và đóng góp thiết thực vào s ự nghiệp cách mạng vô sản thế giới. Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước. Trên cơ sở phân tích tình hình kinh tế ở Đông Dương còn lạc hậu, chưa phát triển, sự phân hoá giai cấp ở đây chưa triệt để, cuộc đấu tranh giai cấp ở đây không diễn ra giống như ở phương Tây, từ lịch sử dân tộc Việt Nam, Người khẳng định: "Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước". Chủ nghĩa dân tộc mà Người nói ở đây chính là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, vốn là động lực tinh thần vô giá trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc. Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế.Người đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc, coi đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy,giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp vô sản, kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa quốc tế. Độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc. 7
  8. 1.1.3. Vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người trong chủ nghĩa Mác – Lênin Chủ nghĩa Mác-Lênin có sứ mệnh lịch sử và vạch rõ con đường và phương pháp đấu tranh để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Những vấn đề trên đây đã được các nhà kinh điển của giai cấp vô sản chỉ ra từ rất sớm. Trong tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, năm 1848, Mác, Ăngghen không chỉ luận giải vấn đề giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc mà vấn đề giải phóng con người cũng được đề cập sâu sắc: “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Tuy nhiên do cả hai ông đều sống ở Tây Âu nơi mà chủ nghĩa tư bản phát triển tới trình đọ cao nên trước hết các ông nhấn mạnh vấn đề giải phóng giai cấp, Mác và Ăngghen đã viết: “Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác sẽ bị xóa bỏ”.Mác và Ăngghen cho rằng giải phóng giai cấp là nhiệm vụ trung tâm, là điều kiện để giải phóng dân tộc. Sau Mác và Ăngghen, Lênin đã trực tiếp giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc. Trong thời kì chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn tột cùng của nó là chủ nghĩa đế quốc. Một trong những đặc điểm cơ bản là xâm chiếm thuộc địa, một số nước đế quốc biến 70% dân số thế giới thành thuộc địa, Lênin đã kế tục và phát triển sự nghiệp của Mác, Ăngghen khi thành lập Quốc tế I và Quốc tế II đại diện cho giai cấp công nhân, cho phù hợp với tình hình mới, Quốc tế III, Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập đại diện cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức. Lênin nhận định: Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là thực hiện sứ mệnh giải phóng con người. 1.1.4. Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và gi ải phóng con người vào điều kiện các nước thuộc địa. Nếu ở phương Tây, các nhà kinh điển mac-xit cho rằng sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người tuy có liên quan mật thi ết v ới 8
  9. nhau nhưng ưu tiên giải phóng giai cấp công nhân thì Hồ Chí Minh đối với phương Đông, trong đó có Việt Nam giải phóng dân tộc là nhiêm vụ trên hết, trước hết. Hồ Chí Minh cho rằng trong điều kiện các nước thuộc địa thì giải phóng dân tộc là cơ sở để giải phóng giai cấp, gải phóng con người. Trong quan hệ dân tộc và giai cấp thì đòi hỏi phải giải quyết thỏa đáng giữa lợi ích dân tộc và l ợi ích giai cấp, thì trước hết là lợi ích giai cấp công nhân. Đây là một vấn đề lớn về lý luận và thực tiễn trước kia, hiện nay và cả tương lai. Suốt cuộc đời mình Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công vấn đề dân tộc và giai cấp nói chung, giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp nói riêng. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 70 năm qua. Con người và cuộc đấu tranh nhằm giải phóng con người giữ vai trò quan trọng trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Báo Le Paria (Người cùng khổ) ngày 1-4-1922 Hồ Chí Minh viết: “Le Paria đã sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu, mục đích của báo chắc chắn sẽ đạt được: đó là giải phóng loài người”. Trước khi đi gặp cụ Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, Hồ Chí Minh vẫn nghĩ đến con người và sự nghiệp giải phóng con người. Thật sâu sắc và cảm động khi thấy những điều Hồ Chí Minh căn dặn chúng ta trong Di chúc: “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Như vậy đối với Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người thì giải phóng dân tộc luôn được đặt lên hàng đầu. Đó là sự trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp với phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng 1.2. MỤC TIÊU CỦA CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC 1.2.1. Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng ở thuộc địa Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, xác định con đường cứu nước theo khuynh hướng chính trị vô sản, nhưng con đường giải phóng dân tộc là do Hồ Chí Minh hoạch định. Người kết hợp hài hòa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp và giải quyết vấn đề giai cấp trong vấn đề 9
  10. dân tộc. Vậy thì vấn đề dân tộc thuộc địa là gì? Vấn đề giai cấp là gì? Người đã vạch ra thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, xóa bỏ ách thống trị áp bức, bóc lột, giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc. Như vậy độc lập dân tộc chính là nội dung cốt lõi của vấn đ ề dân tộc thuộc địa. Còn nội dung cốt lõi của vấn đề giai cấp chính là chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh tài tình giải quyết biện chứng mối quan hệ này. Giải quyết vấn đề dân tộc trong đó có cả quyền lợi giai cấp, vì không giải phóng được dân tộc thì quy ền lợi giai cấp, bộ phận đến vạn năm cũng không đòi lại được. Giải quy ết quy ền l ợi giai cấp thì cả dân tộc đều ấm no, hạnh phúc, vì chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việclàm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc.Từ vấn đề trên Người đã chỉ ra rằng giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết. Để giải phóng dân tộc phải tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Trước hết người đã chỉ cho chúng ta thấy tính chất và nhiệm vụ của cách mạng ở thuộc địa là gì? Bằng phương pháp lịch sử cụ thể bám sát thực tiễn xã hội thuộc địa, Hồ Chí Minh nhận thấy sự phân hóa giai cấp ở các nước thuộc địa phương Đông không giống như các nước tư bản phương Tây. Các giai cấp ở thuộc địa có sự khác nhau ít nhiều song đều có chung số phận mất nước, số phận là người nô lệ mất nước. “Nếu như mâu thuẫn chủ yếu ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, thì mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa phương Đông là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực dân. Dưới tác động của các chính sách khai thác kinh tế, bóc lột tô thuế và chiếm đoạt ruộng đất, cùng chính sách cai trị của chủ nghĩa đế quốc, mỗi giai cấp ở thuộc địa có địa vị kinh tế, thái độ chính trị khác nhau, thậm chí lợi ích phát triển ngược chiều nhau hình thành các mâu thuẫn, nhưng nổi lên cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc” [1]. Do mâu thuẫn chủ yếu khác nhau nên tính chất cuộc đấu tranh cách mạng ở các nước tư bản chủ nghĩa và các nước thuộc địa phương Đông cũng khác nhau. Ở các nước tư bản chủ nghĩa phải . Khoa Mác-Lênin, trường đại học Công Nghiệp TPHCM, Đề cương bài giảng Tư Tưởng Hồ Chí Minh,tr.38 1 10
  11. tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp, còn ở các nước thuộc địa đầu tiên phải đấu tranh giải phóng dân tộc. “Đối tượng của cách mạng ở thuộc địa không phải là giai cấp tư sản bản sứ, càng không phải là giai cấp địa chủ nói chung, mà là chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động”[2]. Còn đối tượng cách mạng ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây là giai cấp tư sản bản xứ. Ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây là giải phóng giai cấp, trong khi ở các nước thuộc địa phương Đông là giải phóng dân tộc. Yêu cầu bức thiết của nhân dân các nước thuộc địa lúc bấy giờ là độc lập dân tộc vì họ đang là nạn nhân của chính sách khai thác thuộc địa, bóc lột, đàn áp dã man của bọn đế quốc thực dân. Vì thế mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa là mâu thuẫn dân tộc quy định tính chất và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc. 1.2.2. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc Đanh đổ ach thông trị cua chủ nghia thực dân danh độc lâp dân tôc, thiêt lâp ́ ́ ́ ̉ ̃ ̀ ̣ ̣ ̣́ chinh quyên cua nhân dân. Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước với ý chí ́ ̀ ̉ giải phóng dân tộc, làm cho dân tộc độc lập tự do, đồng bào ấm no hạnh phúc. Người hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba, vì quốc tế thứ ba có chủ trương giải phóng dân tộc bị áp bức. “Muc tiêu câp thiêt của cách mạng ở thuộc địa chưa phải là giành quyên lợi ̣ ́ ́ ̀ riêng biêt cua môi giai câp, mà là quyên lợi chung cua toàn dân tôc. Đó là những muc ̣̉ ̃ ́ ̀ ̉ ̣ ̣ tiêu chiên lược cua đâu tranh dân tôc phù hợp với xu thế của thời đại cach mang ́ ̉ ́ ̣ ́ ̣ chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc, đap ứng nguyên vong độc lập, tự do ́ ̣ ̣ ̉ ̀ ́ cua quân chung nhân dân”[3] Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc là đánh đổ Đế quốc pháp và đại địa chủ phong kiến giành độc lập dân tộc. Cần vận động tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang bị mất nước. Công nông là gốc, liên minh với các giai tầng khác phải chú ý đến lợi ích của giai cấp công-nông của dân tộc. . Khoa Mác-Lênin, trường đại học Công Nghiệp TPHCM, Đề cương bài giảng Tư Tưởng Hồ Chí Minh,tr.39 2 . Khoa Mác-Lênin, trường đại học Công Nghiệp TPHCM, Đề cương bài giảng Tư Tưởng Hồ Chí Minh,tr.40 3 11
  12. Do nhận thức khác nhau về yêu cầu, mục tiêu của cách mạng vô sản ở các nước tư bảnphát triển với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, lại bị chi phối bởi quan điểm tả khuynh của quốc tế cộng sản VI, các đại biểu của quốc tế cộng sản cho rằng Nguyễn Ái Quốc đi theo chủ nghĩa dân tộc mà “quên mất lợi ích đ ấu tranh giai cấp”. Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh: công-nông là gốc của cách mạng; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ cũng bị tư sản áp bức, song không cực khổ bằng công-nông; ba hạng người ấy là bầu bạn của công – nông. 12
  13. 1.3. CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC PHẢI THEO CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN. 1.3.1. Rút ra bài học từ sự thất bại của con đường cách mạng trước đó. “Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân pháp ,ông cha ta đã sử dụng nhiều con đường gắn với các khuynh hướng chính trị khác nhau, sử dụng những vũ khí tư tưởng khác nhau”. “Tất cả các phong trào cứu nước của ông cha ta ,mặt dù diễn ra r ất mạnh mẽ với tinh thần rất bất khuất .Nhưng cuối cùng điều bị thực dân pháp dìm trong biển máu. Đất nước rơi vào tình trạng hết sức khó khăn.Đó là tình tr ạng khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam đầu thế kỉ XX. Nó đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm con đường cứu nước mới”. “Trong bối cảnh đất nước biến thành thuộc địa nhân dân chịu cảnh lầm than .Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh như thế. Hồ Chí Minh hiểu được nỗi khốn khổ đó và người nhận ra rằng con đường cứu nước của Phan Bội Châu chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước rước beo cửa sau”. Con đường cứu nước của Phan Châu Trinh và Lương Văn Can cũng chẵng khác gì “xin giặc rũ lòng thương”. Con đường cứu nước của Hoàng Hoa Thám có phần thực tế hơn nhưng vẫn mang nặng chất phong kiến. Chính vì thế, mặt dù rất khâm phục tinh thần cứu nước c ủa các b ậc tiền bối đi trước. Nhưng Hồ Chí Minh không tán thành mà quyết đ ịnh ra đi tìm con đường cứu nước mới”[4] 1.3.2. Cách mạng tư sản là không triệt để Người đi nhiều nước trên thế giới ,tìm hiểu khảo sát thực tiễn và lý luận nhất là ở ba nước tư bản phát triển mạnh: Mỹ, Anh, Pháp. Người đã đọc tuyên ngôn độc lập của Mĩ, tìm hiểu thực tiễn của cách mạng tư sản Mĩ và đọc Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của cách mạng Pháp. Người nhận thấy cả hai cuộc cách mạng này điều là cuộc cách mạng không triệt Khoa Mác-Lênin, trường đại học Công Nghiệp TPHCM, Đề cương bài giảng Tư Tưởng Hồ Chí Minh,tr.41 4 13
  14. để, thực chất của tư bản là con đĩa hai vòi một vòi bám ở đế quốc một vòi bám ở các nước thuộc địa.Tuy cuộc cách mạng thành công nhưng sau đó đã bộc lộ nhiều han chế mâu thuẩn giữa giai cấp vô sản và tư sản không được giải quyết và càng ngày càng gay gắt hơn.Bởi lẽ đó người đã không chọn đi theo con đường cách mạng tư sản.Cho tới khi Cách Mạng Tháng Mười Nga thắng lợi người đến Liên xô và đọc được bản soạn thảo của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Người quyết định đi theo con đường cách mạng vô sản theo định hướng của chủ nghĩa xã hội. 1.3.3. Con đường giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh thấy được cách mạng tháng Mười Nga không chỉ là một cuộc cách mạng vô sản, mà còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó còn là hồi trống đánh thức tỉnh các dân tộc thuộc địa khác mở ra thời đại cách mạng chống đế quốc, giải phóng dân tộc. Người luôn luôn tin tưởng đi theo con đường của Lênin và Quốc tế ba. Hồ Chí Minh thấy rằng lí luận của Lênin là một phương hướng mới để giải phóng dân tộc . Từ đó người đã khẳng định “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Người đã vạch ra con đ ường cứu nước gồm các điểm sau: Thứ nhất: Cách mạng muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Thứ hai: Cách mạng muốn thắng lợi phải do Đảng lãnh đạo. Thứ ba: Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân trên cơ sở liên minh công nông. Thứ tư: Cách mạng dân tộc cần được tiến hành chủ động sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc. Thứ năm: Cách mạng giải phóng dân tộc phải thực hiện bằng con đường bạo lực cách mạng và kết hợp với đấu tranh chính trị của quần chúng và lực lượng nhân dân. Thứ sáu: Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin. 14
  15. Người khẳng định: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”,”… chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng được dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. 1.4. CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TRONG THỜI ĐẠI MỚI PHẢI DO ĐẢNG CỘNG SẢN LÃNH ĐẠO 1.4.1. Cách mạng trước hết phải có Đảng Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam qua các chặng đường gian nan thử thách, Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định một chân lý là: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là cách mạng vô sản. Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: chủ nghĩa đ ế quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, t ức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là “một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”, phát triển nhịp nhàng với cách mạng vô sản. Sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ phát huy khi được tập hợp, đoàn kết và được lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng Cộng. Giai cấp mà không có Đảng lãnh đạo thì không làm cách mạng được. Do đó, Người khẳng định “trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên l ạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đang có vững thì cach mênh mới ̉ ́ ̣ thanh công cung như người câm lai có vững thì thuyên mới chay...”. ̀ ̃ ̀ ́ ̀ ̣ 1.4.2. Đảng Cộng Sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định: muốn sự nghiệp giải phóng dân tộc thành công “Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công” “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh 15
  16. nhất là chủ nghĩa Lênin”. Hồ Chí Minh đã khẳng định nguyên tắc xây dựng Đảng: Đảng của giai cấp công nhân phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đ ảng kiểu mới của Lênin. Đảng Cộng Sản là một bộ phận của giai cấp công nhân, nhưng là bộ phận tiên tiến nhất, đại diện cho lợi ích và trí tuệ của giai cấp công nhân. Đồng thời, Đảng Cộng Sản có lý luận Cách mạng khoa học, đề ra đường lối chiến l ược sách lược để dẫn đường cho cuộc Cách mạng giải phóng dân tộc – Đảng Cộng Sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất. “Năm 1930, Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, một chính đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh và mật thiết liên lạc với quần chúng”,“Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng Sản đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt Nam. Đó là một đặc điểm đồng thời là một ưu điểm của Đảng. Nhờ đó, Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với Cách mạng Việt Nam và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi cách mạng”. Tóm lại, lý luận Cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh đã giải quyết được vấn đề đường lối cứu nước, chuẩn bị được những điều kiện về tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đảng Cộng Sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất đưa Cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi, giúp dân tộc Việt Nam giành độc lập. Sau khi giành độc lập dân tộc, Đảng vẫn tiếp tục là người lãnh đạo để thực hiện nhiệm vụ giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cũng đã khẳng định rằng, chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam mới có đủ bản lĩnh, năng lực uy tín kinh nghiệm được lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đưa đất nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đã đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, thống nhất Tổ quốc, đ ưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội - chủ nghĩa thành công. Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ thể hiện bản lĩnh kiên cường, tầm trí tuệ trong lãnh đạo đấu tranh cách mạng, trong 16
  17. tiến hành chiến tranh giải phóng đánh đuổi thực dân, đế quốc sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa mà còn thể hiện bản lĩnh, tâm trí tuệ trong lãnh đạo kinh tế, xây dựng đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập, trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế như hiện nay. 1.5. LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC BAO GỒM TOÀN DÂN TỘC 1.5.1. Cách mạng là sự nghiệp của dân chúng bị áp bức Năm 1924, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân. Người cho rằng: “ Để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương: Phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải là một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị từ quần chúng…” Hồ Chí Minh nghiêm khắc phê phán việc lấy ám sát cá nhân và bạo động non làm phương thức hành động, “hoặc xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức, hoặc làm cho dân ỷ lại mà quên tính tự cường”. Người khẳng định “cách mạng là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc của một hai người”. Trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Người xác định lực lượng cách mạng bao gồm dân tộc: Đảng phải tập hợp mọi bộ phận giai cấp công nhân, đại bộ phận nông dân …đi vào phe vô sản; đối với phú nông, trung tiểu tư sản mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng.Bộ phận nào phản cách mạng thì phải l ật đổ. Trong Chỉ thị thành lập Đội Việt nam tuyên truyền giải phóng quân (22-12-1944), Người viết: “ Cuộc kháng chiến của chúng ta là cuộc kháng chiến của toàn dân, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân”. Hồ Chi Minh đã khẳng định, trong thời đại chúng ta, một dân tộc đoàn kết chặt chẽ, đấu tranh kiên quyết,hoàn toàn có thể đánh bại bọn đế quốc xâm lược hung hãn, gian ác và có nhiều vũ khí.Hồ Chí Minh không chủ trương tiến hành chiến tranh thông thường, dựa vào lực l ương quân đ ội và tiến hành một số trận quyết tử với kẻ thù, mà chủ trương phát động chiến tranh nhân dân. 17
  18. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo của quần chúng là then chốt đảm bảo thắng lợi. Người khẳng định: “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi”. “Phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt được”. “Chúng ta tin chắc vào tinh thần và l ực lượng của quần chúng , của dân tộc.” 1.5.2. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc Dưới chế độ cai trị của chủ nghĩa tư bản Pháp, từ một xã hội phong kiến thuần túy, Việt Nam đã biến thành một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Mặc dù thực dân còn duy trì một phần quan hệ kinh tế và giai cấp địa chủ phong kiến, song khi đã thành một chế độ thuộc địa thì tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và giai cấp ở Việt Nam đều bị đặt trong quỹ đạo chuyển động của xã hội đó. Ngoài các giai cấp nông dân và công nhân, giai cấp tư sản dân tộc, và một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ mặc dù cũng có hạn chế trong quan hệ với quần chúng lao động, nhưng trong quan hệ với đế quốc Pháp thì họ là những người Việt Nam chịu nỗi nhục mất nước. Đó không phải là những giai cấp thống trị, mà trái l ại, có khả năng tham gia phong trào giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh phân tích: “… dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công , thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Trong lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh hết sức nhấn mạnh vai trò động lực cách mạng của công nhân và nông dân. Người phân tích: “các giai cấp công nhân và nông dân có số lượng đông nhất, nên có sức mạnh lớn nhất. Họ bị áp bức bóc lột nặng nề nhất, lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết…công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu đ ược thì đ ược cả thế giới, cho nên họ gan góc”. Trong khi hết sức nhấn mạnh vai trò của công nhân và nông nhân, Hồ Chí Minh không coi nhẹ khả năng tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc của các giai cấp và tầng lớp khác. Người coi tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ phận giai cấp địa chủ là bạn đồng minh của cách mạng. Người chỉ rõ; “… 18
  19. học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư sản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mạng của công nông thôi”[5] . Khoa Mác-Lênin, trường đại học Công Nghiệp TPHCM, Đề cương bài giảng Tư Tưởng Hồ Chí Minh,tr.46 5 19
  20. 1.6. CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC PHẢI ĐƯỢC TIẾN HÀNH CHỦ ĐỘNG, SÁNG TẠO VÀ CÓ KHẢ NĂNG GIÀNH THẮNG LỢI TRƯỚC CÁCH MẠNG VÔ SẢN Ở CHÍNH QUỐC 1.6.1. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn độc quyền thì các nước thuộc địa trở thành một trong những nguồn sống chủ yếu của chủ nghĩa đế quốc. “Tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản đế quốc đều lấy ở các xứ bản địa. Đó là nơi chủ nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các nàh máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ công nhân rẻ mạt cho các đạo quân lao động của nó, và nhất là tuyển những binh lính bản xứ cho các đạo quân cách mạng của nó”, “…nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa”. Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu tranh giành độc lập 1919 Nguyễn Ái Quốc gởi đến hội nghị Véc Xây bản yêu sách gồm tám điểm, nhưng không được chấp nhận,Người nhận thấy cần phải tự lực tự cường. Công cuộc giải phóng dân tộc thuộc địa chỉ có thể thực hiện bằng sự nỗ lực tự giải phóng, vận dụng công thức của C.Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Người đi đến luận điểm: “Công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. “Kháng chiến trường kì gian khổ đồng thời lại phải tự lực cánh sinh. Trông vào sức mình… Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2