intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Ủy ban Tham mưu Quân sự - Từ hiến chương đến thực tiễn hoạt động

Chia sẻ: Hoàng Thanh Hiền | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:21

99
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận: Ủy ban Tham mưu Quân sự - Từ hiến chương đến thực tiễn hoạt động trình bày về Tổng quan về Ủy ban Tham mưu Quân sự; nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của Ủy ban Tham mưu Quân sự; tương lai của Ủy ban Tham mưu Quân sự. Mời các bạn tham khảo để nắm bắt nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Ủy ban Tham mưu Quân sự - Từ hiến chương đến thực tiễn hoạt động

  1.                                HỌC VIỆN NGOẠI GIAO VIỆT NAM KHOA LUẬT QUỐC TẾ BỘ MÔN LUẬT TỔ CHỨC QUỐC TẾ TIỂU LUẬN ỦY BAN THAM MƯU QUÂN SỰ: TỪ HIẾN CHƯƠNG ĐẾN THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG  Sinh viên thực hiện: Nguyễn Tùng Lâm Lớp: LQT39E Hà Nội 1/2015
  2. LỜI NÓI ĐẦU Trong hai năm đầu  của thế kỉ XX, thế giới đã phải trải qua hai cuộc chiến lớn  nhất và tàn khốc nhất trong lịch sử loài người . Bước ra sau cuộc chiến, cả bên bại  trận lẫn bên thắng trận đều phải chịu những hậu quả vô cùng nặng nề  về mọi  mặt. Nhân dân thế giới đã nhận ra sự vô nghĩa của chiến tranh , cũng như   sự lo sợ  về nguy cơ bùng phát một cuộc chiến tranh quy mô toàn thế giới như vậy.  Vì thế ,  Liên Hiệp Quốc đã ra đời  như một tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh, đóng vai trò  duy trì hòa bình và an ninh trên toàn thế giới , “ phòng ngừa cho những thế hệ  tương lai khỏi thảm họa chiến tranh, đã xảy ra hai lần trong đời chúng ta, gây cho  nhân loại đau thương không kể xiết”1 . Để thực hiện tốt điều này, Liên hiệp quốc  đã thành lập nên những cơ quan chuyên trách để giám sát các hoạt động  giữ gìn  hòa bình , hướng đến việc hạn chế vũ trang cũng như giải trừ quân bị trên quy mô  toàn thế giới. Ủy ban tham mưu quân sự là một cơ quan như thế. Ra đời và được  ghi nhận ngay trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc , Ủy ban tham mưu quân sự  được kì vọng trở thành một cơ quan giúp việc cho Liên hợp quốc về tất cả những  vấn đề liên quan đến các yêu cầu quân sự của Liên Hiệp Quốc, bao gồm cả việc  quản lý, chỉ huy, chỉ đạo chiến lược của bất kỳ lực lượng vũ trang đặt dưới sự chỉ  huy của Liên Hiệp Quốc, cũng như các quy định về vũ khí và giải trừ vũ khí chiến  lược . Tuy nhiên, trên thực tế, vì những lý do chủ quan cũng như khách quan mà  cơ  quan này từ lâu đã  đi dần vào quên lãng và buộc phải chuyển những nhiệm vụ của  mình cho những cơ quan khác của Liên Hợp Quốc.  Thế nhưng , thời gian gần đây,  do những  biến động lớn của thế giới, đe dọa đến nền hòa bình an ninh toàn cầu và  tranh luận xung quanh việc “can thiệp nhân đạo”,  vấn đề về việc có nên thành lập  một lực lượng thường trực để thực thi các biện pháp hòa bình  hay không đã khiến  cho người ta lại đặt mối quan tâm đến cơ quan  này.  Trong bài tiểu luận này,  chúng ta sẽ tìm hiểu về lịch sử hình thành nên cơ quan này, cách thức hoạt động  của Ủy ban tham mưu quân sự , tại sao cơ quan này lại rơi vào quên lãng cũng như  tương lai của cơ quan này trong thời đại hiện nay. 1 Lời mở đầu Hiến chương Liên hiệp quốc 
  3.   Trong quá trình  thực hiện tiểu luận này không tránh khỏi những sai sót , vì thế em  rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô để em có thể hoàn  thiện tốt hơn kĩ năng của bản thân cũng như bổ sung thêm những thiếu sót . Hà Nội, ngày 29 tháng 1 năm 2015  Nguyễn Tùng Lâm I.Tổng quan về Ủy ban tham mưu quân sự 1. Lịch sử hình thành và hoạt động của Ủy ban tham mưu quân sự 1.1.Nguyên nhân thành lập Ủy ban tham mưu quân sự là một cơ quan khá đặc biệt của Liên Hiệp Quốc khi nó là cơ  quan  hỗ trợ  duy nhất được ghi nhận ngay  tại Hiến chương Liên Hợp Quốc , với những  điều khoản quy định chi tiết vai trò, nhiệm vụ. cách thức hoạt động, của nó. Năm 1945,  các nhà soạn thảo Hiến chương Liên Hợp Quốc thành lập một hệ thống an ninh tập thể,  dựa trên tiền đề rằng việc đạt được hòa bình và an ninh quốc tế  cần  đến một phản ứng  chung của cả cộng đồng các quốc gia thành viên thông qua kênh chỉ đạo của Hội đồng  Bảo an. Điều này đã được hệ thống trong Hiến chương và được coi như là một yếu tố  quan trọng của tổ chức này. Cụ thể, theo Chương VII của Điều lệ, sau khi đánh giá tình  hình phù hợp với Điều 39 (hành động xâm lược, phá hoại hòa bình hoặc một mối đe dọa  đối với hòa bình), Hội đồng Bảo an có thể  thực hiện song song việc áp đặt lệnh trừng  phạt kinh tế theo Điều 41trước, trong hoặc sau khi thực hiện  Điều 42, "áp dụng  các lực  lượng hải, lục, không quân mà Hội đồng bảo an xét thấy cần thiết để duy trì hoặc khôi  phục hòa bình và an ninh quốc tế "; bao gồm "các cuộc biểu tình, phong tỏa và các hoạt  động khác của lực lượng hải, lục, không quân do các thành viên Liên Hợp Quốc thực hiện  ", với sự hỗ trợ có thể của hiệp định hoặc tổ chức khu vực2; Điều 45 cũng quy định việc  thi hành các biện pháp quân sự  khẩn cấp . Về mặt này, theo Điều 43, tất cả các nước  thành viên "có nghĩa vụ cung cấp cho Hội đồng bảo an những lực lượng vũ trang, sự yểm  trợ và mọi phương tiện khác, kể cả việc cho phép quân đội Liên Hiệp Quốc đi qua lãnh  2 Theo điều 53 của Hiến chương
  4. thổ của mình” Để đảm bảo sự phối hợp cần thiết các lực lượng mang bởi tính chất rất  khác nhau, nhưng trên tất cả phải đảm bảo vai trò lãnh đạo hàng đầu của  Liên Hiệp  Quốc, tổ chức này đã lập nên một cơ quan mang vai trò tham vấn trong những trường hợp  này. Và Ủy ban tham mưu quân sự đã ra đời từ đó. Hiến chương đã ghi nhận rằng "các kế  hoạch cho việc sử dụng các lực lượng vũ trang sẽ do Hội đồng bảo an đề ra với sự giúp  đỡ của Ủy ban tham mưu quân sự 3". Ủy ban này bao gồm tham mưu trưởng của các thành  viên  thường trực của Hội đồng bảo an hoặc người đại diện của họ, có nhiệm vụ tham  vấn một cách  hiệu quả cho Hội đồng Bảo an về tất cả các vấn đề liên quan đến  quân  sự, việc tuyển dụng   và chỉ huy của các lực lượng, các quy định về vũ khí và giải trừ  quân bị 4. Nhưng trên tất cả, các Ủy ban tham mưu quân sự  phải chịu trách nhiệm cho các  định hướng chiến lược của tất cả lực lượng quân sự hiện có, dưới quyền của Hội đồng  bảo an . Ủy ban này được đặt  bên dưới các cơ quanvà chức danh chính được liệt kê cụ  thể trong Hiến chương : Hội đồng Bảo an, Đại hội đồng,  Tòa án Công lý Quốc tế, Tổng  thư ký, Hội đồng Kinh tế và Xã hội, Hội đồng Ủy thác. Như đã nói ở trên, Ủy ban tham  mưu quân sự là một cơ quan khá đặc biệt  khi việc phân định loại cơ quan của  nó có vẻ  hơi mơ hồ vì nó dường như Ủy ban tham mưu quân sự không được coi là một cơ quan  giúp việc  trong phạm vi ý nghĩa của Điều 29 của Hiến chương, cũng như trong  quy định  của khoản 2 Điều 75. Tuy nhiên, khi nghiên cứu Hiến chương, ta có thể coi Ủy ban tham  mưu quân sự như một cơ quan  kỹ thuật (un organe technique)  cho Hội đồng Bảo an   trong việc thẩm định và trình bày ý kiến, đưa ra ý kiến tham vấn. Nói cách khác , theo  câu  chữ của Hiến chương, ta có thể hiểu rằng , Hội đồng Bảo an có trách nhiệm duy trì hòa  bình, an ninh thế giới bằng cách sử dụng lực lượng được cung cấp bởi các quốc gia thành  viên. Và Ủy ban tham mưu quân sự sẽ chịu trách nhiệm chỉ huy chiến lược cho tất cả các  lực lượng vũ trang thuộc quyền điều hành của Hội đồng bảo an6 1.2. Lịch sử hoạt đông của Ủy ban 3 Theo điều 46 của Hiến chương 4 Theo điều 47 của Hiến chương 5 Theo khoản 2 điều 7 Hiến chương: “ những cơ quan giúp việc nếu xét thấy cần thiết, có thể được thành  lập theo Hiến chương này. Nếu như Ủy ban tham mưu quân sự là một cơ quan giúp việc như vậy , nó sẽ  không được trích dẫn và nêu tên trong Hiến chương  mà sẽ được thành lập trong quá trình thực hiện theo  Hiến chương này 6 Xem thêm điều 47 Hiến chương
  5.  Nghị quyết đầu tiên của Hội đồng bảo an  đưa ra việc chỉ đạo hoạt động cho Ủy ban  tham mưu quân sự  được thông qua ( mặc dù không có việc bỏ phiếu thông qua nào) vào    ngày 1/2/1946.  Tuân thủ theo đúng nghị quyết này,  Ủy ban tham mưu quân sự đã mời các  đoàn đại biểu của lực lượng không quân , hải quân và lục quân của các nước thành viên  thường trực Liên Hiệp Quốc ( Anh, Liên Xô, Mỹ , Pháp ,Trung Quốc) họp với nhau tại  London vào tháng Hai năm 1946  để bàn về thủ tục hoạt động cũng như các nguyên tắc  chung của cơ quan này. Ủy ban tham mưu quân sự đã thống nhất được thủ tục hoạt động  của mình thông qua nghị quyết S/10( bị hạn chế). Các quốc gia tham dự hội nghị cũng đã  thống nhất việc nghiên cứu điều 43 trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc về  nghĩa vụ  đóng góp lực lượng  của các quốc gia thành viên , Liên Hợp Quốc , từ đó đề ra những quy  định cụ thể, các biện pháp chung khi thực hiện việc này.  Từ  ngày 9 tháng 4 đến 24 tháng 7 năm 1946, Ủy ban tham mưu quân sự đã tích cực nghiên  cứu , phát triển những nguyên tắc chung dựa vào điều 43 của Hiến chương . Tuy nhiên, thời  điểm này, tổng thư kí Liên hiệp Quốc Tryve Lie đã có những động thái phản đối những dự  thảo của Ủy ban. Tổng thư kí  đã cho rằng những dự thảo điều lệ và quy tắc về thủ tục của  Ủy ban tham mưu quân sự không công nhận đầy đủ những quyền hạn ,trách nhiệm quan trọng  cũng như những đặc quyền cơ bản của  chức vụ Tổng thư kí . Chính vì vậy, vào ngày 1 tháng  tám năm 1946, Ủy ban tham mưu quân sự phải đưa ra một văn bản sửa đổi cho Quy định thủ  tục (S/10) ban hành trước đó bằng một văn bản khác , trong đó quy định thêm những thẩm  quyền đặc biệt của Tổng thư kí Liên Hiệp Quốc ( S/115) Sau khi đã thống nhất thông qua được thủ tục hoạt động của mình ,  Ủy ban tham mưu quân  sự  đã bắt đầu thực hiện các hoạt động mang tính thực tiễn của mình.  Cơ quan này đã nghiên  cứu về việc giải trừ quân bị trên phạm vi toàn cầu. Vào năm 1947, Đại hội đồng đã thông qua  một số nghị quyết quan trọng về việc giải trừ quân bị, và một trong các nghị quyết ấy đã  kêu  gọi Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc trao  cho Ủy ban tham mưu quân sự quyền hạn trong  hoạt động này và công nhận những kết quả thảo luận về vấn đề giải trừ quân bị của Ủy ban  này, được thực hiện vào tháng Tư năm 1947.  Đáp lại những lời kêu gọi này, Hội đồng bảo an  đã thông qua một nghị quyết để tạo hiệu lực cho các nghị quyết về giải trừ quân bị của Đại  hồi đồng trước đó, cũng như chính thức yêu cầu Ủy ban tham mưu quân sự phải gửi báo cáo  về vấn đề này. Cũng trong nghị quyết này, Hội đồng bảo an cũng nói đến việc thành lập nên  một Ủy ban về vũ khí thông thường (Commission for Conventional Armaments) và hỏi ý kiến  của Ủy ban tham mưu quân sự về kiến nghị này, vì có thể những mục đích cũng như đối  tượng của các cơ quan này có thể tương đương nhau và có thể gây ra chồng chéo trong việc  thực hiện quyền hạn.  Sau khi nhận được yêu cầu của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc,  Ủy  ban tham mưu quân sự đã đệ trình ngay sau đó bản báo cáo của mình vào ngày 30 tháng Tư với 
  6. 10 chương 41 điều7,  trong đó Ủy ban  thể hiện sự đồng ý về đa số những  điều ghi nhận trong  nghị quyết này.     Cũng trong thời gian này, Ủy ban tham mưu quân sự đã có những quan tâm đến vấn đề có nên  thiết lập một lực lượng quân sự thường trực hay không. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thế  giới vẫn tiềm ẩn những nguy cơ bùng phát nên những cuộc chiến tranh mới, vì thế có ý kiến  cho rằng Liên Hiệp Quốc nên duy trì một lực lượng quân sự  thường trực , có nhiệm vụ giám  sát và ứng phó nhanh đối với các thế lực có khả năng làm tổn hại đến hòa bình và an ninh thế  giới. Trên thực tế, mặc dù đã có những nguyên tắc về đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan  hệ quốc tế, nhưng ban đầu, việc sử dụng vũ lực của Liên Hiệp Quốc không được quy định rõ  ràng . Liên Hiệp Quốc mặc dù chưa bao giờ thể hiện ý định sẽ có một lực lượng quân sự  riêng của mình, nhưng thay vào đó, các quốc gia thành viên, kể cả là những thành viên ngoài  Hội đồng bảo an sẽ phải có nghĩa vụ đóng góp quân đội, trang thiết bị , khí tài nếu như Hội  đồng bảo an có yêu cầu, phù hợp với điều 42 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc.  Trong  những trường hợp như vậy, các lực lượng này sẽ đặt dưới sự định hướng chiến lược của Ủy  ban tham mưu quân sự.  Trước khi các nguyên tắc hoạt động chung của Ủy ban tham mưu  quân sự được thống nhất và thông qua, cơ quan này đã thiết lập một tiểu ban vào tháng Năm  năm 1947 để dự trù sức mạnh của các lực lượng quân sự khi các quốc gia đóng góp và sự phân  bổ của các lực lượng này. Ủy ban này cho rằng  lực lượng không quân sẽ là lực lượng thích  hợp  nhất cho các trường hợp khẩn cấp. Điều này đã được ghi nhận tại điều 45 Hiến chương  Liên Hiệp Quốc : “ Với mục đích đảm bảo cho Liên Hiệp Quốc có thể áp dụng những biện  pháp quân sự khẩn cấp , các thành viên phải báo động cho một số phi đội không quân vào tư  thế sẵn sàng chiến đấu nhằm phối hợp với các hành động quốc tế có tính chất cưỡng chế. Số  lượng, mức độ chuẩn bị và kế hoạch phối hợp hành động của các phi đội này sẽ được Hội  đồng bảo an, với sự giúp đỡ của Ủy ban tham mưu quân sự , ấn định theo những hiệp ước đặc  biệt nói ở điều 43” . Từ các tài liệu viết về các MSC, các tham mưu trưởng Vương quốc  Anh  cho biết các quốc gia thuộc các thành viên thường trực Liên Hiệp Quốc (P5) cam kết sẽ đóng  góp phần lớn lực lượng quân sự cho Liên Hiệp Quốc. Các tham mưu trưởng này  giải thích  thuật ngữ "phần lớn" có nghĩa là những P5 sẽ đóng góp hai phần ba của một lực lượng Liên  Hiệp Quốc, và dựa trên tính toán của họ trên tổng số sức mạnh của một lực lượng Liên Hiệp  Quốc mà có thể bao gồm Lực lượng không quân  ­ 600 máy bay ném bom, máy bay chiến đấu 400, 200 máy bay khác  Hải quân ­ 2 thiết giáp hạm, 4 tàu sân bay, tàu tuần dương 6, 24 tàu khu trục, 48 tàu khu trục,  24 tàu quét mìn, 12 tàu ngầm, vũ khí chiến đấu cho 2 lữ đoàn 7 "Report of the Military Staff Committee", UN Security Council Official Records, Second Year, Special  Supplement No. i, New York: 1947
  7. Lục quân : 8 đến 12 quân đoàn Tới năm 1947, các đề xuất khác nhau của P5 chỉ ra rằng các lực lượng có thể được tăng lên: Không quân ­ 750 máy bay ném bom, máy bay chiến đấu 500, 25 người khác, tổng số 1.500  Lực lượng Hải quân ­ 3 tàu chiến, 6 tàu sân bay (4 đội, 2 ánh sáng), 12 tàu tuần dương, tàu khu  trục 33, 64 tàu khu trục, 24 tàu quét mìn, 14 tàu ngầm, cuộc sống tấn công cho bốn nhóm lữ  đoàn (16.000 người) Lục quân  ­ 15 sư đoàn (375.000 ­ 450.000 người)8  Tuy nhiên, đó chỉ là những dự tính ban đầu khi thành lập nên Ủy ban tham mưu  quân sự. Còn trên thực tế, chỉ vỏn vẹn hai mươi chin tháng sau khi được thành lập,   vào ngày 2 tháng Bảy năm 1948, cơ quan này đã báo cáo lên Hội đồng bảo an rằng  Ủy ban không thể  thực hiện được chức năng của nó. Liên Hiệp Quốc đã có những  nỗ lực để giúp duy trì hoạt động của Ủy ban tham mưu quân sự  , nhưng không đạt  được những kết quả khả quan nào. Năm 1950, Đại hội đồng đề nghị Hội đồng  Bảo an, trong Nghị quyết Achesoncó đề cập về việc  " phát triển các biện pháp  được thực tiễn chứ không phải các Điều 43, 45, 46 và 47 của Hiến chương Liên  Hợp Quốc, đặc biệt là liên quan đến các hoạt động hiệu quả của Ủy ban tham mưu  quân sự  "9. Tuy nhiên, hoạt động của Ủy ban này vẫn trì trệ và dân đi vào quên  lãng,  hoặc có chăng cũng chỉ là những cuộc gặp gỡ của các thành viên trong Ủy  ban, nhưng không được ghi nhận chính thức.  Cơ quan này dường như chỉ tiếp tục  hoạt động sau một quãng thời gian dài  vào năm 1990, khi Hội đồng Bảo an kêu gọi  các nước hữu quan  phối hợp các hoạt động của họ trong  lĩnh vực thực hiện các  lệnh cấm vận đối với Iraq bằng cách  sử dụng các cơ chế phù hợp của Ủy ban  tham mưu quân sự. Ngoài ra Ủy ban tham mưu quân sự cũng nhận nhiệm vụ điều  phối  các lực lượng quân sự để chống lại Iraq.10 Năm 1992, Tổng thư kí Liên Hiệp  Quốc, trong một chuyến công du của mình , đã  kêu gọi Ủy ban tham mưu quân sự  8 Số liệu theo “ The Military Staff Committee: A Possible Future Role in UN Peace Operations?” https://www.globalpolicy.org/component/content/article/199­peacekeeping/40932­the­military­staff­committee­ a­possible­future­role­in­un­peace­operations­.html truy cập ngày 20/1/2015  9 Nghị quyết 377 (V) Ngày 3 tháng 11 năm 1950 10 Nghị quyết 665 (1990) ngày 25 tháng 8 năm 1990. Liên Xô đã đề nghị Liên Hiệp Quốc trao nhiệm vụ này  cho Ủy ban tham mưu quân sự. Tuy nhiên, nhiệm vụ của Ủy ban tham mưu quân sự lúc đó chỉ tập trung  chính vào việc thực hiện việc cấm vận, vì đã có những biện pháp với quy mô lớn buộc Iraq phải rút quân ra  khỏi Kuwait
  8. thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ của mình  khuôn khổ của Chương VII và không  nằm trong  các hoạt động gìn giữ hòa bình 11. Cũng trong năm 1992, Đại hội đồng  đã được phê duyệt, về cơ bản, những lời phát biểu của Tổng thư kí12. Việc này vô  hình trung đã làm hạn chế khả năng của Ủy ban tham mưu quân sự,  khi tách biệt  hai nhiệm vụ gìn giữ hòa bình và nhiệm vụ hành động trong trường hợp hòa bình bị  đe dọa, bị phá hoại hoặc có hành vi xâm lược. Tuy nhiên,  Hội đồng bảo an hay  thậm chí là các thành viên chính thức của Ủy ban tham mưu quân sự lại không thể  hiện thái độ phản đối một cách mạnh mẽ với các nghị quyết  và tuyên bố này.  Điều này thể hiện rằng các quốc gia P5 dường như đang thờ ơ , hoặc phớt lờ đi  việc tái hoạt động của Ủy ban tham mưu quân sự. Nhưng vấn đề này vẫn được  đưa ra thảo luận hoặc nhận được sự quan tâm bởi một số các quốc gia khác Ví dụ,  Canada, Malaysia, Úc nêu vấn đề tại các cuộc họp của Ủy ban gìn giữ hòa bình  (Département des opérations de maintien de la paix (DOMP)).Một tuyên bố khác  Ngày 12 tháng năm 1995, Đan Mạch Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Hans Haekkerup,  phát biểu rằng một nhóm các quốc gia (chủ yếu là phương Tây) mong muốn LHQ  thành lập một đội quân thường trực , có khả năng phản ứng nhanh với những tình  huống khẩn cấp. Trong số này, có Na Uy, Phần Lan, Canada, Bỉ, Hà Lan, Ba  Lan,Cộng hòa Séc, Áo, Argentina, Ireland, New Zealand vàĐan Mạch, đều bày tỏ  nguyện vọng đóng góp để tạo thành một lữ đoàn  phản ứng nhanh thường trực bao  gồm  4000­5000 người13.  Thật không may, những vị trí này đã không được theo dõi.   Như vậy , từ một cơ quan được được kì vọng sẽ thực hiện những vai trò quan  trọng trong việc bảo vệ nền hòa bình và an ninh thế giới, Ủy ban tham mưu quân  sự đã  trở thành một cơ quan kém hiệu quả , bế tắc và dần dẫn đến việc không  hoạt động trong thời gian dài. Theo như giáo sư Eric Grove thì  Ủy ban tham mưu  quân sự chỉ là một “công trình vô nghĩa cho những hi vọng mờ nhạt của những  người sáng lập nên Liên Hiệp Quốc”14 Tất nhiên, có rất nhiều nguyên nhân khiến  cho cơ quan này đã không thể thực hiện được những nhiệm vụ của mình 11 Báo cáo của Đại hội đồng ngày 30 tháng 6 năm1992 12 Nghị quyết 47/71 ngày 14 tháng 12 năm 1992 13 InterPress Service, 12 tháng 5 năm 1995. 14 GROVE E., "U.N. Armed Forces and the Military Staff Committee: A Look Back"International Security,  XVII, n° 4 (1993) pp. 172­182
  9. II. Nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của Ủy ban tham mưu quân sự 2.1 Nguyên nhân khách quan a. Các điều khoản trong hiến chương Có thể nói rằng việc hoạt động của Ủy ban tham mưu quân sự đã vấp phải những  khó khăn ngay từ khi bắt đầu quá trình làm việc của mình. Trước hết, các quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc khó có thể thực hiện được  theo những điều khoản liên quan đến việc hoạt động của Ủy ban tham mưu quân  sự. Cụ thể là , không phải quốc gia nào cũng có đủ tiềm lực quân sự hay kinh tế để  “ cung cấp lực lượng vũ quân đội Liên Hiệp Quốc đi qua lãnh thổ của mình”. 15  Việc đóng góp quân đội sẽ phải đi kèm theo các hiệp ước đã được kí kết từ trước,  nó có thể dẫn đến sự rắc rối trong việc kí kết các điều ước quốc tế giữa các quốc   gia và Liên Hiệp Quốc . Các hiệp ước này sẽ tạo ra sự ràng buộc với các quốc gia ,  tạo ra nghĩa vụ bắt buộc các quốc gia phải trích một phần quân số hoặc các  phương tiện khác, hoặc kinh phí để hỗ trợ hoạt động…Nó sẽ gây ra thêm áp lực  cho các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia còn khó khăn, khi mà đã phải tham gia  đóng góp những khoản phí bắt buộc khi gia nhập Liên Hiệp Quốc. Mặt khác, ngay  cả khi đã quy định việc đàm phán ký kết những hiệp định đã được quy định tại  điều 43 của Hiến chương thì những từ ngữ được sử dụng trong điều khoản này  cũng không  rõ ràng. Điều khoản không nêu rõ ràng được thời gian ký kết ( trong  Hiến chương sử dụng từ “càng sớm càng tốt theo sáng kiến của Hội đồng bảo an ).  Việc ký kết các hiệp ước được thực hiện thông qua biện pháp đàm phán và không  giới hạn về mức thời gian như vậy có thể sẽ khiến cho các quốc gia có thể đưa ra  những lý do khác nhau để trì hoãn việc đàm phán cũng như  việc ký kết điều ước.  Thực tế đã cho thấy kể từ khi bắt đầu hoạt động cho đến nay, ta chưa ghi nhận  được một hiệp ước quân sự đáng kể nào giữa quốc gia và Liên Hiệp Quốc có nội  dung liên quan đến điều 43 của Hiến chương.    Tương tự như vậy, điều 45 quy định về việc sử dụng lực lượng không quân của  các quốc gia cho những biện pháp quân sự khẩn cấp của Liên Hiệp Quốc, dưới sự  giúp đỡ của ủy ban tham mưu quân sự . Tuy nhiên, việc này chỉ đạt được khi các  quốc gia thành viên ấy ký kết với Liên Hiệp Quốc những hiệp ước đặc biệt theo  15 Điều 43 của Hiến chương
  10. quy định của điều 43 của Hiến chương, và các điều khoản trong các hiệp ước này  sẽ quy đinh mức độ chuẩn bị, số lượng và kế hoạch phối hợp hành động của các  phi đội này.  Như đã trình bày ở trên, sẽ có rất ít các quốc gia mong muốn và thiện  chí duy trì một lực lượng tác chiến chiến lược, luôn trong tình trạng sẵn sàng chiến  đấu nhưng không được sử dụng để phục vụ các nhiệm vụ của quốc gia mà phải  phụ thuộc theo lệnh của một tổ chức        Sự bất hợp lý tại hai điều khoản trên cũng ảnh hưởng đến khả năng tuân thủ  theo những điều khoản khác của Hiến chương. Mặc dù trên danh nghĩa , việc sử  dụng lực lượng vũ trang quốc tế sẽ do Hội đồng bảo an đề ra và quyết định, Ủy  ban tham mưu quân sự chỉ là một cơ quan giúp đỡ cho cơ quan này mà thôi16. Tức là  các quyết định này sẽ được thông qua sau khi có sự xem xét của cả các thành viên  thường trực lẫn không thường trực. Tuy nhiên, cơ quan đưa ra những ý kiến chuyên  môn lại là Ủy ban tham mưu quân sự. Xét về mặt cơ cấu tổ chức của Ủy ban này,  ta có thể thấy nó bao gồm các Tham mưu trưởng của các ủy viên thường trực Hội  đồng bảo an hoặc là địa diện của họ. Các quốc gia khác, kể cả trong hay ngoài Hội  đồng bảo an chỉ đóng vai trò là những “đối tượng  hợp tác” với cơ quan này. Nói  cách khác, nếu như Ủy ban tham mưu quân sự tiếp tục hoạt động một cách thuận  lợi như đã đề ra, nó sẽ là một cơ quan thể hiện sức mạnh quân sự to lớn của các  quốc gia là thành viên thường trực của  Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc(P5) –  những quốc gia vốn dĩ đã sở hữu những đặc quyền , tiêu biểu là quyền phủ quyết  (véto) trong  Hội đồng bảo an. Giả sử có một trường hợp khẩn cấp nảy sinh, lúc  đó, ý kiến của Ủy ban tham mưu quân sự sẽ chính là ý kiến của nhóm P5, và nó sẽ  có ảnh hưởng rất to lớn đến quyết định chung của Hội đồng bảo an   Xét trên phương diện của một quốc gia không thuộc P5, chắc chắn sẽ không có  một ai mong muốn  có một quốc gia hoặc một nhóm quốc gia nào đó có đặc quyền  quá lớn  về cả chính trị lẫn quân sự  và chi phối  những quyết định quan trọng của  Liên hợp quốc. Điều này cũng đi ngược hoàn toàn so với mong muốn, quyết tâm  của Liên hợp quốc  là “tin tưởng vào quyền bình đẳng giữa các quốc  gia lớn và  nhỏ”17  Như vậy, việc thiết lập và duy trì hoạt động của Ủy ban tham mưu quân sự đã vấp  phải những bất cập ngay trong quá trình tạo dựng  cơ sở pháp lý cho ủy ban này.  16 Điều 46, 47 của  Hiến chương  17 Lời mở đầu của Hiến chương
  11. Đó là lí do vì sao các quốc gia các quốc gia đã bỏ qua Ủy ban này trong suốt thời  gian từ những năm bốn mươi  đến thập kỉ chin mươi của thế kỉ trước b. Việc duy trì một lực lượng quân sự thường trực Khi thành lập nên Ủy ban tham mưu quân sự, Liên Hiệp Quốc đã cân nhắc đến ý  tưởng sẽ có một lực lượng quân sự thường trực , sẵn sàng với những trường hợp  khẩn cấp. ủy ban tham mưu quân sự thậm chí đã thành lập một tiểu ban để dự trù  số lượng quân đội của Liên Hiệp Quốc như đã giới thiệu tại phần đầu của bài tiểu  luận. Trong trường hợp các quốc gia chấp nhận sẽ thành lập nên một lực lượng  quân sự của Liên Hiệp Quốc thì khi ấy những vấn đề nan giải mới sẽ nảy sinh.  Trước hết là vấn đề đồn trú. Quân đội của Liên Hiệp Quốc sẽ được đồn trú tại  một địa điểm cố định hay sẽ đặt luôn tại các quốc gia cam kết gửi quân?  Nếu như  lực lượng quân sự vẫn đóng tại quốc gia cam kết gửi quân thì quân đội Liên Hiệp  Quốc sẽ tương đối phân tán , gây khó khăn cho việc ứng phó xử lí những trường  hợp cần  nhiều nhân lực, cũng như việc đồng bộ hóa quân đội và sự phối hợp hành  động giữa các lực lượng này. Nhưng nếu như  lực lượng này tập trung tại một địa  điểm thì có thể sẽ dẫn đến tình trạng bị động khi xảy ra một tình huống khẩn cấp  xảy ra ở xa địa điểm đồn trú. Các quốc gia cũng khó có thể chấp nhận chia sẻ một  phần không nhỏ  lãnh thổ của mình  để phục vụ cho lực lượng này Mặt khác việc duy trì lực lượng quân đội thường trực sẽ gặp phải những khó khăn  trong quá trình đào tạo , bảo dưỡng , thay mới vũ khí và yêu cầu can thiệp, tăng số  lượng quân đội khi có yêu cầu. Một điều đáng nói nữa là lực lượng này được  hưởng những đặc quyền tương đối lớn , đặc biệt là các quốc gia phải  cho phép  quân đội Liên Hiệp Quốc đi qua lãnh thổ của mình, theo điều 43 của Hiến chương.  Điều này có thể coi là không  thể thực hiện được, vì chủ quyền lãnh thổ của các  quốc gia là hoàn toàn, đầy đủ và tuyệt đối và nguyên tắc bất khả xâm phạm và toàn  vẹn lãnh thổ còn bao gồm việc không sủ dụng lãnh thổ quốc gia khi không có sự  đồng ý của quốc gia đó18 2.2.  Nguyên nhân chủ quan  c. Do bất đồng nội bộ trong Ủy ban  18 Lê Mai Anh(2013) Giáo trình luật quốc tế ( lần thứ 13 có sửa đổi), NXB Công an nhân dân , Hà Nội  ,tr165, 167
  12. Thành viên của Ủy ban tham mưu quân sự chỉ bao gồm năm đại diện của các quốc  gia là thành viên thường trực Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc. Việc phân chia  công việc hay quyền hạn cho các thành viên này gặp vấn đề khó khăn, bởi vì chức  vụ của các thành viên này đều là người lãnh đạo cao nhất trong quân đội mỗi nước.  Quan điểm của các thành viên trong Ủy ban tham mưu quân sự trong việc đóng góp  lực lượng , quân bị của các quốc gia, kể cả các quốc gia không thuộc  P5 cũng có  sự bất đồng mạnh mẽ. Liên Xô cho rằng việc đóng góp của nhóm nước P5 nên  giống hệt nhau, điều này xuất phát từ việc Liên Xô là nước chịu thiệt hại nhiều  nhất từ sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, vì thế Liên Xô không thể bỏ ra  quá nhiều nhân lực hay kinh phí để đảm bảo duy trì lực lượng quân sự và giữ được  tầm ảnh hưởng của mình trong ủy ban. Liên Xô cũng cho rằng các lực lượng quân  sự của Liên Hiệp Quốc chỉ cần đồn trú trên lãnh thổ của nước cam kết gửi  quân,  nhằm tránh việc các lực lượng quân sự sẽ sử dụng các căn cứ trên lãnh thổ nước  ngoài.  Ngoài ra Liên Xô còn cho rằng nên để giới hạn thời gian tái thiết  sau khi  chiếm đóng cũng như thời gian rút quân khi thực hiện xong nhiệm vụ từ 30­90  ngày, trong khi các nước khác cho rằng nên rút quân càng sớm càng tốt19 .. Trong khi  đó, Pháp lại muốn cho phép việc sử dụng lãnh thổ được ủy thác tại nước ngoài .   Anh,  Mỹ , và Trung Quốc lại mong muốn các lực lượng quân đội thường trực của  Liên Hiệp Quốc có thể được sử dụng vào trong các trường hợp khẩn cấp của quốc  gia20. Thế nhưng điều này lại đi trái với các quy định về lực lượng này được ghi  nhận trong Hiến chương ( điều 46, 47..). Điều này đã gây nên những ý kiến  trái  chiều trong nội bộ của Ủy ban tham mưu quân sự. Ngoài ra, Anh và Pháp còn cho  rằng lực lượng quân sự của Liên Hiệp Quốc cần nhận được sự  chỉ huy thống  nhất, và sẽ có một chức danh Chỉ huy tối cao thực hiện điều này, chứ không phải là  năm đại biểu của mỗi quốc gia.  Nhiều ý kiến cho rằng việc này sẽ giúp Anh và  Pháp có thêm nhiều cơ hội để  đạt được ảnh hưởng trong việc kiểm soát quân đội  của Liên Hợp Quốc . Tất nhiên, việc này không đạt được sự đồng ý của các thành  viên khác của Ủy ban, bởi vì nhiều lí do chính trị hay danh dự của quốc gia, các  Tổng tham mưu trưởng , đại diện cho quốc gia sẽ không bao giờ đồng ý cho một  Tổng tham mưu của một quốc gia khác có chức vụ và quyền hạn cao hơn mình.   19 Goldman, Ralph M, Is it Time to Revive the UN Military Staff Committee”, Cal State Uni, Center for the  Study of Armament and Disarmament, 1990, trang 9 20 "Report of the Military Staff Committee", UN Security Council Official Records, Second Year, Special  Supplement No. i, New York: 1947, trang  7
  13. Việc bất đồng trong quan điểm của các bên và không hề có sự nhượng bộ có thể là  một nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của cơ quan này  Một bất đồng khác dẫn đến sự chấm dứt hoạt động của Ủy ban tham mưu quân  sự chính là căng thẳng trong quan hệ Liên Xô – Mỹ trong thời kì Chiến tranh  lạnh(1947­1989) . Sau chiến tranh thế giới thứ hai, trật tự thế giới có sự thay đổi  một cách mạnh mẽ. Từ một trật tự thế giới đa cực, thế giới dần chuyển sang một  trật tự hai cực, đứng đầu là Liên Xô và Mỹ. Lúc này, mối liên kết giữa hai cường  quốc là kẻ thù chung  phát xít đã không còn nữa, những vấn đề bất đồng trước đó  giữa Liên Xô và Mỹ trước đó một lần nữa lại nảy sinh. “Mối quan hệ giữa Liên Xô  và các nước phương Tây (mà đại diện là Mỹ) không còn là quan hệ đồng minh mà  là quan hệ xuất phát trên những lợi ích hoàn toàn khác nhau, luôn đấu tranh không  khoan nhượng , làm cho tình hình thế giới có lúc rất căng thẳng”. Quan hệ giữa hai  cường quốc dần trở thành đối đầu trên toàn bộ các lĩnh vực  , “ mâu thuẫn và đấu  tranh luôn nổ ra trên các vấn đề chính trị, kinh tế, ngoại giao nhưng không dẫn đến  chiến tranh trực tiếp giữa hai siêu cường”21. Trong khi đó, Ủy ban tham mưu quân  sự có sự tham gia của cả Liên Xô và Mỹ ,lại liên quan đến việc điều phối các hoạt  động quân sự , giúp đỡ về việc phối hợp hành động của của các lực lượng quân  đội Liên Hiệp Quốc. Một điều có thể dễ dàng nhận thấy là sẽ không có chuyện hai  quốc gia đang căng thẳng trong quan hệ lại cùng nhau phối hợp hành động trong  một lĩnh vực tham mưu quân sự ­ một lĩnh vực tương đối nhạy cảm trong quan hệ  quốc tế. Căng thẳng giữa hai cường quốc này cũng chính là nguyên nhân chính dẫn  đến sự quên lãng của Ủy ban tham mưu quân sự trong nhiều thập kỉ Như vậy, ta có thể thấy có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc Ủy ban tham mưu  quân sự dần trở thành một cơ quan không hoạt động của Liên Hiệp Quốc. Ngoài  những thiếu sót trong việc soạn thảo các điều khoản quy định về cơ quan này, ta có  thể thấy yếu tố chính trị có ảnh hưởng không nhỏ đên việc hoạt động của Ủy ban  tham mưu quân sự. Đó không chỉ là những bất đồng trong quan hệ Liên Xô­ Mỹ ,  mà còn là thái độ của các quốc gia khác khi không muốn quyền lực của những  cường quốc có thể hoàn toàn lấn át ý kiến của họ bằng quyền phủ quyết véto III. Tương lai của Ủy ban tham mưu quân sự 3.1 Bối cảnh mới  Vai trò của Ủy ban tham mưu quân sự tưởng chừng như đã khép lại sau một thời  gian dài không hoạt động. Thế nhưng sau khi thời kì Chiến tranh lạnh kết thúc, thế  21  Trần Văn Đào­Phan Doãn Nam(2001)Giáo trình lịch sử quan hệ quốc tế 1945­1990, Học viện quan hệ  quốc tế , Hà Nội 2001, trang 129,130
  14. giới dần chuyển từ đối đầu sang đối thoại  và có những hiện tượng mới , vấn đề  mới nảy sinh thì người ta lại một lần nữa nhắc đến nhiệm vụ của cơ quan này. “  Sự hồi sinh” của Ủy ban tham mưu quân sự được thể  hiện vào năm 1990,   khi  Liên Xô đã đề nghị với  Liên Hiệp Quốc về việc cho phép Ủy ban tham mưu quân  sự tham gia vào việc xử lý hình giữa Iraq và Kuwait.  Cơ quan này được nhận  nhiệm vụ phối hợp các hoạt động của các quốc gia trong  lĩnh vực thực hiện các  lệnh cấm vận đối với Iraq bằng  cách  sử dụng các cơ chế phù hợp của Ủy ban  tham mưu quân sự và điều phối các tàu chiến trong việc kiểm soát các tàu bè đến  Iraq theo Nghị quyết 665(1990). Tuy chỉ là một hoạt động nhỏ trong hàng loạt  những biện pháp ngăn chặn Iraq và yêu cầu Iraq rút quân khỏi Kuwait, nhưng Ủy  ban tham mưu quân sự cũng đã thể hiện vai trò của mình trong việc giải quyết các  tranh chấp xung đột, khi hòa bình bị đe dọa.   Mặt khác, trong thời kì hiện nay, có rất nhiều những vấn đề mới nảy sinh, khiến  người ta quan tâm hơn về vai trò của Ủy ban tham mưu quân sự. Trước hết là hoạt  động gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc.  Hiện nay,  Liên Hiệp Quốc đang quản  lý  một lực lượng gìn giữ hòa bình với một số lượng đông đảo . Những lực lượng  này do các quốc gia tự nguyện đóng góp, và thực hiện theo các mệnh lệnh của Liên  Hiệp Quốc. Trong các trường hợp này, những lính gìn giữ hòa bình vẫn thuộc về  các đơn vị quân đội riêng của họ,  chứ không tạo thành một "quân đội của Liên  Hiệp quốc" độc lập, do vậy Liên Hiệp Quốc không có lực lượng riêng. Tính đến  ngày 31 tháng 12 năm 2014, lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc bao  gồm 89607 lính mũ nồi xanh, 12436 cảnh sát , 5325 nhân viên quốc tế phục vụ cho  lĩnh vực dân sự , 11762 cán bộ địa phương, 1844 tình nguyện viên của Liên Hiệp  Quốc đang hoạt đông trong 16 nhiệm vụ trên toàn thế giới22 . Tuy nhiên hiện tại,  Liên Hiệp Quốc đang gặp khó khăn với việc điều phối thực hiện hoạt động với  lực lượng gìn giữ hòa bình này.  Đây là lực lượng được đóng góp một cách tự  nguyện của quốc gia chứ không phải thông qua các hiệp ước đặc biệt giữa Liên  Hiệp Quốc  và quốc gia ấy, với số lượng không  được quy định. Số lượng của lực  lượng này vẫn không ngừng tăng lên theo từng năm, trong khi kinh phí của Liên  Hiệp Quốc dành cho hoạt động này chỉ có hạn( khoảng 7 tỷ đô la Mỹ mỗi năm) .    Lực lương gìn giữ hòa bình này được triển khai đến những khu vực không có thỏa  thuận hòa bình trước và phải thực hiện các nhiệm vụ nguy hiểm , bao gồm các  hoạt động giám sát ngừng bắn, bảo vệ thường dân , xây dựng lại hệ thống pháp  luật và cải cách lại hệ thống an ninh, và có rất nhiều trường hợp, lực lượng gìn  giữ hòa bình đã không thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Một số nhà phân tích cho  rằng đây là thời kì “khủng hoảng” trong  việc gìn giữ hòa bình mà dẫn chứng là  việc thất bại của lực lượng gìn giữ hòa bình tại Congo(MONUC)­ một trong những  nhiệm vụ quan trọng của họ, khi mà Liên Hiệp Quốc đã triển khai tới hơn 22000  người những vẫn không hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ dân thường. Điều này đã  khiến Liên Hiệp Quốc bị chỉ trích trong việc gìn giữ hòa bình. Bản thân các quốc  gia cũng bày tỏ thái độ không tin tưởng vào khả năng của lực lượng gìn giữ hòa  22 Theo số liệu của United Nations Peacekeeping, http://www.un.org/en/peacekeeping/about/ truy cập ngày  30 tháng 1 năm 2015
  15. bình. Ví dụ , tại tháng 9 năm 2014, khi trả lời báo chí về khủng hoảng tại miền  đông Ukraine và xem xét khả năng sử dụng lực lượng gìn giữ hòa bình trong tranh  chấp này, Tổng thống Ukraine Petro Poroshenko  nói: “Sẽ không có đội ngũ gìn giữ  hòa bình, bởi vì kinh nghiệm sử dụng binh lính gìn giữ hòa bình trong Transdniestria  và các cuộc xung đột khác cho thấy một thực tế là các quốc gia mất chủ quyền đối  với những vùng lãnh thổ này. Sẽ không có đội ngũ gìn giữ hòa bình trên lãnh thổ  Ukraine”.23       Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém trong công việc gìn giữ hòa bình của  Liên Hiệp Quốc . Khi được cử đến thực hiện sứ mệnh của mình, lực lượng gìn giữ  hòa bình đều được trang bị vũ khí, nhưng không được phép thực hiện các chiến  dịch quân sự cũng như những hoạt động chiến đấu. Việc trang bị vũ khí chỉ mang  tính chất tự vệ chính đáng  và đôi khi nó tỏ ra kém hiệu quả trong việc thực thi  nhiệm vụ của lực lượng này , đặc biệt là các nhiệm vụ tại những nơi đang xảy ra  xung đột … Mặt khác , một số người cho rằng việc thỏa hiệp và trao quyền gìn  giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc đối với những lực lượng khác như NATO (thực  hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình ở Kosovo, Bosnia) ,  Cộng đồng kinh tế các quốc  gia Tây Phi ( thực hiện nhiệm vụ tại Sierra Leone) cho thấy Liên Hiệp Quốc không  có đủ khả năng và uy tín để kiêm nhiệm tất cả các sứ mệnh gìn giữ hòa bình  24  Trước tình hình này, đã có ý kiến cho rằng Liên Hiệp Quốc nên thiết lập một cơ  chế gìn giữ hòa bình một cách có hiệu quả  hơn, cũng như việc Liên Hiệp Quốc  nên xem xét việc thành lập nên một lực lượng quân sự thường trực của riêng Liên  Hiệp Quốc, không chỉ có nhiệm vụ thực hiện sứ mệnh gìn giữ hòa bình mà có khả  năng chiến đấu và phản ứng nhanh với những tình huống khẩn cấp. Và người ta đã  đặt sự chú ý trở lại với Ủy ban tham mưu quân sự, cơ quan được tạo ra để thực  hiện những sứ mệnh như thế    Một lí do Ủy ban tham mưu quân sự được chú ý trong thời gian trở lại đây là sự  lan rộng của chủ nghĩa khủng bố trên toàn thế giới. Thực tế thì “khủng bố” là một  thuật ngữ không hề mới, nhưng sau vụ 11/9,  chủ nghĩa khủng bố mới được chú ý  quan tâm về sự nguy hiểm của nó. Theo quan niệm của Liên Hợp Quốc hoạt động  khủng bố là: Huỷ hoại nhân quyền, quyền dân chủ và tự do của cá nhân, uy hiếp  sự an toàn và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia làm chính phủ luôn bị sức ép, phá vỡ  văn minh xã hội, có hành vi phạm tội với việc gây hậu quả bất lợi cho sự phát triển  kinh tế xã hội. Nguyên nhân sâu xa của những hành động chống đối, phá hoại là sự  23 Theo Ukrinform­ cơ quan ngôn luận chính thức của Ukraine,  http://www.ukrinform.ua/eng/news/there_will_be_no_peacekeeping_troops_in_ukraine___president_326299  truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2015 24 Felicity Hill, The Military Staff Committee: A Possible Future Role in UN Peace Operations,  https://www.globalpolicy.org/component/content/article/199­peacekeeping/40932­the­military­staff­committee­ a­possible­future­role­in­un­peace­operations­.html , truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2015
  16. xung đột về quyền lợi giữa các thành viên trong cộng đồng, xã hội. Sự xung đột  này có cả nhân tố chính trị, xã hội, lịch sử phức tạp.25   Tuy nhiên , dù cho lí do là gì đi chăng nữa thì chủ nghĩa khủng bố cũng mang tính  chất phi nghĩa , chống lại văn minh và nên hòa bình toàn thế giới. Những năm trở  lại đây, nhiều tổ chức khủng bố mới lần lượt ra đời, với phạm vi hoạt động và  phương thức khủng bố được mở rộng ra nhiều nơi trên thế giới. Nghiêm trọng  hơn, các tổ chức khủng bố đang ngày càng phát triển và lan rộng , và hoạt động  ngày càng tinh vi , thực hiện các hành động ngày càng nguy hiểm và tàn bạo. Hàng  loạt các vụ khủng bố đẫm máu đã nổ ra trên toàn thế giới mà tiêu biểu là vụ khủng  bố ngày 11/9 do tổ chức Al­Qaeda do Osama Bin Laden cầm đầu, khiến 3.000  người mang 90 quốc tịch khác nhau thiệt mạng và gây chấn động kinh hoàng cho  toàn bộ nhân dân yêu chuộng trên toàn thế giới… Sau thời kì thoái trào  Al­Qeada,  gần đây, thế giới đã chứng kiến sự xuất hiện của một tổ chức khủng bố mới với  quy mô rất lớn, cách thức tổ chức quy củ  và có những hành động vô nhân tính. Đó  là tổ chức Nhà nước hồi giáo tự xưng,( viết tắt tiếng Anh là IS). Tuy là một tổ  chức mới thành lập nhưng IS đã thực hiện những hành động khủng bố hết sức  nguy hiểm trên phạm vi toàn cầu. “Ghê gớm hơn nữa là IS đã và đang hiện thực  hóa được tư tưởng thống nhất đạo Hồi, từ một tổ chức Hồi giáo cực đoan dòng  Sunni trở thành một nhà nước hiện hữu, sẵn sàng chém giết bất cứ ai trái ý chúng.  IS đã biến tướng thành một nhà nước khủng bố, vượt trên tầm 1 tổ chức Hồi giáo  thánh chiến hùng mạnh như Al­Qaeda. “Tư tưởng IS” đã thành công rực rỡ trong  việc gửi đi khắp toàn cầu một thông điệp rằng sự thống nhất của thế giới Hồi giáo  và lý tưởng xây dựng một nhà nước Hồi giáo “hoàn toàn thanh tẩy” là điều có thể.  Dù vô cùng tàn ác, IS vẫn rất khôn khéo và giỏi mị dân, đã sắp xếp cuộc sống trên  lãnh thổ của mình theo cách quy củ và từng bước xâm nhập vào gần như mọi mặt  đời sống người dân. Nhóm IS nổi bật trên truyền thông quốc tế nhờ vào lối hành  xử tàn nhẫn trên chiến trường và cách giải thích đầy khắc nghiệt về đạo Hồi.”26  Việc bành trướng của chủ nghĩa khủng bố trên phạm vi toàn cầu rõ ràng  đang đe  dọa hòa bình, phá hoại và có hành vi xâm lược theo chương VII của Hiến chương  Liên Hiệp Quốc. Ủy ban tham mưu quân sự, với các chức năng và quyền hạn được  quy định tại chương này, phải có nghĩa vụ  thực thi các biện pháp để giúp đỡ Liên  Hiệp Quốc trong việc ngăn chặn  những hành động này. Do vậy, tương lai về một  Ủy ban tham mưu quân sự hoạt động trở lại là không còn xa vời. 3.2 Khả năng hoạt động của Ủy ban tham mưu quân sự trong thời kì mới Vào năm 1990, trong bài viết “Is it Time to Revive the UN Military Staff Committee”  (California State University, Los Angeles:1990), tác giả Ralph M Goldman đã liệt kê  25 http://www.un.org/News/dh/infocus/terrorism/sg%20high­level%20panel%20report­terrorism.htm truy cập  ngày 29 tháng 1 năm 2015 26 Anh Doãn­ Hồng Hạnh, Hình thái chủ nghĩa khủng bố mới: Biến tướng khó lường,  http://cand.com.vn/So­tay/Bien­tuong­kho­luong­316250/ truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2015
  17. các chức năng mà Ủy ban tham mưu quân sự có thể đảm nhận khi tái hoạt động .  Bài tiểu luận xin tổng hợp một số quan điểm trong bài viết này về khả năng hoạt  động của Ủy ban tham mưu quân sự có thể đảm nhiệm trong  thời kì hiện nay  1. Điều phối các hoạt động quân sự (arms control): Hiến chương LHQ có thể giao  cho Ủy ban tham mưu quân sự nhiệm vụ điều phối  trong  các cuộc đàm phán về  kiểm soát vũ khí. Nó có thể và nên trở thành một trung tâm chính , có nhiệm vụ hỗ  trợ cho việc chuẩn bị và phục vụ các cuộc đàm phán song phương và đa phương, và  để  tạo ra một cơ chế quản lý và tập trung hóa một hệ thống hành chính được điều  phối tốt và hiệu quả. Ủy ban tham mưu quân sự cũng có thể cung cấp thông tin và  tư vấn lực lượng gìn giữ hòa bình  2. Giám sát việc tuân thủ: để giảm gánh nặng cho các cơ quan tình báo quốc gia,  các Ủy ban tham mưu quân sự  có thể trở thành quan sát viên trung lập  trong các  vấn đề tuân thủ hiệp ước. Do ủy ban này là một thực thể công , trực thuộc Liên  Hiệp Quốc,  mang tính đa phương và do đó có thể đóng vai trò giám sát cũng như  thu thập thông tin về các bên, có thể khuyến khích giảm ngân sách cho việc tình  báo. Điều nãy cũng giúp cho Ủy ban cũng có khả năng thực hiện thực hiện các  nhiệm vụ cảnh báo sớm để ngăn chặn các cuộc tấn công bất ngờ hoặc xung đột  quân sự.  3. Giám sát hệ thống hồ sơ quân sự: Ủy ban tham mưu quân sự có thể đảm nhận  việc  lưu trữ và duy trì hồ sơ công của tất cả các vụ chuyển giao vũ khí thông  thường, thử hạt nhân và các vụ nổ phi quân sự, thông báo của các thao tác đào tạo,  vv trên phạm vi toàn thế giới. Khi đó , Ủy ban tham mưu quân sự sẽ còn có chức  năng phục vụ như một trung tâm thông tin quân sự ­  giống như UN Institute for  Training and Research  (UNITAR) và Peace International Academy (IPA), Ủy ban  tham mưu quân sự  có thể được trao trách nhiệm cho việc nghiên cứu phát triển  kiến thức về gìn giữ  hòa bình ,  hoạt động chuyên nghiệp trong việc hỗ trợ  UNITAR và IPA, và có thể trở thành một trung tâm nghiên cứu về  quân sự ( chiến  lược chiến thuận quân sự…) và lưu trữ thông tin   4. Phối hợp các hoạt động chống khủng bố ­ là một hình thức thăng hoa của cuộc  chiến tranh quốc tế, đang đe dọa đến hòa bình và an ninh thế giới và khi đó, Liên  Hiệp Quốc phải thể hiện sự chú trọng  của mình đến vấn đề này. Ủy ban tham  mưu quân sự sẽ được cung cấp chức năng chống khủng bố, việc mà trước nay chỉ  dành cho những cơ quan an ninh khác 5. Phối hợp các hoạt động phòng chống ma túy – nhóm tội phạm buôn bán ma túy,  một số các nhà lãnh đạo quân sự quốc gia độc tài, đây cũng là một mối đe dọa tiềm  ẩn cho hòa bình an ninh của khu vực cũng như tiềm ẩn nguy cơ xâm lược  6. Trở thành một trung tâm giám sát vũ khí ­  Ủy ban tham mưu quân sự sẽ nỗ lực  để làm chậm lại quá trình chạy đua vũ trang đang ngày càng nóng lên trên toàn cầu.  Ủy ban tham mưu quân sự có thể là một diễn đàn đàm phán lâu dài cho  việc giảm  tốc tốc độ phát minh quân sự và thúc đẩy nghiên cứu về các hệ thống vũ khí mới ít  tốn kém hơn nhưng lại gây sát thương lớn hơn 7. Tham gia vào các nhiệm vụ gìn giữ hòa bình của quân đội. Chắc chắn các cuộc  thảo luận phải trở về các khía cạnh thực thi chức năng của nó. Tất nhiên việc này  sẽ vấp phải nhiều tranh cãi, nhất là khi hiện nay cũng đã và đang   tồn tại những 
  18. lực lượng gìn giữ hòa bình khác. Các tranh cãi có thể xoay quanh việc gìn giữ hòa  bình cần được phân biệt với thực thi? Ai nên ủy quyền nhiệm vụ gìn giữ hòa bình  và khi nào? Ai nên tham gia? Có phải đó sẽ là một lực lượng thường trực của Liên  Hiệp Quốc, và ai sẽ có quyền kiểm soát hoạt động trên nó? Ai trả tiền, bao nhiêu?27  Như vậy, ta có thể thấy, trong thời kì hiện nay, Ủy ban tham mưu quân sự hòa vẫn   có những cơ hội để hoạt động trở lại, đóng góp tích cực vào việc ổn định hòa bình,  an ninh toàn thế giới theo đúng như những điều đã quy định trong Hiến chương 3.3 Những đề xuất dành cho Ủy ban tham mưu quân sự   Tất nhiên muốn đưa Ủy ban tham mưu quân sự hoạt động trở lại và trở nên hiệu  quả , Liên Hiệp Quốc sẽ phải có những điều chỉnh, thậm chí thay đổi toàn diện cơ  cấu cũng như quyền hạn của cơ quan này  Trước hết, những nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban này phải được quy định cụ  thể và rõ ràng hơn. Liên Hiệp Quốc cũng nên mở rộng ra giới hạn hoạt động cho  cơ quan này, giúp cho nó có thể thực hiện được đa dạng các hoạt động hơn như đề  xuất đã nêu ở phần trên  Cơ cấu tổ chức hiện nay của Ủy ban tham mưu quân sự vẫn là điều bất cập. Sự  hiện diện của tất cả thành viên P5 và không hề có một đại diện của quốc gia nào  khác dẫn đến sự nghi ngại của các quốc gia khác  về tính công bằng cũng như  trung lập của cơ quan này. Hơn nữa số lượng năm thành viên trong một cơ quan là  rất ít cho một tổ chức có phạm vi quyền hạn lớn như vậy. Liên Hiệp Quốc nên cân  nhắc việc mở rộng số lượng thành viên của cơ quan này. Trên thực tế, vấn đề mở  rộng số lượng thành viên là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu trong  quá trình cải tổ Liên Hiệp Quốc. Từ khi thành lập cho đến nay,  số lượng thành  viên Liên Hiệp Quốc đã không ngừng tăng lên . Từ 51 thành viên ban đầu (những  nướsc có đại diện dự Hội nghị tại Xan Phranxixcô hoặc đã ký Tuyên ngôn của Liên  Hợp Quốc ngày 1/1/1942, và những nước đã ký và phê chuẩn Hiến chương Liên  Hợp Quốc), số thành viên LHQ cho đến giữa 2004 là 191( hiện nay là 193).28 . Hội  đồng bảo an cũng đã có sự thay đổi số lượng thành viên, từ 6 thành viên luân phiên  ban đầu sau đó được mở rộng lên 10 thành viên với định mức cho mỗi khu vực như  sau: 2 ghế cho các khu vực châu Phi, châu Á, châu Mỹ, và Tây Âu, 1 ghế cho Đông  Âu, và ghế còn lại luân phiên giữa châu Phi và châu Á29. Vấn đề mở rộng thành viên  thường trực lẫn không thường trực của Hội đồng bảo an cũng vẫn là một phần  quan trong trong chương trình nghị sự của Liên Hiệp Quốc. Sự tăng thêm số lượng  27 Xem chi tiết Goldman, Ralph M, Is it Time to Revive the UN Military Staff Committee”, Cal State Uni,  Center for the Study of Armament and Disarmament, 1990, trang 23 28 Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam ,  http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/ChiTietVeToChucQuocTe? diplomacyOrgId=123 truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2015 29 Nghị quyết 1991(XVII) ngày 17 tháng 12 năm 1963
  19. thành viên là một xu thế tất yếu. Giải pháp ở đây là Liên Hiệp Quốc có thể tăng số  lượng thành viên của cơ quan này bằng  với số lượng của Hội đồng bảo an, và các  thành viên của Hội đồng bảo an cũng sẽ là những thành viên của Ủy ban tham mưu  quân sự và  sẽ đảm nhiệm luôn công việc của cơ quan này. Khi đó, Ủy ban này sẽ  mang tính công bằng hơn, và có khả năng hoạt động năng động hơn , phục vụ tốt  cho việc tham vấn , giúp việc cho Hội đồng bảo an…Tuy nhiên, tất cả những đề  xuất trên đây chỉ  là những lý thuyết và mang tính tham khảo .  KẾT LUẬN Như vậy, qua những trình bày ở trên, bài tiểu luận hi vọng sẽ mang đến những  kiến thức chung về Ủy ban tham mưu quân sự , Ủy ban duy nhất được ghi nhận  trong Hiến chương. Tuy có những giai đoạn thăng trầm trong lịch sử phát triển của  mình, thậm chí đã có một khoảng thời gian dài chìm sâu trong tình trạng không hoạt  động nhưng thời gian hiện nay,Ủy ban tham mưu quân sự đang dần nhận được sự  quan tâm của cộng đồng quốc tế . Ngày nay, khi tình hình thế giới luôn có những  diễn biến hết sức phức tạp khó lường, việc Ủy ban tham mưu quân sự có được tái  hoạt động và thực hiện tốt nhiệm vụ của mình hay  không còn là câu hỏi bỏ ngỏ,  nhưng chúng ta có quyền hi vọng rằng một ngày nào ủy ban này sẽ đóng góp một  phần không nhỏ trong sứ mệnh bảo vệ  nền hòa bình, an ninh của thế giới cũng  như sự bình yên của nhân loại.  DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tham khảo tiếng Việt Hiến chương Liên Hợp Quốc 1947
  20. Anh Doãn­ Hồng Hạnh(2014), “Hình thái chủ nghĩa khủng bố mới: Biến tướng khó  lường”, Báo Công an nhân dân  Lê Mai Anh(2013) Giáo trình luật quốc tế ( lần thứ 13 có sửa đổi), NXB Công an  nhân dân , Hà Nội  Trần Văn Đào­Phan Doãn Nam(2001)Giáo trình lịch sử quan hệ quốc tế 1945­1990,   Học viện quan hệ quốc tế , Hà Nội 2001,  Tài liệu tham khảo tiếng Anh An Agenda For Peace", United Nations Secretary­General, 17 June1992 Boulden, Jane. Prometheus Unborn: The History of the Military Staff Committee,  Canadian Center For Global Security, Ontario: 1993. InterPress Service, 12 tháng 5 năm 1995. Resolution 665 (1990), 377 (V) (1950), 1991(XVII)(1963) of the  Security Council Resolution 1001 (ES­I)(1956), 47/71(1992) of the General Assembly  Report of the General Assembly June 30, 1992 Report of the Military Staff Committee", UN Security Council Official Records,  Second Year, Special Supplement No. i, New York Felicity Hill, The Military Staff Committee: A Possible Future Role in UN Peace  Operations Goldman, Ralph M(1990), Is it Time to Revive the UN Military Staff Committee”,  California State Uni, Center for the Study of Armament and Disarmament,1990 GROVE E. (1993) "U.N. Armed Forces and the Military Staff Committee: A Look  Back"International Security, XVII, n° 4  Jean E. Krasno, "To End the Scourge of War: The Story of UN Peacekeeping." in Jean  E. Krasno, ed.,The United Nations: Confronting the Challenges of a Global Society  (Boulder, CO: Lynne Rienner, 2004) WILLIAM G. WHEELER(1994) THE UNITED NATIONS SECURITY COUNCIL  MILITARY STAFF COMMITTEE:RELIC OR REVIVAL?
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2