Tính hai mặt của không gian nghệ thuật truyện cổ tích
lượt xem 2
download
Không gian nghệ thuật trong truyện cổ tích mang trong mình tính hai mặt, thể hiện sự phong phú của văn hóa dân gian. Nó vừa là bối cảnh huyền bí cho những cuộc phiêu lưu kỳ diệu, vừa phản ánh những bài học nhân sinh sâu sắc. Mặt bên này mở ra những hình ảnh kỳ ảo, kích thích trí tưởng tượng, trong khi mặt bên kia gợi mở những thực tại phức tạp của đời sống con người. Bài viết này sẽ phân tích hai khía cạnh của không gian nghệ thuật, nhấn mạnh vai trò của nó trong việc truyền tải thông điệp văn hóa và giá trị nhân văn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tính hai mặt của không gian nghệ thuật truyện cổ tích
- Nghiên cứu trao đối 7 (VHDG) Việt Nam, bằng con đường thi pháp học (qua các công trình cụ thể của Đỗ TÍNH HAI MẶT CỦA Bình Trị, Lê Trường Phát) đều thông nhất ồ quan niệm: TCT xây dựng hai loại không KHỐNG GIAN NGHỆ THUẬT gian chủ yếu là "không gian trần thế và không gian kì ảo". Đây là hai khái niệm cơ TRUYỆN CỔ TÍCH bản và được ứng dụng nhiêu nhất khi nghiên cứu vê' KGNT truyện cổ tích (các NGUYỄN VIỆT HÙNG* ’ luận văn, luận án tìm hiểu vê' KGNT truyện cổ tích thường khai thác theo hướng hông gian nghệ thuật (KGNT) là khái "không gian kì ảo"...). Có thể nói rằng, niệm của thi pháp học chỉ hình thức những nhà nghiên cứu quan tâm đến tồn tại của th ế giới nghệ thuật, là sự mô truyện cổ tích đã đưa ra những khái niệm hình hoá th ế giới của tác giả. KGNT trong của riêng mình, hoặc dựa vào khái niệm tác phẩm mang tính biểu trưng và quan của người đi trước đê chứng minh những niệm*0. Do đó, thông qua việc tìm hiểu đặc điểm của KGNT truyện cổ tích. Sự mở rộng các khái niệm KGNT của TCT là cần KGNT, chúng ta có thể hiểu được quan thiết nhưng thiết nghĩ chúng ta cũng nên niệm thẩm mĩ, trình độ tu duy cũng như nhìn lại để có sự đánh giá khái quát hơn, tâm lí sáng tạo của con người ở những thời xây dựng một quan niệm chung trong một điểm và địa điểm mà tác phẩm ra đời. chừng mực nhất định có thê bao trùm lên Khái niệm KGNT đã được ứng dụng để phạm vi nghiên cứu (KGNT TCT). tìm hiểu nhiêu loại hình văn học khác Chính vì vậy, chúng tôi muôn đặt vấn nhau, trong đó có truyện cổ tích (TCT). Việc đê' khái quát đặc điểm của KGNT truyện cô áp dụng một phương diện tiêu biểu của thi tích dựa trên thành quả nghiên cứu của pháp học vào một đối tượng lổn và quen những tác giả đi trước, đặc biệt là từ gợi ý thuộc như truyện cổ tích đã đem lại nhiều trong công trình của V.Ia.Prôp*3’. Bằng cái thành tựu. Những nhà nghiên cứu, nhà thi nhìn biện chứng xem xét đôi tượng, chúng pháp học đã đưa ra nhiều nhận định về đặc tôi đưa ra nhận định như sau: KG NT của điểm của KGNT truyện cô tích và qua đó truyện cô tích mang tính chất hai mặt. Các phần nào tìm hiểu được tư tưởng, quan đặc điểm của KGNT truyện cổ tích là những niệm của nhân dân về thế giới, vê' cuộc đặc điểm vừa thông nhất vừa đôi lập với sông và về chính bản thân con người. nhau, ví dụ như: Chẳng hạn, nhà nghiên cứu người Nga - Không gian kì ảo và không gian hiện - Likhachôp đã dành nhiều công sức cho thực việc khảo sát tư liệu văn học Nga cổ, trong đó phần lởn là TCT. ông đã đưa ra nhận - Không gian cản trở và không gian phi xét "KGNT của TCT Nga mang tính không cản trở chông đôi (cản trở) của môi trư ờ ng v ật chất, - Không gian điểm và không gian tuyến tức là tính siêu dẫn của KG*2). Trong KGNT tính đó "nhân vật di chuyên, giao tiếp không bị Mỗi cặp không gian trên đều có sự đôi trở ngại", kể cả "những trở ngại vê' mặt tâm lập với nhau nhưng đồng thời chúng lại lí". Các nhà nghiên cứu văn học dân gian thống nhất với nhau. Bởi vì, đó là các phương diện của không gian nghệ thuật, (*) ThS. Khoa Ngữ văn, Trường ĐHSP Hà Nội làm nên chỉnh thể không gian truyện cố
- 8 NGUYỀN VIỆT HÙNG tích mà thiếu đi một trong hai vê thì đôi Thậm chí trong những truyện có nhiều tượng không toàn vẹn và không còn là "mô chặng thử thách đặt ra vởi nhân vật như hình về thế giởi" của thể loại, đồng thời, Người lấy cóc thì anh học trò và vợ trải qua chúng ta cũng không có cái nhìn đầy đủ vể rấ t nhiều thử thách nhưng bôi cảnh chỉ KGNT của truyện cổ tích. Chúng tôi xem diễn ra trong làng quê của nhân vật: từ xét vấn đê' dựa trên tư liệu TCT thần kì nhà đến cánh đồng, đến trường học. Với người Việt. Sau đây, chúng tôi trình bày kiểu truyện về cuộc hành trình đi tìm hôn những quan niệm cơ bản vê các loại hình nhân của nhân vật thì TCT thường có xu không gian đã đê cập ở trên: hướng mỏ rộng không gian để thấy được tính chất li kì hấp dẫn cũng như những 1. Không gian kì ảo và không gian khó khăn, trở ngại trên con đường tìm kiếm hiện thực hạnh phúc của con người. Trong ví dụ trên Không gian hiện thực là không gian và nhiều TCT người Việt, chúng ta không của cuộc sông trần thế, biểu hiện cụ thê thấy có những biểu hiện đó. trong truyện cổ tích người Việt là không Nhưng dù đó là không gian làng quê gian làng quê. Dấu ấn làng quê Việt Nam mang tính hiện thực thì dó cũng không in đậm trong nhiều truyện cổ tích, "đem lại phải là bản thân hiện thực. Bởi vì, khi di cho thê giới cổ tích hơi ấm nhân sinh, màu vào tác phẩm văn học, những chi tiết dã trở sắc dân tộc, dân dã"(1). Đặc điểm này cho thành những tín hiệu thẩm mĩ: không gian thấy, truyện cô tích người Việt là sản phẩm xác định bằng toạ độ, bằng kích thưởc, vị tinh thần đích thực của nhân dân lao động, trí cụ thể ngoài cuộc sông trở thành KGNT mang đậm th ế giới quan, cách nhìn của và do đó nó mang tính biểu trưng và ước lệ. người nông dân. Màu sắc cung đình, những Không gian hiện thực đó cũng có nghĩa là dấu hiệu của triều đại phong kiến ít có mặt KG của sự sống, nơi diễn ra các hoạt động trong truyện cô tích người Việt. Khi khảo của con người. Dù trong không gian ấy có sát cấu trúc TCT người Việt theo lí thuyết đau khổ, áp bức, bất công và nhân dân "hình thái học TCT" của Prôp, hai tác giả không thực hiện được ưốc mơ của mình Trần Đức Ngôn và Tăng Kim Ngân gặp gỡ (thường là không gian kì ảo mới là nơi gừi nhau ở nhận định: TCT người Việt ít có loại gắm và thực hiện những ước mơ của con nhân vật vua, công chúa, hoàng tử (nếu có người - sẽ trình bày ở phần sau) nhưng con thì cũng không phải là nhân vật chính)(5\ người phải chấp nhận. Và ở đây chúng ta Điều này khác với tư liệu TCT dân tộc thấy một khía cạnh thú vị trong tư duy Chăm (có lẽ do dấu ấn của các vương triều nghệ thuật, trong quan niệm của thời dại Chămpa cổ). Thậm chí, ở TCT người Việt, truyện cố tích: con người chấp nhận thực những dâu hiệu của cung đình cũng bị dân tại, đâu tranh với hiện thực khốc liệt đê dã hoá một cách triệt để: cung vua có sào, k h ắ n g đ ịn h b ả n c h ấ t người củ a m ìn h . Đó bờ rào phơi quần áo, khung cửi, xoan đào là trường hợp Từ Thức từ cõi tiên vê trần mắc võng, nhà vua ghé quán nước ăn trầu thê, chấp nhận tuổi già và cô đơn vì nơi đó (Tấm Cám)\ ông vua gánh hành rao bán có gia đình, làng xóm, có cuộc đời thực của (Lọ nước thần)... Đó là khung cảnh của làng anh ta; là chàng Ngưu dẫn con vê trần gian; là quê Việt Nam mà ai cũng có thể dễ dàng những nhân vật thần tiên chấp nhận đánh đôi nhận ra. sự trường sinh ở trên trời để làm con người Trong TCT người Việt, ít có sự lộng lẫy bình thường nơi trần thế. Thậm chí, người tráng lệ màu sắc của không gian cung dinh vỢ trong S ự tích con sam không giàu nổi mà nổi bật lên vẫn là không gian làng quê. nỗi vui sưống khi tìm dược chồng, đưa vê'
- Nghiên cứu trao đổi 9 quê nhà, đê đến nỗi vi phạm điều cấm kị gian không chỉ tồn tại một cách khách khiến hai vợ chồng đều chết... Nhưng vượt quan, chúng còn được con người ý thức và qua những đau khổ, mâ't mát, họ hướng tới thể nghiệm một cách chủ quan"... Những cuộc sống thực tại, trở về không gian đời khái niệm không gian bao giờ cũng bị quy thường vì ở đó có tình yêu thương của con định bởi nền văn hoá của nó"(S). Do đó, bên người. Đó là quan niệm hết sức sâu sắc và cạnh KG hiện thực, KG kì ảo cũng thể hiện giàu giá trị nhân văn trong TCT. được những yếu tô' về tư duy, quan niệm và Tính quan niệm của không gian làng ưốc mơ của nhân dân lao động. quê trong TCT cũng được khẳng định ở một Thứ nhất, KG kì ảo là những ước mơ, phương diện khác: không gian làng quê gắn khát vọng của con người. Ó đó có hạnh với sự sông, yên ổn (dù là tạm thời). Bởi vì phúc và sự bất tử (Từ Thức), có những vật không gian xa xôi cũng gắn vối sự bất trắc, báu kì diệu đem lại hạnh phúc (cây đàn là dâu hiệu của tai họa và cái chết: ba anh trong Thạch Sanh), có vàng bạc châu báu em trong Trầu cau ra đi khỏi nhà dẫn tới đem lại sự giàu sang (hòn đảo trong Cây cái chết: Thủ Huồn ra đi đến Am phủ; khế)... Nói chung là ở th ế giởi kì ảo, con Thạch Sanh đi khỏi gốc đa là đôi diện với người có thể tìm được tấ t cả những điều tốt nguy hiểm, lừa lọc; Cuội đi làm xa nhà dặn đẹp, sung sướng mà họ không bao giờ có vợ những bất trắc có thê xảy ra ở nhà; Sọ được ở thê giới hiện thực. Dừa ra đi dự cảm được những tai họa sắp Thứ hai, KG kì ảo là thước đo phẩm dến; con quạ mang bức tranh đi xa (sang chất của con người. Chính vì KG kì ảo là KG khác) gây tai họa cho hai vợ chồng (Lọ nơi chứa đựng những ước mơ giàu sang, nước thần)... Nhân vật của TCT dường như hạnh phúc của con người cho nên không thuộc vê một không gian nhất định mà KG phải ai cũng có thể đến được KG đó. Chỉ có đó quy định đặc điểm, tính cách cũng như những người đã qua thử thách, bộc lộ được quyết định sô' phận của nhân vật. Con phẩm chất tốt đẹp, trung thực, dũng cảm người có sự hài hoà vối KG thân thuộc. Cho thì mởi đến được KG kì ảo, được đền đáp, nên, sau khi gặp nhiều tai họa ở trong và có kết thúc có hậu: vì cứu được Thái tử cung, Tấm trở về quán nước bà lão và tìm con vua Thủy Tê mà Thạch Sanh đi xuống thấy sự yên bình trong cuộc sổng nơi thôn Thủy cung, nhận được phần thưởng là cây dã đó. đàn thần kì... Những biểu tượng KG đó Bên cạnh không gian hiện thực, TCT mang tính chức năng, đó là môi trường xây dựng một kiểu KG mang tính đặc thử thách để ban thưởng hoặc trừng phạt trưng là KG kì ảo. Không gian kì ảo là sự nhân vật. sáng tạo mang tính nghệ thuật của con Trong TCT, hai loại KG đó (hiện thực người nhưng chịu sự chi phôi của những và kì ảo) luôn tồn tại, đan xen vào nhau, có quan niệm tín ngưỡng, tôn giáo. Đó là quan quan hệ vói nhau. Sự tồn tại của mỗi loại niệm vê tính nhiều tầng của thê giới: Thế KG này không th ê tá c h rời vói loại KG k ia giói Thiên dinh, Thuỷ phủ, Am phủ... và ngược lại. Nhưng dù là KG kì ảo hay KG Những hình thức không gian đó không tồn hiện thực thì KGNT của TCT cũng mang tại trong thực tế nhưng nó tồn tại trong ý tính chức năng và mang tính quan niệm. thức, trong quan niệm của con người, nó Đó là những phương tiện để chuyển tải mang tính chất biểu trưng, đúng như những quan niệm về th ế giới, về con người. Gurevich đã nhận xét: "Đôi khi chúng ta Đồng thời, chúng cũng tạo nên sự cân bằng không ý thức dược rằng thời gian và không trong tâm lí con người,'giúp con người giải
- 10 NGUYỄN VIỆT HÙNG toả những áp lực trong cuộc sông, mơ ước cho chàng Ngưu và con không trở vê' trần gian hưổng tới thế giói tương lai. được mà phải chết dọc đường; tương tự như 2. Không gian cản trở và không gian vậy là hoàn cảnh của vợ chồng người đánh phi cản trở cá trong Sự tích con sam... KG phi cản trở được hiểu theo hai hình Chúng ta vẫn thường đề cập đến yếu tô thức: một là không gian kì ảo trong đó KGNT trong TCT, phân tích những hình nhân vật di chuyển từ KG trần thê (hoặc thức tồn tại cũng như tính quan niệm của KG kì ảo) đến KG kì ảo một cách dễ dàng; nó. Nhưng nhiều khi, chúng ta thấy rằng hai là KG hiện thực có khoảng cách giữa dường như KG của TCT không tồn tại, các điểm khác nhau nhưng nhân vật cũng Likhachôp gọi đó là tính phi cản trở của có thể di chuyển thuận lợi nhờ những phép KG TCT. Prôp đã nhận định rằng KG "có màu kì diệu, những vật báu. Hình thức di trong truyện cổ, nó là một thành phần câu chuyên mang tính chất thần kì đó vượt ra trúc không thể thiếu được. Mặt khác, nó ngoài quy luật của không gian, thời gian, dường như hoàn toàn vắng mặt"(7). Khi nói tốc độ khiến cho chúng ta cảm giác rằng đến KG cản trở và KG phi cản trở là chúng KG (khoảng cách) đó là không tồn tại. ta gắn KGNT với những hành động của Trong truyện Cái dây lưng, o Bù hai lần nhân vật. Sự cảm nhận của chúng ta vê vượt qua núi cao, qua chín suôi, chín đèo nhrtng loại hình KG này cũng thông qua nhưng truyện không nói gì đến quá trình đi việc tìm hiểu các hành động của nhân vật. của nhân vật mà chỉ kết luận "Cuối cùng, cô đến được con suôi"... KG cản trỏ' là loại KG gây ra những trở ngại trong quá trình di chuyển của nhân Không gian phi cản trở trong TCT vật, KG chứa đựng những thử thách, không còn là KG địa lí mà là "không gian những kẻ thù ngăn cản đường đi của nhân thần thoại - tôn giáo. Từ KG này chuyển vật. Loại KG này thường có mặt trong kiểu sang KG kia chẳng có gì khó khăn"(8). Do đó truyện dũng sĩ, trong những dạng truyện nó cũng không có tính xác định. Trần công phiêu lưu, những cuộc truy đuổi của kẻ đến xứ sở của thần Mưa nhờ cây gậy rút thù... KG mang tính cản trở cũng xuất hiện đất mà vượn tặng, rồi ông lại cưỡi trên lưng đôi với nhân vật phản diện: mụ Chằng liên sư tử bay đi khắp nơi (Làm ơn hoá dạiỴ Cuộc hành trình của nhân vật tuy đi từ nơi tiếp bị những vật báu mà chàng đi săn vứt này đên nơi kia, "qua nhiều vùng, nhiêu xứ lại khiên mụ không thể đuổi kịp (làm cho sở" nhưng dường như những khoảng cách sông biển nổi lên thành rừng, cho núi sụt không gian đó không tồn tại. Điều này có xuống thành sông biển)... được không chỉ do Trần công sử dụng KG cản trở cũng mang Lính quan niệm những phương tiện thẩn kì mà có lẽ do cách và tương trưng rõ nét bởi vì nêu vượt qua tư duy của tác giả TCT: những hình thức dược những cản trở đó thì con người sẽ đạt không gian khác nhau đó thực chất là sự được ưốc mơ, khát vọng của mình. Và biến đổi của một địa điểm cố định trong ngược lại, nhân vật không làm chủ được nhiều thời điểm khác nhau - lây không không gian, không chiến thắng được những gian để biểu thị sự biến đổi của thời gian cản trở của KG cũng có nghĩa là anh ta (bằng chứng là quê của Trần công lúc hạn, phải chấp nhận bi kịch: Đã Tràng xe cát lúc lụt). Cho nên, hình thức KG đó có mặt biển Đông; Từ Thức trở lại cửa Thần Phù, trong TCT nhưng có lẽ chúng không tồn tại lá cây đã che kín lôi vào; KG cản trở khiến trên thực tế.
- Nghiên cứu trao đôi 11 Như vậy là trong thể loại TCT, nhân 3. Không gian điểm và không gian dân cũng nhận ra việc di chuyển trong KG tuyến tính gặp rấ t nhiều khó khăn cản trở. Đấy là một "Điểm" và "tuyến tính" vein là những thực tê của những người dân sống rải rác, khái niệm hình học. Những nhà nghiên cứu cách xa nhau, hơn nữa phương tiện lạc hậu thi pháp học vận dụng chúng như là những thì đi lại là một việc nguy hiểm. Chính vì khái niệm của không gian nghệ thuật, chỉ thế, khi không làm chủ được KG thiên tính chất của KGNT. nhiên quanh mình thì họ dựa nhiêu vào Theo Từ điên tiếng Việt (Hoàng Phê thê giới biểu tượng mang tính chất tâm chủ biên), nghĩa danh từ của từ "điểm" có 7 linh, ước mơ chinh phục không gian bằng nghĩa, chúng tôi chú ý nghĩa thứ 3: những hình thức nghệ thuật kì ảo. Trong "điểm là phần không gian, nơi nhỏ n h ất truyện Người học trò với ba con quỷ, ba con có thể hạn định được một cách chính xác, xét quỷ tặng cho anh học trò Long con ngựa về mặt nào đó" Chúng tôi hiểu không gian 9. ngày đi ngàn dặm, tặng túi mặt trời và túi điếm là loại không gian có tính chất cô định, mặt trăng. Con ngựa là phương tiện kì ảo tĩnh tại và nhỏ hẹp, chỉ gồm một địa điểm, đê chinh phục khoảng cách KG, Long nhờ không có sự mở rộng theo chiều dài. Do đó, đó mà vượt hàng ngàn dặm từ kinh đô vê hoạt động của nhân vật trong môi trường thăm vợ. Những vật báu m ặt trời và mặt không gian này bị bó hẹp, có khi chỉ diễn ra trăng được Long sử dụng là cách chinh trong một ngôi nhà, một ngôi làng, một đỉnh phục không gian bằng cách làm cho thời núi, một góc rừng... gian kéo dài ra. Bản chất của hành động đó Cũng theo từ điển trê n , tuyến tính là khắc phục sự hạn chê của tốíc độ cho nên là danh từ dược hiểu là tín h chất nôi muôn chiếm lĩnh KG thì nhân vật phải kéo tiếp n h au theo đường thẳng*1 . Không 1 dài thời gian. gian tuyến tín h là khoảng không gian trải Bên cạnh đó, TCT cũng sử dụng một dài, gồm nhiều điểm kết hợp vối nhau tạo cách thúc thường thấy là xoá nhoà những nên môi trường hoạt động mang tính chất khoảng cách, những cản trở của KG. Khi đó rộng lổn, nhân vật có thể di chuyển đi từ KG không còn cản trở nhân vật nữa và điểm này đến điểm khác. Đến mỗi điếm TCT chú trọng đến những hành động của dừng, hành động của nhân vật diễn ra và nhân vật trên nền bôi cảnh KG đó mà thôi. thúc đẩy cốt truyện phát triển. Do đó, đặc điểm này càng củng cố cho nhận Không gian điểm là loại không gian dặc định KGNT của TCT mang tính chất quan trưng của thần thoại và kịch. Trong thần niệm và ước lệ. KG không cản trở giúp cho thoại, mỗi vị thần có một địa điểm hoạt động nhân vật trung tâm dễ dàng đến được vối nhất định, mỗi V thần cai quản một vùng. thế giối mơ ước, đạt được khát vọng của con Dù họ có di chuyển từ nơi này qua nơi khác người. Đúng như lời bình của Gorki: "Trong nhưng mỗi hành động thường chỉ diễn ra ở truyện cổ tích, người ta bay trên không một nơi nhất định: Sơn Tinh là thần núi Ba trung, ngồi lên tâm thảm biêt bay, đi hài Vì, thần Biển là con rùa khổng lồ chỉ nằm bảy dặm, phục sinh những người đã chết... yên một chỗ, thần Trụ trời đứng lên chông nói chung t''uyện cô tích đã mở ra trước bầu trời... Thậm chí thần Lúa trưổc đây tự mắt tôi cánh cửa sổ để trông vào cuộc sống đi vê nhà người nông dân nhưng về sau thần khác - trong đó có lực lượng tự do không không chịu đi đàu nữa chỉ đứng một chỗ... biết sợ đang tồn tại và hoạt động mơ tưởng Nhưng đến giai đoạn sau (thần thoại suy đến cuộc đổi đời tot đẹp hơn". tàn, giao thoa với thể loại truyền thuyết và
- 12 NGUYỄN VIÊT HÙNG sử thi, truyện cổ tích) thì không gian điểm tính thì KG điểm được chú ý đặc biệt vì dần dần phát triển thành không gian tuyến "mọi sự phát triển đều có những điểm dừng tính. Nhân vật luôn có xu hướng mồ rộng và những điểm dừng đó được gia công chi địa bàn hoạt động: Sơn Tinh trở thành tiết..."ll,:. tướng, con rể vua Hùng, lập nhiều chiến Trong TCT Việt Nam, KG điểm được thể công; sự tích và chiến công của ông Đùng hiện rất phong phú, đa dạng dưối nhiều trải dọc theo hai bờ sông Đà... hình thức khác nhau. Có thể nói, đây là Trong khi đó, không gian tuyến tính dạng KG phổ biến nhất của các TCT. TCT xuất hiện trong nhiều thổ loại văn học dân sinh hoạt và TCT loài vật đều có KG phổ gian đặc biệt là truyền thuyết và sử thi. Đó biến là các địa điểm và những hoàn cảnh cụ củng là môi trường hoạt động mang tính thể. Trong TCT thần kì, những dạng truyện chất ưa thích của các nhân vật anh hùng. “sự tích” thường diễn ra ở một địa diêm nhất Loại không gian này phù hợp với tính chất định nào đó, nhân vật thường ít khi di anh hùng, nhằm ca ngợi những chiến công chuyên: Sự tích cây huyết dụ, S ự tích chim kì vĩ, nhân vật truyền thuyết và sử thi hít cô, Sự tích chim tu hú, Sự tích con khí... không ngừng mở rộng không gian của Đặc điểm này có thể nhận thây thông qua mình: Gióng là đại diện cho sức mạnh cộng việc tìm hiểu cấu tạo cốt truyện của TCT thần đồng chông ngoại xâm, mà dấu tích chiến công của ngài trải dài khắp vùng trung kì. Theo tác giả Tăng Kim Ngân, cấu tạo cốt châu Bắc Bộ; Lý Thường Kiệt không chỉ truyện của TCT người Việt hết sức đơn giản, được biết đến như là người anh hùng làm thường không có nhiều chức năng (theo lí nên chiến thắng bên sông Như Nguyệt mà thuyêt vê 31 chức năng của Prôp). Đáng chú ý dâu chân của ông còn in đậm trên vùng đất là một số chức năng xuất hiện thưa thớt như: phía bắc của Tổ quốc, trong những truyền sự biến hình, sự giao tranh, chuyến viếng thăm thuyết dân gian của đồng bào Tày - Nùng; bí mật, sự truy nã, sự thoát thân... Mà những nhân vật Trần Hưng Đạo trở thành trung chức năng này liên quan đến sự di chuyên tâm của hệ thống truyền thuyêt và tín ngưỡng trong không gian của nhân vật. Mặc dù có mặt ở hầu hêt các địa phương Bắc Bộ; con chức năng "sự ra đi - từ giã" xuất hiện dường truyền thuyết vê' Lê Lợi cũng trải dài từ 38/33 truyện” 2* nhưng chúng tôi cho rằng Thanh Hoá ra Thăng Long... hình thức ra đi của nhân vật trong TCT người Việt là không điển hình, không tạo Bưốc sang thể loại truyện cổ tích, nên biến cô’ lốn của cốt truyện và nhiều khi KGNT không chỉ có một loại mang tính đặc đó là "sự ra đi giả". thù mà nó là sự kết hợp của nhiều loại hình KGNT, trong đó đặc biệt là sự kết hợp Sở dĩ chúng tôi dùng khái niệm "sự ra của KG điểm và KG tuyến tính. Trong môi đi giả" vì trong TCT người Việt, nhiều khi quan hệ đó, KG điểm đóng vai trò nòng cốt, nhân vật ra đi không phải là sự dấn thân bởi vì cũng như trong hình học, điểm vào môi trường nguy hiểm, đôi diện với thường không được định nghĩa mà nó là những thử thách (kiểu như ra đi giải cứu đơn vị cơ bản dùng để xây dựng (định những người anh - bầy chim thiên nga, ra nghĩa) các phạm trù khác. Do đó, KG điểm đi tìm ba quả táo vàng, ra đi giải thoát được xem như một thành tố cấu tạo nên KG công chúa... như TCT phương Tây). Sự ra tuyến tính và cùng với KG tuyến tính xác lập đi của nhân vật nhiều khi chỉ vì tình thế mô hình không gian thế giối. Trong quá trình bắt buộc, để thoát khỏi hoàn cảnh trưốc phát triển để kết hợp tạo thành KG tuyến mắt, bản chất của nó có thể gọi là "sự vắng
- Nghiên cứu trao đổi 13 mặt tạm thời". Những chi tiết dạng này mang tính chất, đặc điểm của đời sông con gần gũi với thể loại kịch: nhân vật hết vai người, mang quan niệm của thời đại TCT diễn nhường sân khấu lại cho nhân vật vê' thê giới, về cuộc sống. khác thê hiện. Sự ra đi điển hình theo đúng Sự mỏ rộng KG có m ặt trong TCT nghĩa của chức năng này là nhân vật phải nhưng nhân vật của TCT không có xu làm chủ hành động ra đi và cốt truyện phát hướng chiếm lĩnh KG như trong sử thi mà triển trên cơ sở khai thác việc ra đi của con người trong TCT vẫn xem mình như nhân vật. Nhưng ở nhiều TCT người Việt, một phần của KG, lấy KG để soi chiếu bản nhân vật tuy là có "sự ra đi" nhưng cốt thân mình. Cho nên, nhân vật di chuyển truyện vẫn kể diễn biến ở địa điểm ban trong KG để mong muôn thay đổi cuộc đời, đầu, gắn với hành động của những nhân thay đôi sô phận và nhân vật thụ động vật khác: trước những môi trường KG khác. KG + Người chồng vì nghèo đói ra đi, vọ' ở quyết định hành động và số phận của nhân nhà lây người chồng khác giàu có, ba năm vật: Ví dụ khi đi trong th ế giới âm phủ (hay sau chồng cũ trở vê (vẫn nghèo đói - ra đi thủy cung) nhân vật không được nói cười; ỏ' không có sự đổi đời: đó là "sự ra đi giả") - Âm phủ, Thủ Huồn phải chịu sự trừng Sự tích ba ông đầu rau. phạt... Cho nên, nhiều khi nhân vật không + Người chồng ra đi biệt tăm, người vợ có đủ bản lĩnh để thay đổi KG, thay đổi môi đau khô, chờ chồng đến hoá đá - Sự tích trường sông của mình: Hồ sinh ăn miêng Vọng ph u trầu được đưa đến một thê giới kì ảo mà + Sọ Dừa lên kinh thi, câu chuyện tiếp anh được làm quan nhưng sau đó lại bị bắt diễn với người vợ ở nhà - Sọ Dừa. giam. Khi tỉnh dậy, anh không dám đi đến Như vậy, nhân vật có sự ra đi, có sự di kinh đô nữa, từ bỏ hẳn giấc mộng làm quan chuyển địa điểm trong không gian nhưng mà chí thú làm ăn trên ruộng đất của mình sự tồn tại của "không gian tuyến tính" chỉ {Miếng trầu ki diệu). mang tính hình thức và không tiêu biêu: Trong TCT, ngoài hình thức "KG tuyến Tấm từ nhà vào cung nhưng tính chất dân tính giả" như trên, nhiêu truyện có hình dã của không gian làng quê cũng như thức KG tuyến tính đích thực. Đó là dạng những nguy hiểm luôn rình rập cô thì KG ở trong truyện: Hai cô gái và cục bướu, không thay đồi (Tàm Cám.). Cây khế, Thạch Sanh, Người học trò với ba Chính vì không gian hoạt động của con quỷ, Người học trò nghèo và Ngọc nhân vật không thể mở rộng theo chiều dài, Hoàng... Trong đó, nhân vật luôn luôn di chiều rộng (tức là theo trục ngang) cho nên chuyển trong KG, thay đổi phạm vi hoạt tư duy TCT đã mở rộng không gian theo động của mình. Mỗi chặng trong cuộc đời trục dọc. Có nghĩa là từ một điểm ban đầu nhân vật gắn vối một địa điểm nào đó và soi chiếu lên các tầng không gian khác mỗi địa điểm đó cũng biểu hiện những nét (Thiên dường, Âm phủ, Thủy cung), chúng khác nhau trong cuộc đời, số phận của ta có các điểm tương tự ở các không gian nhân vật. KG tuyến tính đặt nhân vật vào đó. Đây cũng chính là cơ sở của tính biểu trạng thái luôn luôn phải hành động, thông trung của KG kì ảo, là sự mô hình hoá, là thường KG đó cũng chính là con đường mà sự soi chiếu của KG trần thế, của th ế giới nhân vật tìm kiếm hạnh phúc, ơ mỗi một trần tục mà thôi. Những thế giối kì ảo đó chặng (một điểm) trên KG tuyến tính đó,
- 14 NGUYỄN VIỆT HÙNG nhân vật bộc lộ sự phát triển về tài năng và (3) Tuyển tập V.Ia. Prôp. tập 2 (2003). Nxb. Văn hoá dân tộc - Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật., H., nhân cách qua các hành động: Thạch Sanh tr. 235 lúc đi diệt chằn tinh là người gan dạ. dũng (4) Lẽ Trường Phát (2000), Thi pháp văn học cảm nhưng nhẹ dạ cả tin; lúc cứu công dân gian. Nxb. Giáo dục, tr. 45 chúa là nghĩa hiệp xả thân; lúc đánh quân (5) Tăng Kim Ngân (1994), Cô tích thần kì xâm lược là mưu trí, bản lĩnh; Sọ Dừa lúc ở người Việt ■ Đặc điếm câu tạo cót truyện. Nxb nhà là cục thịt lăn lông lốíc, đến nhà phú Khoa học xã hội, H, trang 141 ông là người lao dộng tài ba, khi kết hôn là (6) HA.JA. Gurêvich (1996): Các phạm trù chàng trai khôi ngô, lúc lên kinh thi là văn hoá trung cỏ (Hoàng Ngọc Hiến dịch). Nxb. Giáo dục, H., tr. 31 Trạng nguyên, tài trí hòn người... (7) Tuyến tập Prôp. sđd. tr. 235 Chúng tôi cũng lưu ý rằng "trong (8) Gurêvich, Sđd, tr. 51 truyện cô, những yếu tố tĩnh, điểm dừng ra (9) Hoàng Phê (chủ biên 1992). Từ điên dời sớm hơn bô’ cục không gian. Không gian tiếng Việt), Trung tâm từ điển ngôn ngữ, H., tr. dã bị hoà trộn vào trong một cái gì đó có 323 sởm hơn. Những yếu tô’ cơ bản được tạo (10) Hoàng Phê, sđd, tr. 1049 thành trước sự xuất hiện của khái niệm (11) Tuyên tập Prôp. sđd, tr. 235 không gian"113* Bởi vì trong quá trình phát . (12) Tăng Kim Ngân, sđd, tr. 143 triển của tư duy con người thì hình thức ban đầu bao giờ cũng mang tính chất cụ (13) . Tuyển tập Prop. Sđd. tr. 236 thê, cảm tính. Những mô hình không gian vê' thế giới là sản phẩm của một trình độ tư TIN TỨC duy cao hơn. (Tiếp theo tr a n g 88) 4. Kết luận 2. PGS. Cao Xuân Phổ, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Phan biện 1 Như vậy, KGNT mang tính hai mặt là một trong những đặc trưng thẩm mĩ quan 3. PGS. Nguyễn Bích, Hội Nghệ sĩ tạo hình Việt Nam, Phản biện 2 trọng của thê loại TCT. Điêu này là kết quả của tư duy tham mĩ mang tính chất nhị 4. TS. Bùi Minh Trí, Viện Khảo cổ học, Phản biện 3 nguyên của nhân dân lao động trong thời đại TCT. Từ đặc điểm mang tính khái quát này 5. TS. Nguyễn Đình Chiến, Bảo tàng chúng ta có thể đưa ra nhiều cặp mô hình lịch sử Việt Nam, Thư kí hội đồng KGNT của TCT. Những loại hình KG dó đã 6. GS.TS. Kiêu Thu Hoạch, Hội Văn nghệ góp phần hình thành thế giới nghệ thuật dân gian Việt Nam, ú y viên hội đồng TCT vừa mang tính hiện thực vừa là mơ ước 7. GS. TS. Ngô Đức Thịnh, Viện của con người. Những hình thức KGNT đó có Nghiên cứu văn hoá, ủy viên hội đồng ảnh hương nhất dinh tới tính chất của thê Cả bảy vị đêu có mặt. Sau khi nghe giới nghệ thuật TCT, một thố giỏi đặc biệt NCS trình bày tóm tắt nội dung luận án. "cần có và nên có" cho con người.o nghe nhận xét của các vị phan biện, nghe NCS trả lời các câu hỏi, nghe ý kiến đánh N.V.H1 giá của tập thổ hướng dẫn, Hội đồng đã họp 2 riêng. (1) Trần Đình sử, Tuyển tập, tập 2 (2005). Bảy thành viên trong hội dồng dã bỏ Nxb Giáo dục., tr. 120 phiếu kín vói kết quả 'in phiếu xếp loại (2) Trần Đình Sử, sđd, tr. 124 xuất sac cho luận án này.
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn