intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tội phạm công nghệ cao đối với ngành Ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0: Thực trạng và một số khuyến nghị chính sách

Chia sẻ: ViSatori ViSatori | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

71
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tập trung trình bày tổng quan các rủi ro về tội phạm công nghệ cao đối với ngành Ngân hàng trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, phân tích, đánh giá thực trạng tội phạm công nghệ cao đối với ngành Ngân hàng tại Việt Nam; và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hạn chế tội phạm công nghệ cao trong ngành Ngân hàng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tội phạm công nghệ cao đối với ngành Ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0: Thực trạng và một số khuyến nghị chính sách

<br /> <br /> VẤN ĐỀ - SỰ KIỆN <br /> <br /> Tội phạm công nghệ cao đối với ngành Ngân hàng<br /> Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp<br /> 4.0: thực trạng và một số khuyến nghị chính sách<br /> Lê Thanh Tâm<br /> Phạm Thị Thu Thảo<br /> Ngày nhận: 17/04/2018 <br /> <br /> Ngày nhận bản sửa: 26/04/2018 <br /> <br /> Ngày duyệt đăng: 23/05/2018<br /> <br /> Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tác động sâu rộng toàn bộ mọi hoạt<br /> động, nhưng cũng tạo ra rất nhiều thách thức, rủi ro. Tội phạm sử<br /> dụng công nghệ cao nói chung, trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng<br /> có xu hướng gia tăng nhanh chóng cả về số lượng lẫn mức độ tinh<br /> vi, diễn biến phức tạp và gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng. Tuy<br /> vậy, cách mạng công nghệ cũng đem lại cơ hội để ngân hàng tận<br /> dụng nhằm phòng chống và hạn chế rủi ro. Bài viết tập trung vào (i)<br /> tổng quan các rủi ro về tội phạm công nghệ cao đối với ngành Ngân<br /> hàng trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; (ii) phân tích, đánh giá<br /> thực trạng tội phạm công nghệ cao đối với ngành Ngân hàng tại Việt<br /> Nam; và (iii) đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hạn chế tội<br /> phạm công nghệ cao trong ngành Ngân hàng.<br /> Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0, công nghệ cao, internet, ngân<br /> hàng, rủi ro, tội phạm công nghệ cao.<br /> <br /> 1. Giới thiệu<br /> <br /> ngành công nghiệp ở mọi quốc gia. Điều này<br /> tác động sâu rộng tới sự chuyển đổi của toàn<br /> bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị của<br /> xã hội loài người (Jorge Posada và các cộng sự,<br /> 2015; Mario Hermann và cộng sự, 2016). Trong<br /> ngành Ngân hàng, cuộc cách mạng công nghệ<br /> mang lại nhiều lợi ích lớn như: Tăng khả năng<br /> cung cấp sản phẩm dịch vụ hiện đại cho khách<br /> hàng thông qua tài chính số (digital finance); dữ<br /> liệu lớn (big data) giúp tiếp cận thông tin, dữ<br /> liệu, kết nối, hợp tác; trí tuệ nhân tạo (artificial<br /> <br /> uộc cách mạng công nghiệp 4.0<br /> (industrie 4.0) trong thời đại<br /> internet kết nối vạn vật (internet<br /> of things) và trí tuệ nhân tạo<br /> (artificial intelligence- AI) có<br /> tốc độ phát triển đột phá về công nghệ chưa<br /> có tiền lệ trong lịch sử, phát triển theo hàm<br /> số mũ, phạm vi ảnh hưởng rộng lớn trên toàn<br /> cầu và đang phá vỡ cấu trúc của hầu hết các<br /> <br /> © Học viện Ngân hàng<br /> ISSN 1859 - 011X<br /> <br /> 1<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> Số 192- Tháng 5. 2018<br /> <br /> VẤN ĐỀ - SỰ KIỆN <br /> <br /> intelligence- AI) giúp giảm chi phí, tăng năng<br /> suất lao động. Tuy vậy, điều này cũng gây ra<br /> nhiều khó khăn khi tội phạm công nghệ cao<br /> ngày càng tinh vi. Tội phạm sử dụng công nghệ<br /> cao tấn công vào lĩnh vực ngân hàng trên thế<br /> giới nói chung và tại Việt Nam có xu hướng gia<br /> tăng nhanh chóng cả về số lượng lẫn mức độ<br /> tinh vi, diễn biến phức tạp và gây ra nhiều hậu<br /> quả nghiêm trọng. Trước những thách thức đó,<br /> việc phát hiện và phòng ngừa tội phạm sử dụng<br /> công nghệ cao trở thành vấn đề cấp thiết đối với<br /> từng ngân hàng và cả hệ thống.<br /> Bài viết tập trung vào (i) tổng quan các rủi ro<br /> về tội phạm công nghệ cao đối với ngành Ngân<br /> hàng trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0;<br /> (ii) phân tích, đánh giá thực trạng tội phạm<br /> công nghệ cao đối với ngành Ngân hàng tại<br /> Việt Nam; và (iii) đề xuất một số giải pháp<br /> nhằm tăng cường hạn chế tội phạm công nghệ<br /> cao trong ngành Ngân hàng.<br /> 2. Các rủi ro về tội phạm công nghệ cao đối<br /> với ngành ngân hàng trong cuộc cách mạng<br /> công nghiệp 4.0<br /> Tội phạm công nghệ cao trong cuộc cách<br /> mạng công nghiệp 4.0<br /> Theo Halder &Jaishanka (2011), tội phạm công<br /> nghệ cao (cybercrime) là “Các hành vi phạm tội<br /> được thực hiện đối với cá nhân, nhóm người có<br /> hành vi phạm tội nhằm cố ý làm hại danh tiếng<br /> của nạn nhân hoặc gây tổn hại về thể chất, tinh<br /> thần, hoặc mất mát cho nạn nhân trực tiếp hoặc<br /> gián tiếp bằng cách sử dụng mạng viễn thông<br /> hiện đại như Internet (mạng không giới hạn ở<br /> Phòng trò chuyện, email, bảng thông báo và<br /> nhóm) và điện thoại di động (Bluetooth/SMS/<br /> MMS)”.<br /> Tội phạm công nghệ cao còn có một số tên gọi<br /> khác: tội phạm máy tính, tội phạm sử dụng<br /> công nghệ cao, tội phạm ảo, tội phạm không<br /> gian ảo, tin tặc. Trên thế giới, cùng với sự phát<br /> triển của máy tính, mạng máy tính và Internet,<br /> tội phạm công nghệ cao đã trải qua nhiều hình<br /> thái, từ đơn giản đến phức tạp, từ những cá thể<br /> đơn lẻ phát triển thành các tổ chức lớn và hoạt<br /> động ngày càng trở nên tinh vi. Đặc biệt từ khi<br /> cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ, tội phạm<br /> <br /> 2<br /> <br /> Số 192- Tháng 5. 2018<br /> <br /> công nghệ cao có nhiều biến thể đa dạng hơn.<br /> Tại Việt Nam, công nghệ cao được xác định<br /> trong Luật Công nghệ cao 2008 là “công nghệ<br /> có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và<br /> phát triển công nghệ; được tích hợp từ thành<br /> tựu khoa học và công nghệ hiện đại; tạo ra sản<br /> phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị<br /> gia tăng cao, thân thiện với môi trường; có vai<br /> trò quan trọng đối với việc hình thành ngành<br /> sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa ngành<br /> sản xuất, dịch vụ hiện có” (Quốc hội, 2008).<br /> Theo Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 25/2014/<br /> NĐ-CP, “tội phạm có sử dụng công nghệ cao<br /> là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định<br /> trong Bộ luật Hình sự có sử dụng công nghệ<br /> cao” (Chính phủ, 2014). Theo Bộ Luật Hình<br /> sự 2017, tội phạm công nghệ cao là “các hành<br /> vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực<br /> trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại<br /> thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm<br /> độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh<br /> thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ<br /> kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật<br /> tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của<br /> tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi<br /> ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những<br /> lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ<br /> nghĩa” (Quốc hội, 2017).<br /> Tổng kết lại, tội phạm sử dụng công nghệ cao<br /> là tội phạm sử dụng tri thức, kỹ năng, công cụ,<br /> phương tiện công nghệ ở trình độ cao tác động<br /> trái pháp luật đến thông tin, dữ liệu, tín hiệu<br /> được lưu trữ, xử lý, truyền tải trong hệ thống<br /> mạng máy tính, mạng viễn thông, thiết bị số,<br /> xâm phạm đến trật tự an toàn thông tin, có thể<br /> gây tổn hại tới quyền và các lợi ích hợp pháp<br /> của cá nhân, tổ chức, quốc gia.<br /> Ai có thể là tội phạm công nghệ cao?<br /> Xét về động cơ, về cơ bản có 3 nhóm trở thành<br /> tội phạm công nghệ cao như sau: (1) Học sinh,<br /> sinh viên hay những người muốn chứng minh<br /> năng lực của bản thân mà thực hiện các hoạt<br /> động tấn công mạng vào các trang tin trên<br /> Internet; (2) Các cá nhân, tổ chức chuyên lừa<br /> đảo để trục lợi về kinh tế; (3) Các cá nhân, tổ<br /> chức thực hiện hoạt động phá hoại hệ thống<br /> thông tin với mục đích chính trị. Trong đó,<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> <br /> <br /> <br /> nhóm thứ 3 có mức độ tác động lớn nhất, gây<br /> ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh<br /> quốc gia. Đặc biệt, nhóm này chủ yếu có nguồn<br /> gốc nước ngoài, không loại trừ có trường hợp<br /> được hậu thuẫn từ chính phủ, do đó rất khó xử<br /> lý, đối phó. Đối với nhóm 1 và nhóm 2, lực<br /> lượng công an có thể thực hiện hoạt động phá<br /> án, truy bắt thủ phạm. Riêng đối với nhóm 3,<br /> việc cơ bản cần làm là thực hiện các hoạt động<br /> tự bảo vệ, phát hiện, hạn chế hành động phá<br /> hoại và hậu quả của các hành động này, rất khó<br /> có thể truy tìm thủ phạm để tiêu diệt tận gốc<br /> vấn đề.<br /> Quy mô của tội phạm công nghệ cao trên thế<br /> giới<br /> Theo McAffee (2014), tội phạm công nghệ cao<br /> khiến kinh tế toàn cầu mất đi 445 tỷ USD mỗi<br /> năm. Trong nghiên cứu của PwC (2018), có<br /> tới 49% các tổ chức trên thế giới bị tội phạm<br /> công nghệ tấn công xâm nhập và ăn cắp dữ liệu<br /> (tăng lên 13% so với tỷ lệ 36% năm 2016). Tội<br /> phạm công nghệ cao đã trở thành mối đe dọa<br /> nguy hiểm thứ ba trên thế giới, với tỷ lệ lỗi do<br /> người dùng hoặc công ty gặp phải là 32,2%<br /> năm 2016-2017, chỉ đứng sau tội phạm về<br /> <br /> VẤN ĐỀ - SỰ KIỆN<br /> <br /> chiếm đoạt tài sản (47%) và kinh doanh sai trái<br /> (34,4%).<br /> Hình 1 cũng thể hiện sự khác biệt về các loại<br /> tội phạm khác nhau trong các ngành. Trong đó,<br /> ngành Ngân hàng tài chính có tỷ lệ tội phạm<br /> công nghệ cao lớn nhất (41%) so với các ngành<br /> còn lại như tiêu dùng (30%), công nghệ (31%),<br /> sản xuất (29%).<br /> Tội phạm công nghệ cao đã và đang trở thành<br /> những mối lo ngại đối với tất cả công ty, tổ<br /> chức kinh tế, đặc biệt là trong ngành Ngân hàng<br /> tài chính. Các thủ đoạn của tội phạm công nghệ<br /> cao cũng ngày càng trở nên tinh vi, chuyên<br /> nghiệp hơn một phần do sự phát triển của công<br /> nghệ. Mặc dù các công ty có thể khó đo lường<br /> được chính xác được những thiệt hại tài chính<br /> mà các công ty phải gánh chịu khi bị tội phạm<br /> công nghệ cao tấn công, tuy nhiên 14% người<br /> trả lời cuộc khảo sát của PwC từ 7.200 công ty<br /> trên 123 quốc gia và vùng lãnh thổ chia sẻ rằng,<br /> tội phạm công nghệ cao là nỗi lo sợ lớn nhất<br /> đối với công ty của họ, công ty của họ đã mất<br /> khoảng 1 triệu USD, 1% số người khảo sát cho<br /> rằng thiệt hại tài chính của công ty họ là 100<br /> triệu USD khi bị tấn công (PwC, 2018).<br /> Năm 2016, Ngân hàng Trung ương (NHTW)<br /> <br /> Hình 1. Tỷ lệ lỗi do người tiêu dùng hoặc tội phạm kinh tế theo ngành kinh tế trong giai đoạn<br /> 2016-2017<br /> <br /> Đơn vị: %<br /> <br /> Nguồn: PwC (2018)<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> <br /> Số 192- Tháng 5. 2018<br /> <br /> 3<br /> <br /> VẤN ĐỀ - SỰ KIỆN <br /> <br /> Bangladesh mất 101 triệu USD do tội phạm<br /> công nghệ tấn công vào tài khoản của Ngân<br /> hàng này gửi tại Cục Dự trữ Bang New York<br /> được coi là vụ rủi ro do tội phạm công nghệ<br /> cao lớn nhất trong ngành ngân hàng tới nay.<br /> Điều đáng ngạc nhiên là không tường lửa hoặc<br /> hệ thống báo động nào hoạt động, sự việc chỉ<br /> bại lộ khi tội phạm ghi nhầm tên một trong các<br /> đối tượng thụ hưởng khoản tiền chuyển sang<br /> SriLanka 20 triệu USD (Jones, 2016).<br /> Các mục đích và thủ đoạn tấn công của tội<br /> phạm công nghệ cao trong ngành Ngân hàng<br /> Với nghiên cứu của PwC (2018), các mục đích<br /> tấn công của tội phạm công nghệ cao nói chung<br /> với nền kinh tế và cụ thể trong ngành Ngân<br /> hàng chủ yếu tập trung vào 8 nội dung như<br /> Hình 2.<br /> Có rất nhiều mục đích để tội phạm công nghệ<br /> cao tấn công nền kinh tế nói chung và đối với<br /> ngân hàng nói riêng. Tuy nhiên mục đích lớn<br /> nhất là làm gián đoạn hoạt động kinh doanh<br /> và chiếm đoạt tài sản của các cá nhân, doanh<br /> nghiệp, tổ chức. Theo báo cáo của Security<br /> Scorecard (2017), 75% các ngân hàng thương<br /> mại (NHTM) thuộc top 20 về doanh thu trên thế<br /> giới bị phát hiện có “sâu” trong hệ thống.<br /> Hình 2. Các mục đích tấn công của tội phạm<br /> công nghệ cao trong ngành ngân hàng<br /> <br /> Nguồn: PwC (2018)<br /> <br /> 4<br /> <br /> Số 192- Tháng 5. 2018<br /> <br /> Các thủ đoạn tội phạm công nghệ cao thường<br /> sử dụng trong lĩnh vực ngân hàng tập trung vào<br /> 10 hình thức như sau (Jones, 2016; Security<br /> Scorecard, 2017, PwC, 2018): (1) Skimming<br /> (dùng máy cà thẻ có gắn hộp quẹt thẻ có chức<br /> năng mã hoá để ghi trộm dãy số trên thẻ); (2)<br /> Trộm cắp thông tin cá nhân và thông tin thẻ<br /> trên hóa đơn cà thẻ; (3) Skimming lấy thông tin<br /> từ máy ATM; (4) Sử dụng phần mềm gián điệp;<br /> (5) Truy cập bất hợp pháp vào website, cơ sở<br /> dữ liệu để trộm cắp dữ liệu; (6) Dùng thủ đoạn<br /> phishing (dùng phần mềm e-mail giả để lừa lấy<br /> các thông tin cá nhân); (7) Phát tán thư rác; (8)<br /> Tạo trang web bán hàng giả; (9) Thành lập công<br /> ty ma, công ty ảo để trộm cắp dữ liệu; (10) Thu<br /> thập, mua bán thông tin thẻ tín dụng trên các<br /> diễn đàn về thẻ tín dụng của hacker. Trong lĩnh<br /> vực thẻ tín dụng, do sơ hở trong quản lý của<br /> một số ngân hàng nên đã phổ biến loại tội phạm<br /> sử dụng thẻ tín dụng đã hết hạn của nước ngoài<br /> vào một nước khác rút tiền. Ngoài ra, tội phạm<br /> sử dụng công nghệ cao còn trộm cắp thông tin<br /> cá nhân của các chủ tài khoản, sau đó in thẻ giả<br /> để rút trộm tiền của người nước ngoài và công<br /> dân trong nước.<br /> 3. Thực trạng tội phạm công nghệ cao đối<br /> với ngành Ngân hàng tại Việt Nam<br /> Việt Nam là quốc gia nằm trong top 10 những<br /> nước phát hiện các hành vi tội phạm mạng cao<br /> nhất trên thế giới. Tỷ lệ các vụ “hũ mật ong”<br /> (honeypot) được các nhà quản lý mạng khởi<br /> nguồn phát triển để lừa các kẻ tấn công internet<br /> kết nối vạn vật từ Việt Nam là 3,8%, chỉ sau<br /> Trung Quốc (26,5%), Mỹ (17,7%), Nga (5,8%)<br /> và Đức (4,9%) (Synmatec, 2017).<br /> Theo Hiệp hội An toàn thông tin số Việt Nam<br /> (VNISA), mặc dù chỉ số an toàn thông tin của<br /> Việt Nam qua các năm có sự cải thiện (39%<br /> năm 2014, 47,4% năm 2015, 59,9% năm 2016),<br /> nhưng Việt Nam vẫn là nước nằm trong danh<br /> sách các nước có tỷ lệ lây nhiễm phần mềm độc<br /> hại, mã độc ở mức cao, với dấu hiệu quan ngại<br /> khi chỉ số này thấp đi năm 2017 (54,2%) (Ban<br /> Thời sự, 2017). Việt Nam cũng bị tụt 24 bậc<br /> trong bảng chỉ số an toàn thông tin năm 2017 so<br /> với 2016 (Hoài Nhân, 2017).<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> <br /> <br /> <br /> VẤN ĐỀ - SỰ KIỆN<br /> <br /> Hình 3. Mười quốc gia có nguồn xuất phát tấn công mạng nhiều nhất thế giới<br /> <br /> Nguồn: Symantec (2017)<br /> <br /> Tình hình tội phạm công nghệ cao đối với<br /> ngành Ngân hàng Việt Nam<br /> Trong thời gian qua, tội phạm công nghệ cao<br /> liên tục tấn công hệ thống dữ liệu của các ngân<br /> hàng nhằm thực hiện những động cơ của mình.<br /> Điều này để lại những hậu quả vô cùng nghiêm<br /> trọng. Ngân hàng số sẽ là tương lai của ngành<br /> Ngân hàng, đây cũng được coi là mảnh đất màu<br /> mỡ để tội phạm công nghệ cao khai thác phi<br /> pháp một cách ngày càng tinh vi. Tại Việt Nam,<br /> mới chỉ có 40 NHTM cung cấp dịch vụ internet<br /> banking, 16 tổ chức cung cấp hơn 2,3 triệu tài<br /> khoản ví điện tử, hơn 200 doanh nghiệp được<br /> cấp phép trong lĩnh vực thương mại điện tử. Kế<br /> hoạch đến năm 2020, Việt Nam sẽ có 95% các<br /> ngân hàng triển khai dịch vụ ngân hàng trực<br /> tuyến internet banking, mobile banking và 30%<br /> ngân hàng sẽ triển khai ngân hàng số, 100%<br /> các siêu thị, trung tâm mua sắm và cơ sở phân<br /> phối hiện đại có thiết bị chấp nhận thẻ (POS)<br /> cho phép thanh toán không dùng tiền mặt; 50%<br /> hộ cá nhân và gia đình ở các thành phố lớn sử<br /> dụng thanh toán không dùng tiền mặt, toàn thị<br /> trường có trên 300.000 POS được lắp đặt…<br /> (Hà Loan, 2017). Có thể thấy, sự phát triển của<br /> công nghệ góp phần làm gia tăng tiện ích đối<br /> với người sử dụng các dịch vụ tài chính, tuy<br /> nhiên cũng tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ mất an<br /> toàn đối với các ngân hàng. Trong 10 hình thức<br /> tội phạm công nghệ cao ngân hàng như trên,<br /> hình thức đánh cắp tài khoản người dùng dịch<br /> vụ ngân hàng trực tuyến bị xảy ra nhiều nhất,<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> <br /> do các ứng dụng thu thập thông tin cá nhân<br /> thông qua ứng dụng cách mạng công nghiệp 4.0<br /> (Nhật Minh, 2017).<br /> Kaspersky (2017) cho biết hiện nay mới có<br /> 19% ngân hàng quan tâm đến các cuộc tấn công<br /> vào máy ATM và các máy rút tiền, mặc dù tỷ<br /> lệ phần mềm độc hại nhằm vào cơ sở hạ tầng<br /> này của ngân hàng ngày càng cao, các mã độc<br /> ATM tăng lên 20% hàng năm. Hầu hết các ngân<br /> hàng được khảo sát đều thừa nhận (46%) khách<br /> hàng của họ thường xuyên bị tấn công bởi lừa<br /> đảo,70% ngân hàng cũng báo cáo các sự cố về<br /> gian lận tài chính dẫn đến mất tiền (NA, 2017).<br /> Thực tế cho thấy, thời gian qua hàng loạt chủ<br /> thẻ đã bị rút trộm tiền trên tài khoản mở tại các<br /> ngân hàng như: Vietcombank, VPBank… Gần<br /> 200 triệu đồng của khách hàng DongABank<br /> bất ngờ bị mất; 500 triệu đồng từ một tài khoản<br /> của Vietcombank bị rút trong một đêm; 31<br /> triệu đồng cũng bỗng dưng bị biến mất khỏi tài<br /> khoản của khách hàng mở tại ANZ vào buổi<br /> trưa; thẻ visa bị “tiêu” vài chục triệu đồng ở<br /> nước ngoài mà chủ thẻ vẫn ở trong nước; hay<br /> nạn mất tiền trong thẻ ATM cận tết 2018… Bức<br /> tranh toàn cảnh về an ninh mạng tại Việt Nam<br /> trong năm qua còn có các điểm nóng: Gia tăng<br /> tấn công trên thiết bị internet kết nối vạn vật<br /> (Internet of Things- IoT), các công nghệ sinh<br /> trắc học mới nhất liên tục bị qua mặt, bùng nổ<br /> tin tức giả mạo, mã độc đào tiền ảo. Có thể thấy<br /> rằng, quy mô của tội phạm công nghệ cao ngày<br /> càng mở rộng đối với nền kinh tế của Việt Nam<br /> <br /> Số 192- Tháng 5. 2018<br /> <br /> 5<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
16=>1