TÌM HIỂU NHỮNG KẾ
SÁCH GINƯỚC THỜI
LÝ - TRẦN
Trong quá trình dựng nước và ginước của dân tộc ta, thời Lý - Trần
là một trong những thời kỳ phát triển rực rỡ của đất nước. Khoảng
gần 5 thế kỷ của thời kỳ này, nhân dân Đại Việt - tên nước chúng ta
lúc đó - đã vươn lên trong cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ đất
nước, lập nên nhiều kỳ tích đáng thào về mọi mặt, mra kỷ nguyên
Đại Việt trong lch sử dân tộc.
Với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử cuối năm 938, nhân dân ta đã rửa
sạch nhục mất nước kéo dài hơn một nghìn năm, giành lại độc lập dân
tộc. Trong độc lập và thanh bình, nhân dân ta hăng hái bắt tay xây
dựng cuộc sống, xây dựng đất nước phồn vinh và đã đạt được nhiều
thành tựu huy hoàng trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Cả một
thời kỳ lịch sử i nổi và tưng bừng thắng lợi ấy ít nhiều đã phản ánh
vào trong lãnh vực tư tưởng, trong quan nim của tầng lớp trí thức
của thời đại. Trong đó những hoạt động chính tr, những cuộc chiến
tranh giữ nước với những thành tích rõ rệt của nó đã có những tiếng
vang đáng chú ý hơn cả.
Kỷ nguyên Đại Việt cũng như các thời kỳ lịch sử khác, công cuộc dựng
nước và giữ nước luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Đó là một đặc
điểm nổi bật, một quy luật đặc thù của lịch sử dân tộc. Dựng nước
luôn luôn đi đôi vi giữ nước đã trở thành một quy luật tồn tại và phát
triển của dân tộc ta. Vốn là một nước không lớn, nhưng li ở vào vị trí
cửa ngõ của vùng Đông Nam Á, nước ta từ a đến nay là đối tượng
dòm ngó và xâm lăng của biết bao thế lực xâm lược tàn bạo qua các
thời đại lịch sử. Đời Lý phải tiến hành cuộc kháng chiến chống quân
xâm lược Tống trong khoảng năm 1075 - 1077. Đời Trần phải ba lần
kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên vào những năm
1258, 1285, và 1287 - 1288.
Công cuộc dựng nước trong hòa bình b ngắt quãng nhiều lần bởi
những cuộc chiến tranh xâm lược của địch, nhưng ngay khi thắng lợi,
trong lúc dựng nước phải lo nghĩ đến kế sách giữ nước, sẵn sàng
trong tư thế đánh giặc bảo vệ đất nước. Nền độc lập dân tộc ở trong
tình trạng gần như bị đe dọa thường xuyên. Thời Lý - Trần, chế độ
phong kiến phát triển, giai cấp phong kiến còn đại diện cho dân tộc và
giữ vai trò tổ chức, lãnh đạo công cuộc xây dựng và bo vệ đất nước
của dân tộc. Qua thực tiễn lịch sử, các vương triều phong kiến lúc tiến
bộ ở nước ta đã sớm nhận thức được mối quan hệ giữa dựng nước và
giữ nước cũng như yêu cầu thường xuyên của nhiệm vụ giữ nước.
Những tư tưởng tiêu biểu cho ý thức về quyền độc lập và t chủ của
dân tc đã được thể hiện một cách rõ rệt trong bài thơ bất hủ của Lý
Thường Kiệt:
“Nam quc sơn hà nam đế
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan th bại hư”
Cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên thứ hai vừa kết thúc thắng
lợi, trong bài thơ khải hoàn, thượng tướng Trần Quang Khải đã nhấn
mạnh “Thái bình tu tri lực, vạn cổ cựu giang san” (Thái bình nên gắng
sức, non nước ấy ngàn thu). Sau cuộc kháng chiến lần thứ ba, quân
giặc đã bị quét sạch ra khỏi bờ cõi, vua Trần vẫn luôn luôn lo nghĩ về
kế sách giữ nước. Năm 1300, Trần Quốc Tuấn ốm nặng, vua Trần Anh
Tông đến tận nhà riêng thăm hỏi vị Quốc công Tiết chế thiên tài và
nói đến điều lo nghĩ của mình:“Nếu giặc Nguyên lại sang xâm lấn thì
kế sách làm sao?” tạo nên động lực “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”
của mỗi người dân . Trước lúc từ trần, Trần Quốc Tuấn đã để li lời di
chúc vạch ra những chủ trương giữ nước cho nhà Trần.
Nguyễn Trãi đã nhận định “tai nạn nhiều là gốc dựng nước, lo nghĩ
nhiều là cái nền mở nghiệp thánh, trải nhiều biến thì mưu kế sâu, tính
việc xa thì thành công kỳ” . Đó là hoàn cảnh gian khổ của cuộc đấu
tranh dựng nước và giữ nước mà dân tộc ta đã tri qua. Đó cũng là
trường học lịch sử vừa thử thách, vừa rèn luyện bản lĩnh dân tộc, vừa
đúc kết nên nhiều bài học phong phú. Các triều đại Lý Trần và sau đó
là Lê vào lúc tiến bộ, trên cơ sở “ngẫm nay suy trước, xét cùng mọi lẽ
hưng vong” (Bình Ngô đại cáo) đã biết đề ra nhiều kế sách gi nước
tích cực, góp phần quan trọng tạo ra những thắng lợi vẻ vang của sự
nghiệp dựng nước và giữ nước trong kỷ nguyên Đại Việt. Có thể khái
quát những kế sách giữ nước bao gồm những tư tưởng chủ yếu như
sau:
1. Tư tưởng về đoàn kết dân tộc, ý thức về quyền độc lập, t
chủ, thống nhất quốc gia
Dân tộc ta tồn tại và phát triển trong điều kiện hầu như phải thường
xuyên chống thiên taichống ngoại xâm. Thiên tai đã thường xuyên
khắc nghiệt, ngoại xâm li xuất phát từ những nước lớn mạnh hơn ta.
Đoàn kết dân tộc, thống nhất quốc gia vì thế sớm trở thành một xu
thế phát triển chủ đạo của lịch sử và là một tiềm lực lớn lao của dân
tộc trên con đường chinh phục thiên nhiên và chiến thắng giặc ngoại
xâm.
Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, Ngô Quyền đã bước đầu xây
dng quc gia phong kiến tập quyền. Nhưng trong nội bộ, giai cấp
thống trị lúc đó có một số thổ hào địa phương muốn hùng cứ từng
phần. Xu hướng cát cứ phân quyền có lúc trỗi dậy mạnh mẽ, gây
thành loạn mười hai sứ quân (944 - 967). Giương cao ngọn c thống
nhất, Đinh Bộ Lĩnh được nhân dân ủng hộ, đã nhanh chóng đánh bại
các s quân, quy giang sơn về một mối. Thắng lợi của cuộc đấu tranh
giành độc lập do Ngô Quyền lãnh đạo và thống nhất quốc gia do Đinh
Bộ Lĩnh cm đầu, đã tạo điều kiện đưa đất nước ta bước vào thời kỳ
rực rỡ của kỷ nguyên Đại Việt.