intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TÌNH THẾ CÁCH MẠNG3

Chia sẻ: Thi Marc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

54
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ý thức chính trị lý luận (trình độ lý luận về chính trị, hay hệ tư tưởng chính trị) là những quan điểm về chính trị đã được khái quát, hệ thống hóa thành một hệ thống lý luận, phản ánh một cách sâu sắc lợi ích giai cấp, do các nhà lý luận của một giai cấp xây dựng nên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TÌNH THẾ CÁCH MẠNG3

  1. nhưng nó có khả năng làm tăng thêm vốn kinh nghiệm về chính trị trong cuộc sống hàng ngày của con người. Ý thức chính trị lý luận (trình độ lý luận về chính trị, hay hệ tư tưởng chính trị) là những quan điểm về chính trị đã được khái quát, hệ thống hóa thành một hệ thống lý luận, phản ánh một cách sâu sắc lợi ích giai cấp, do các nhà lý luận của một giai cấp xây dựng nên. Lý luận chính trị được thể hiện trong các lý luận về chế độ xã hội, về nhà nước, về chính đảng, về giai cấp, về dân tộc..., và nó được cụ thể hóa trong các cương lĩnh chính trị, trong các đường lối chiến lược, sách lược của các chính đảng của các giai cấp. Hệ tư tưởng của một giai cấp có vai trò to lớn trong hoạt động của giai cấp. Ý thức chính trị có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Thông qua tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, đặc biệt là nhà nước nó tác động mạnh mẽ trở lại kinh tế và mọi mặt của tồn tại xã hội. Tác động của ý thức chính trị theo hai hướng. Nếu ý thức chính trị tiến bộ và khoa học, phản ánh đúng quy luật phát triển kinh tế xã hội... và được thực hiện thông qua một tổ chức nhà nước hiệu quả, thì nó sẽ tác động thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Ngược lại, nếu ý thức chính trị là sai lầm, lạc hậu, phản động thì nó sẽ gây ra những tác động xấu rất lớn cho xã hội. Khi một giai cấp còn tiến bộ, cách mạng, tiêu biểu Page 420 of 487
  2. cho xu thế đi lên của lịch sử thì hệ tư tưởng chính trị của nó có tác dụng tích cực đến sự phát triển xã hội. Khi giai cấp đó trở thành lạc hậu, phản động, thì hệ tư tưởng của nó có tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển xã hội. Với bản chất khoa học và cách mạng triệt để, hệ tư tưởng Mác – Lênin sẽ dẫn dắt giai cấp vô sản và nhân dân lao động tiến hành đến cùng sự nghiệp đấu tranh xoá bỏ mọi áp bức bóc lột, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. 2. Ý thức pháp quyền Ý thức pháp quyền là toàn bộ những quan điểm về bản chất, vai trò của luật pháp, về quyền và nghĩa vụ của nhà nước, của các tổ chức xã hội và công dân, về tính hợp pháp và không hợp pháp của hành vi con người trong xã hội, về đánh giá các luật pháp đã ban hành... Một bộ phận tập trung và quan trọng nhất của ý thức pháp quyền là Hệ thống luật pháp. Nó do cơ quan lập pháp là quốc hội hoặc thượng, hạ viện nằm trong hệ thống nhà nước ban hành, được thi hành bởi cơ quan hành pháp là bộ máy chính phủ từ trung ương tới địa phương, được cơ quan tư pháp gồm cơ quan kiểm sát, toà án, nhà tù... phát hiện và xử lý các sai phạm trong thực thi pháp luật, pháp chế. Page 421 of 487
  3. Ý thức pháp quyền mang tính giai cấp rất rõ. Bởi vì, pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện thành luật lệ. Mỗi chế độ xã hội, mỗi nhà nuớc chỉ có một hệ thống pháp luật của giai cấp nắm chính quyền. Và trong các xã hội có giai cấp đối kháng, các giai cấp khác nhau có những ý thức khác nhau, thậm chí đối lập nhau về pháp quyền và pháp luật. Nhưng ý thức pháp quyền và pháp luật của giai cấp thống trị bao giờ cũng giữ vai trò thống trị, chi phối các ý thức pháp quyền và pháp luật của các giai cấp khác. Mặt khác, ý phức pháp quyền, mà đặc biệt là hệ thống luật pháp còn luôn đặt nền tảng trên điều kiện kinh tế chung của xã hội. Luật kinh tế vừa bảo vệ lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị, vừa phản ánh điều kiện kinh tế chung của xã hội, chú ý phần nào đến lợi ích của các giai tầng khác trong xã hội. Luật thuế còn phải căn cứ trên tình hình sản xuất của xã hội, chú ý động viên sức sản xuất của xã hội thông qua đảm bảo nhu nhập... của mọi thành phần kinh tế. Cũng như ý thức chính trị, ý thức pháp quyền ra đời cùng với nhà nước. Giữa hai hình thái này có sự gắn bó chặt chẽ với nhau và với nhà nước. Tư tưởng chính trị thấm nhuần trong luật pháp; và luật pháp thể hiện mục tiêu chính trị; bộ máy nhà nước với cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp là công cụ quyền lực to lớn đảm bảo thực thi luật pháp, thực hiện Page 422 of 487
  4. đường lối chính trị. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền vững mạnh có ý nghĩa to lớn đối với mọi quốc gia hiện nay. Luật pháp và hệ tư tưởng pháp quyền xã hội chủ nghĩa phản ánh lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là công cụ bảo vệ lợi ích chính đáng của mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ: “Tăng cường giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng”76. 3. Ý thức đạo đức Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng, danh dự, phẩm giá..., và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội. Khác với các hình thái ý thức khác, ý thức đạo đức phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng các quy tắc điều chỉnh (bằng dư luận) hành vi con người. Chiều sâu của đạo đức là lương tâm, danh dự, lòng tự trọng... phản ánh khả năng tự chủ của con người. Đó là sức mạnh đặc 76 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Lưu hành nội bộ, tr. 56. Page 423 of 487
  5. biệt của đạo đức. Khả năng này chính là gương mặt đạo đức của con người, là biểu hiện đặc sắc bản chất xã hội của con nguời và của tiến bộ xã hội nói chung. Tình cảm đạo đức là yếu tố quan trọng nhất trong hệ thống ý thức đạo đức, nếu thiếu nó thì mọi khái niệm, phạm trù đạo đức được lĩnh hội thuần túy bằng con đường lý tính đều không thể chuyển hóa thành hành vi đạo đức. Tính nhân loại và tính giai cấp của ý thức đạo đức: Trong tiến trình lịch sử phát triển của xã hội, đã hình thành những giá trị đạo đức chung của toàn nhân loại. Chẳng hạn như coi trọng tài năng, kính trọng người già, yêu trẻ em..., ghét thói hư tật xấu, đề cao lòng tự trọng... Khi xã hội phân chia giai cấp, nội dung chủ yếu của ý thức đạo đức xã hội cũng phản ánh quan hệ giai cấp, lợi ích giai cấp. Ph.Ăngghen viết: “Xét đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ, vì cho tới nay xã hội đã vận động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn luôn là đạo đức của giai cấp, hoặc là nó biện hộ cho sự thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị, hoặc là, khi các giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh, thì nó tiêu biểu cho sự Page 424 of 487
  6. nổi dậy chống lại sự thống trị nói trên và tiêu biểu cho lợi ích tương lai của những người bị áp bức”77. Trong điều kiện của cách mạng khoa học - công nghệ, sẽ là sai lầm nếu cực đoan cho rằng, hoặc kỹ thuật là tất cả, hoặc chỉ có một đạo đức mới duy nhất và phi giai cấp – đó là đạo đức của tôn giáo mới, có thể đảm bảo cho loài người tồn tại và phát triển. Đạo đức cộng sản là đạo đức cách mạng, đạo đức kiểu mới về chất, được hình thành trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, bắt nguồn từ bản chất cách mạng của họ, đồng thời kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của loài người, trước hết là của quần chúng lao động. Đạo đức cộng sản đòi hỏi “mìnha!ì mọi người, mọi người vì mình”, kết kợp hài hoà sự phát triển của cá nhân, tập thể và xã hội, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ. Ý thức tập thể, tinh thần lao động quên mình và sáng tạo, chủ nghĩa nhân đạo cao cả, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế... là những giá trị căn bản của đạo đức cộng sản. Đạo đức cộng sản đòi hỏi một quá trình giáo dục và tự giáo dục bền bỉ cả về nhận thức lý luận cũng như về thực tiễn. 77 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, T. 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 137. Page 425 of 487
  7.  Câu 53: Phân tích nội dung hình thái ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo và ý thức khoa học. 1. Ý thức thẩm mỹ Ý thức thẩm mỹ là sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong quan hệ với nhu cầu thưởng thức và sáng tạo cái đẹp. Khác với nhiều hình thái ý thức khác, ý thức thẩm mỹ phản ánh thế giới hiện thực một cách cụ thể và sinh động bằng các hình tượng nghệ thuật. Các hình thái này cũng phản ánh cái bản chất của đời sống hiện thực, nhưng thông qua cái cá biệt, cái điển hình cụ thể, cảm tính, sinh động. Không thể tách biệt các yếu tố cảm tính và lý tính trong ý thức nghệ thuật, vì rằng, bất kỳ hình tượng nghệ thuật nào cũng hòa quyện trong đó cả giá trị nghệ thuật, thẩm mỹ, lẫn các giá trị nhận thức, tư tưởng, đạo đức. Xét đến cùng, cả giá trị nội dung lẫn hình thức của nghệ thuật đều phản ánh tồn tại hiện thực, một sự phản ánh mang tính độc lập tương đối rõ nét, do đó, không phải bao giờ nghệ thuật cũng phản ánh tồn tại hiện thực một cách trực tiếp và dễ thấy. C.Mác viết: “Đối với nghệ thuật, người ta biết rằng những thời kỳ hưng thịnh nhất của nó hoàn toàn không Page 426 of 487
  8. tương ứng với sự phát triển chung của xã hội, do đó cũng không tương ứng với sự phát triển của cơ sở vật chất của xã hội, cơ sở này dường như cấu thành cái xương sống của tổ chức xã hội”78. Nghệ thuật chân chính bao giờ cũng gắn bó mật thiết với đời sống hiện thực của nhân dân, có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ xã hội, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu thẩm mỹ của con nguời, cổ vũ những hành vi đạo đức và tính tích cực, sáng tạo của con người. Trong xã hội có giai cấp, nghệ thuật mang tính giai cấp, chịu sự tác động của thế giới quan, tư tưởng chính trị, đạo đức của giai cấp này hay giai cấp khác. Quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật là quan niệm xuyên tạc sự thật. Giai cấp công nhân và chính đảng của nó luôn hướng nghệ thuật vào cuộc đấu tranh giải phóng người lao động, các dân tộc bị áp bức, để tiến tới xây dựng một chế độ xã hội mới tốt đẹp. Nguyên tắc tính đảng cộng sản được coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt nghệ thuật XHCN. Nó không hạn chế mà trái lại đòi hỏi và cho phép phát triển mọi tài năng sáng tạo của người nghệ sĩ. Nhấn mạnh tính giai cấp của nghệ thuật trong xã hội có giai cấp, chủ 78 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, T. 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 629. Page 427 of 487
  9. nghĩa Mác – Lênin còn đòi hỏi khẳng định và phát huy tính năng động chung được phản ánh trong nghệ thuật. Các giá trị của nghệ thuật tiến bộ và cách mạng gắn liền với giai cấp này hay giai cấp khác không mâu thuẫn với tính nhân loại, mà còn làm sâu sắc và phong phú các giá trị toàn nhân loại. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn đánh giá cao vai trò của văn nghệ, của các văn nghệ sĩ, đồng thời cũng đòi hỏi ở văn nghệ và văn nghệ sĩ trách nhiệm nặng nề đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 2. Ý thức tôn giáo Giải thích nguồn gốc và bản chất của tôn giáo là một trong những vấn đề phức tạp của triết học. Chủ nghĩa duy tâm và các tôn giáo đã và sẽ còn giải thích một cách sai lầm, xuyên tạc về vấn đề này. Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh thế giơi một cách hoang đường, hư ảo, thần thánh hóa bằng các tín điều. Ph.Ăngghen viết: “Bất tôn giáo nào cũng đều là sự phản ánh hư ảo vào đấu óc người ta sức mạnh ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; Page 428 of 487
  10. chỉ là sự phản ánh mà trong đó sức mạnh ở thế gian đã mang hình thức sức mạnh siêu thế gian”79. Nguồn gốc tôn giáo gồm có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội, và xét đến cùng đều gắn liền với tồn tại xã hội. Đó là: - Sự bất lực và sợ hãi của con người trước những sức mạnh của tự nhiên chưa được nhận thức và chế ngự là nguồn gốc nhận thức của tôn giáo. - Sự bất lực, sợ hãi và đau khổ của con người trong điều kiện xã hội có áp lực, bóc lột là nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Trong điều kiện ấy, các quy luật xã hội biểu hiện ra như là những lực lượng mù quáng, tự phát, trói buộc con người thường xuyên quyết định số phận của họ. Cho nên họ cũng cảm nhận các lực lượng hiện thực này của xã hội dưới hình thức thần bí hóa của lực lượng siêu nhiên. Khi bàn về xã hội tư sản, V.I.Lênin viết: “Sự sợ hãi đã tạo ra thần linh, sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản, mù quáng vì quần chúng nhân dân không thể đoán trước được nó, là thế lực bất cứ lúc nào trong đời sống của người vô sản và người tiểu chủ, cũng đe dọa đem lại cho họ và đang đem lại cho họ sự phá sản “đột 79 Ph.Angghen, Chống Đuy rinh, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971, tr. 544. Page 429 of 487
  11. ngột”, “bất lực”, “ngẫu nhiên”, làm cho họ phải diệt vong, biến họ thành một người ăn xin, một kẻ bần cùng, một gái điếm và dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc xấu xa của tôn giáo hiện đại mà người duy vật phải chú ý đến trước hết và trên hết, nếu người ấy không muốn cứ mãi mãi là một người duy vật sơ đẳng”80. Là môt hình thái ý thức xã hội, tôn giáo bao gồm cả tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo. Tâm lý tôn giáo là những tình cảm, niềm tin, tập quán, biểu tượng tín ngưỡng, tôn giáo... Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống giáo lý do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra và truyền bá trong xã hội. Bản chất của ý thức tôn giáo được phân tích từ quan điểm lý luận và phương pháp luận Mác - Lênin chính là sự phân đôi một cách hư ảo thế giới hiện thực vốn thống nhất thành hai thế giới - thế giới trần tục và “thế giới bên kia”. Mọi tôn giáo đều ảo tưởng cho rằng, khổ đau, bất hạnh, ngang trái trên đời này sẽ được giải quyết một cách triệt để ở “thế giới bên kia”, ở “kiếp sau”. Tôn giáo đã và sẽ còn ảnh hưởng to lớn đến đời sống xã hội. Mặt nhân văn của tôn giáo là đền bù - hư ảo và cũng hướng thiện cho con người. Mặc tiêu cực 80 V.I.Lênin, Toàn tập, T. 17, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1970, tr. 515 – 516. Page 430 of 487
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2