1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN TRUNG HIẾU

PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CỦA CƠ

QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC UBND

TỈNH ĐẮK LẮK

Chuyên ngành : Luật hiến pháp và luật hành chính

Mã số : 60 38 01 02

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI - NĂM 2020

Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thế Tài

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành

chính Quốc gia.

Địa điểm: Phòng nhà A, Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ Học

viện Hành chính Quốc gia.

Số: 77 - Đường Nguyễn Chí Thanh - Quận Đống Đa - TP. Hà Nội.

Thời gian: vào hồi giờ phút ngày tháng năm 2020.

Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên

trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia.

2

3

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Trong những năm qua, công tác PBGDPL nhìn chung đã được cấp ủy

Đảng, chính quyền tỉnh Đắk Lắk quan tâm; đã có những hoạt động phong

phú, nội dung, hình thức cũng như phương pháp từng bước được đổi mới; thu

được một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Hoạt động PBGDPL đã góp

phần từng bước nâng cao nhận thức và ý thức tuân thủ pháp luật, hình thành

dần thói quen “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” trong cán bộ

và nhân dân trên địa bàn tỉnh tỉnh Đắk Lắk, đưa pháp luật vào các hoạt động

quản lý nhà nước và đời sống xã hội. Mặc dù vậy, công tác PBGDPL trên địa

bàn tỉnh Đắk Lắk vẫn còn bộc lộ không ít khó khăn, hạn chế ở nhiều mặt: về

nhận thức; về kinh phí, cơ sở vật chất; về nhân lực; về nội dung, hình thức

thực hiện; hiệu quả đạt được... đặc biệt là trách nhiệm, vai trò của các cơ quan

quản lý nhà nước có thẩm quyền trong việc triển khai thực hiện công tác này

trên địa bàn tỉnh đang đặt cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương cũng như đội

ngũ làm công tác PBGDPL của tỉnh trước những băn khoăn, trăn trở. Xuất

phát từ mục đích đó, tôi chọn nội dung “PBGDPL của các cơ quan chuyên

môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài luận văn.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn:

PBGDPL trong giai đoạn hiện nay luôn nhận được sự quan tâm của

mọi cấp, mọi ngành trong cả nước. Vấn đề PBGDPL qua các giai đoạn đã

được nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả tìm hiểu, nghiên cứu với nhiều góc độ

khác nhau, ở nhiều địa bàn khác nhau. Đặc điểm chung của các luận văn, luận

án đã thực hiện là đề cập đến lý luận chung về PBGDPL hoặc lý luận, thực

tiễn hoạt động PBGDPL theo lĩnh vực, ở một đơn vị hành chính hoặc của một

chủ thể, một đối tượng nhất định. Mỗi công trình nghiên cứu chọn cách tiếp 2

cận ở những góc độ khác nhau, tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu

nghiên cứu và phân tích lý luận, thực tiễn về hoạt động PBGDPL của một chủ

thể đặc thù là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh trên một địa bàn cụ

4 thể là tỉnh Đắk Lắk. Vì vậy, tác giả sẽ kế thừa về lý luận chung của hoạt động

PBGDPL từ các đề tài đã nghiên cứu và nghiên cứu những điểm mới về lý

luận cũng như thực tiễn về hoạt động “PBGDPL của các cơ quan chuyên môn

thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk” – là chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà

nước về ngành, lĩnh vực trên địa bàn cấp tỉnh, có trách nhiệm tham mưu

UBND cấp tỉnh thực hiện công tác PBGDPL trên địa bàn cấp tỉnh, cụ thể là

trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, do đó, việc nghiên cứu đề tài “PBGDPL của các cơ

quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk” là không trùng lặp với các đề

tài được nghiên cứu trước đó.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

- Mục đích: Trên cơ sở lý luận về PBGDPL của cơ quan chuyên môn

thuộc UBND cấp tỉnh; đánh giá thực trạng về hoạt động PBGDPL của cơ

quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk. Qua đó, đề xuất giải pháp nâng

cao chất lượng PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk

trong điều kiện hiện nay.

- Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích đó, luận văn tập trung giải quyết

các nhiệm vụ sau:

- Phân tích cơ sở lý luận về PBGDPL nói chung và PBGDPL của cơ

quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh.

- Phân tích thực trạng PBGDPL của một số cơ quan chuyên môn thuộc

UBND tỉnh Đắk Lắk, chỉ ra những kết quả đạt được và tồn tại, hạn chế về 3

PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk trong thời

gian qua. - Đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng PBGDPL của

cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk trong điều kiện hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề

lý luận và thực tiễn hoạt động PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc

UBND tỉnh Đắk Lắk.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

5

- Về nội dung: lý luận và thực tiễn hoạt động PBGDPL của cơ quan

chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk.

- Về không gian, luận văn nghiên cứu hoạt động PBGDPL của một số

cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk. Cụ thể là 12 Sở có số lượng

công việc chuyên môn nhiều liên quan đến PBGDPL, gồm: Sở Tư pháp; Ban

Dân tộc; Sở Nội vụ; Sở Giáo dục và Đào tạo; Sở Tài nguyên và Môi trường;

Sở Công thương; Sở Xây dựng; Sở Lao động, Thương binh và Xã hội; Sở

Văn hóa, Thể thao và Du kịch; Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Sở

Giao thông vận tải; Sở Y tế.

- Về thời gian, trong thời gian 05 năm, từ năm 2015 đến năm 2019.

5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương

pháp luận duy vật biện chứng của học thuyết Mác – Lênin; quan điểm của

Đảng và Nhà nước về công tác PBGDPL. Luận văn cũng kế thừa những kết

quả nghiên cứu của các nhà khoa học liên quan đến PBGDPL.

5.2. Phương pháp nghiên cứu 4 Trong quá trình thực hiện luận văn, tác

giả có sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp khảo cứu tài liệu, phân

tích, khái quát hóa: dùng cho Chương I để nghiên cứu các vấn đề về cơ sở lý

luận của hoạt động PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh

. - Phương pháp thống kê, điều tra xã hội học, tổng hợp, đánh giá: dùng cho

Chương II để nghiên cứu các vấn đề về thực trạng hoạt động PBGDPL của cơ

quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk. - Phương pháp phân tích, suy

luận: dùng cho Chương III để nghiên cứu về các giải pháp nâng cao chất

lượng hoạt động PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk

Lắk.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn là công trình chuyên khảo phân tích một cách hệ thống và

tương đối toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về PBGDPL cuả các cơ

quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk. Qua đó, luận văn cung cấp, bổ

6 sung thêm các căn cứ lý luận và thực tiễn, góp phần làm phong phú và hoàn

thiện thêm lý luận về PBGDPL nói chung và PBGDPL của cơ quan chuyên

môn thuộc UBND cấp tỉnh nói riêng. Với những kết quả đạt được, luận văn

góp phần nâng cao chất lượng thực hiện hoạt động PBGDPL của cơ quan

chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh và góp phần quan trọng vào mục tiêu nâng

cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ và nhân dân trên địa

bàn tỉnh Đắk Lắk, là cơ sở khoa học và thực tiễn giúp tỉnh Đắk Lắk nói riêng

và các địa phương cấp tỉnh nói chung nâng cao chất lượng công tác PBGDPL.

Các giải pháp đề ra trong luận văn có thể được áp dụng trong thực hiện công

tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới; làm tài liệu 5 tham

khảo phục vụ việc học tập, nghiên cứu của sinh viên, học viên cao học chuyên

ngành Luật Hành chính, Luật Hiến pháp và cho những ai quan tâm.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về PBGDPL của các cơ quan chuyên môn

thuộc UBND cấp tỉnh.

Chương 2: Thực trạng PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc

UBND tỉnh Đắk Lắk.

Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng PBGDPL của

các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk.

7

Chương 1

CỞ SỞ LÝ LU N V P N O ỤC P P LU T CỦ C QU N C UYÊN

MÔN T UỘC UBND CẤP TỈNH

1.1. Khái quát chung về P PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp

tỉnh

1.1.1 Khái niệm P PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh Qua

việc phân tích khái niệm “PBGDP” và khái niệm “Cơ quan chuyên môn thuộc

UBND cấp tỉnh”, tác giả đưa ra quan điểm về khái niệm PBGDPL của cơ

quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh là “hoạt động có định hướng, có tổ

chức, có chủ định do cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh thực hiện

bằng nhiều hình thức, phương pháp nhằm tác động đến đối tượng được

PBGDPL trên địa bàn cấp tỉnh, giúp họ nắm được các quy định của pháp luật

và hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và từ đó có những

hành vi phù hợp với các yêu cầu của pháp luật”.

1.1.2 Đặc điểm về P PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh

Qua quá trình nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật quy định tại Luật

PBGDPL, Nghị định 24/2014/NĐ-CP quy định về chức năng, nhiệm vụ của

cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, tác giả đưa ra các đặc điểm của

hoạt động PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh bao gồm

3 đặc điểm chủ yếu sau để phân biệt với hoạt động PBGDPL của các chủ thể

khác: Một là, PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh là

trách nhiệm, nhiệm vụ liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước của các cơ

quan này. 7 Điều 4, Nghị định số 24/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định cơ

quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh có nhiệm vụ “Phổ biến, giáo dục

pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước được giao”.Từ đó,

có thể khẳng định PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh

là một trong những nhiệm vụ để thực hiện chức năng quản lý nhà nước thuộc

lĩnh vực, ngành được giao. Thực hiện quản lý nhà nước bao gồm các hoạt

động: ban hành văn bản QPPL, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện; tổ chức

triển khai thực hiện và hoạt động kiểm tra, giám sát. Đây là hoạt động của các

8 cơ quan hành chính để thực hiện chức năng quản lý nhà nước nên được bố trí

bộ máy, con người cũng như kinh phí để tổ chức thực hiện và được thể chế

hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật nên có nhiều điểm khác biệt so với

hoạt động PBGDPL của các tổ chức khác như: hoạt động PBGDPL của các tổ

chức Đảng, đoàn thể thường mang tính tuyên truyền, vận động hay hoạt động

PBGDPL của cơ quan báo chí, truyền thông là do các cơ quan này “tự

nguyện” thực hiện. Hai là, cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh đóng

vai trò “nòng cốt” trong việc thực hiện công tác PBGDPL trên địa bàn cấp

tỉnh. Luật PBGDPL quy định “Công dân có quyền được thông tin về pháp

luật và có trách nhiệm chủ động tìm hiểu, học tập pháp luật. Nhà nước bảo

đảm, tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền được thông tin về pháp luật”

và “Phổ biến, giáo dục pháp luật là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính

trị, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt”. Quan điểm này có thể hiểu công

dân có trách nhiệm tìm hiểu pháp luật và Nhà nước bảo đảm, tạo điều kiện

cho công dân thực hiện quyền được thông tin về pháp luật bằng cách huy

động hệ thống chính trị gồm cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nước, cơ quan Đoàn

thể… và khuyến khích, huy động sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong

đó Nhà nước giữ vai trò “nòng cốt” thực hiện công tác PBGDPL. Ở đơn vị 8

hành chính cấp tỉnh, UBND cấp tỉnh giữ vai trò “nòng cốt” trong các cơ quan

nhà nước ở cấp tỉnh, trong khi đó, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp

tỉnh là các cơ quan “nòng cốt” giúp UBND cấp tỉnh thực hiện công tác quản

lý nhà nước tại địa phương, cho nên theo tác giả, có thể khẳng định rằng cơ

quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh đóng vai trò “nòng cốt” trong việc

thực hiện công tác PBGDPL trên địa bàn cấp tỉnh. Ba là, PBGDPL của các cơ

quan chuyên môn cấp tỉnh là tiền đề đẩy mạnh hoạt động PBGDPL ở cấp

huyện và cấp xã trên địa bàn cấp tỉnh. Cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp

tỉnh có thẩm quyền hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ, kiểm tra các hoạt

động chuyên môn thuộc ngành, lĩnh vực quản lý được thực hiện tại cấp huyện

và cấp xã. Như vậy, hoạt động cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh có

ảnh hưởng lớn, trực tiếp đến việc triển khai các hoạt động của UBND cấp

huyện và cấp xã.

9

1.1.3. Vai trò P PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh Thứ

nhất, góp phần cập nhật, nâng cao kiến thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân

trên địa bàn cấp tỉnh Thứ hai, góp phần xây dựng, củng cố tình cảm, niềm tin

của cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh đối với pháp luật Thứ ba, góp phần

nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân trên địa bàn tỉnh.

1.2. Chủ thể đối tượng P PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp

tỉnh

1.2.1 Chủ thể P PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh. Theo

quy định tại Nghị định 24/2014/NĐ-CP, chủ thể PBGDPL của cơ quan

chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh là các cơ quan chuyên môn thuộc 9 UBND

cấp tỉnh, bao gồm 19 cơ quan chuyên môn như : Sở Nội vụ, Sở Tư pháp, Sở

Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Công thương…; là cán bộ, công chức

của 19 cơ quan này làm nhiệm vụ PBGDPL [2].Trong đó, Sở Tư pháp có

chức năng là cơ quan “đầu mối” giúp UBND cấp tỉnh quản lý nhà nước về

công tác PBGDPL trên địa bàn cấp tỉnh.

1.2.2 Đối tượng P PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh Đối

tượng PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh ở đây chính

là cán bộ và nhân dân đang sinh sống, lao động, làm việc trên địa bàn cấp

tỉnh.

1.3 Nội dung hình thức phương pháp PBGDPL của cơ quan chuyên

môn thuộc U N cấp tỉnh

1.3.1. Nội dung P PL Thứ nhất, hệ thống các văn bản QPPL do Nhà

nước ban hành bao gồm các bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị định, các loại văn

bản QPPL khác, đang có giá trị và hiệu lực thực thi như Hiến pháp, Bộ luật

Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Hôn nhân và gia đình… Thứ

hai, các văn bản QPPL dưới luật do các cấp chính quyền cấp tỉnh ban hành.

Thứ ba, một trong những nội dung PBGDPL cho cán bộ và nhân dân trên địa

bàn cấp tỉnh là thực tiễn đời sống pháp luật trên địa bàn từng tỉnh. Ngoài ra,

Luật PBGDPL đã quy định cụ thể về nội dung PBGDPL cho một số đối

tượng đặc thù: (1), Nội dung PBGDPL cho người dân ở vùng dân tộc thiểu số,

10

miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện

kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân; (2), nội dung PBGDPL cho

người lao động trong các doanh nghiệp; (3), nội dung PBGDPL cho nạn nhân

bạo lực gia đình (4), nội dung PBGDPL cho người 10 khuyết tật…

1.3.2. ình thức P GDPL Điều 11 Luật PBGDPL đã quy định cụ thể về

các hình thức PBGDPL mà các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh có

thể áp dụng cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh, căn cứ vào từng đối

tượng cụ thể như: (1) Phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu

pháp luật; cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật. (2)Thông qua các phương

tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh, internet, pa-nô, áp-phích, tranh cổ

động; đăng tải trên Công báo; đăng tải thông tin pháp luật trên trang thông tin

điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng tin của cơ quan, tổ chức, khu dân cư. (3)Tổ

chức thi tìm hiểu pháp luật. (4)Thông qua công tác xử lý vi phạm hành chính,

hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt

động khác của các cơ quan trong bộ máy nhà nước; thông qua hoạt động trợ

giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở. (5) Lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn

nghệ, sinh hoạt của tổ chức chính trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp

luật và các thiết chế văn hóa khác ở cơ sở. (6) Thông qua chương trình giáo

dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân. (7)

Các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật khác phù hợp với từng đối tượng

cụ thể mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có thể áp dụng để bảo

đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đem lại hiệu quả.Đặc biệt, theo

quy định của Luật PBGDPL, kể từ năm 2013, Luật PBGDPL đã đưa ra một

hình thức PBGDPL mới đó là quy định về việc tổ chức Ngày Pháp luật Nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

1.3.3 Phương pháp P PL Tùy thuộc vào mục tiêu, nội dung PBGDPL

cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh, cơ quan chuyên môn thuộc

UBND cấp tỉnh có thể sử dụng phương pháp phù hợp với từng nhóm đối

tượng như: Phương pháp tuyên truyền, giải thích pháp luật; Phương pháp

11

thông tin pháp luật; Phương pháp nêu gương: “người tốt, việc tốt” điển hình

về tôn trọng, thực hiện, bảo vệ pháp luật trong phạm vi đơn vị cấp tỉnh. ..

1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động PBGDPL của các cơ quan

chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.

1.4.1 Yếu tố chính trị kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk Tỉnh Đắk Lắk

với đặc thù là tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống (theo thống kê tới thời điểm

2009, tỉnh Đắk Lắk có 47 dân tộc sinh sống). Dân số là đồng bào dân tộc

thiểu số tại chỗ sinh sống chiếm tỷ lệ cao (chiếm tỷ lệ 30% dân số tỉnh Đắk

Lắk). Bên cạnh đó, ý thức chính trị của các chủ thể tham gia PBGDPL vẫn

chưa cao, chưa tự giác, nên mức độ quan tâm, sâu sát các nội dung cụ thể về

PBGDPL của tỉnh nói chung vẫn còn hạn chế về số lượng, tần suất.

1.4.2 Yếu tố chủ thể của hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật Đặc

điểm cơ quan chuyên môn cũng là yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả PBGDPL

của cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh. Cơ quan chuyên môn thuộc

UBND tỉnh Đắk Lắk có đặc điểm là tham mưu, giúp cơ quan có thẩm quyền

chung (UBND tỉnh Đắk Lắk) quản lý về một ngành, lĩnh vực nhất định, nên

có sự thuận lợi nhất định trong thực hiện PBGDPL thuộc ngành, lĩnh vực

quản lý. Tuy nhiên, khối lượng công việc chuyên môn là tương đối nhiều, nên

người đứng đầu các cơ quan chuyên môn và cán bộ, công chức của các cơ

quan này thông thường ít quan tâm đến PBGDPL.

1.4.3 Quy định của pháp luật về công tác PBGDPL 12 Mức độ hoàn

thiện của hệ thống các văn bản QPPL chính là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến

hiệu quả thực hiện PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh

Đắk Lắk. Chính vì vậy, cơ quan quản lý cần quan tâm đến yếu tố pháp luật

thông qua việc thường xuyên rà soát đánh giá các văn bản QPPL có liên quan

để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp; thường xuyên quan tâm bồi dưỡng, tập

huấn về chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức thực hiện PBGDPL

của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh.

12

Chương 2

THỰC TRẠNG PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CỦA CÁC

CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC UỶ BAN TỈNH ĐẮK LẮK

2.1 Tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Đăk Lắk Tỉnh Đắk Lắk

nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên, có diện tích 13.125,37 km2, dân số toàn

tỉnh tính đến năm 2012 đạt 1.796.666 người, mật độ dân số đạt hơn 137

người/km². Trong đó, dân số sống tại thành thị đạt 432.458 người, dân số

sống tại nông thôn đạt 1.364.208 người. Dân số nam đạt 906.619 người, dân

số nữ đạt 890.047 người. Cộng đồng dân cư Đắk Lắk gồm 47 dân tộc. Trong

đó, người Kinh chiếm trên 70%; các dân tộc thiểu số như Ê Đê, M'nông, Thái,

Tày, Nùng... chiếm gần 30% dân số toàn tỉnh.

2.2 Khái quát hoạt động PBGDPL của tỉnh Đắk Lắk Trong 5 năm qua,

công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận,

tuy nhiên, cũng tồn tại nhiều hạn chế cần có biện pháp khắc phục như: Một số

địa phương, cơ quan, tổ chức chưa nhận thức đầy đủ và đúng mức vai trò, ý

nghĩa, tầm quan trọng của công tác PBGDPL; sự phối hợp giữa các cơ quan

liên quan thiếu chặt chẽ. Một số cán bộ làm công tác PBGDPL hoạt động

thiếu nhiệt tình, chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của mình; hạn chế về

trình độ pháp lý, phong tục tập quán và ngôn ngữ của đồng bào dân tộc.

Nhiều cơ quan đơn vị, địa phương chưa tạo điều kiện 13 thuận lợi cho báo

cáo viên, tuyên truyền viên khi làm nhiệm vụ. Kinh phí PBGDPL còn rất

nhiều hạn chế, trong khi yêu cầu, nhiệm vụ công tác PBGDPL đặt ra trong

tình hình hiện nay ngày càng cao.

2.3 Thực trạng PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND

tỉnh Đắk Lắk

2.3.1 Bố trí bộ phận, cán bộ thực hiện công tác PBDGPL Dưới góc độ

tổ chức các bộ phận, bố trí cán bộ, thành lập cơ quan làm nhiệm vụ thực hiện

công tác PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk

đã được Sở Tư pháp Đắk Lắk - cơ quan tham mưu cho UBND tỉnh Đắk Lắk

13

quản lý nhà nước về công tác PBGDPL triển khai thực hiện đầy đủ trên địa

bàn tỉnh.

2.3.2 Tham mưu ban hành v n b n triển khai thực hiện công tác

PBGDPL i) Tham mưu UBND tỉnh ban hành và chủ động ban hành văn bản

triển khai thực hiện công tác PBGDPL ii) Tham mưu chỉ đạo, hướng dẫn triển

khai thực hiện công tác PBGDPL Việc ban hành các văn bản triển khai công

tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2015-2019 đã được Sở Tư

pháp tham mưu cho UBND tỉnh, Hội đồng PHPBGDPL tỉnh Lắk tham mưu

ban hành đầy đủ. Trên cơ sở đó, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh

Đắk cũng đã chủ động ban hành đầy đủ, kịp thời, tạo cơ sở pháp lý, điều kiện

thuận lợi cho các cơ quan, địa phương, cán bộ thuộc tỉnh triển khai thực hiện.

Tuy nhiên, tác giả cũng nhận thấy, các Kế hoạch PBGDPL, văn bản chỉ đạo,

hướng dẫn công tác PBGDPL mới chỉ đề cập đến nội dung, biện pháp, khối

lượng hoạt động PBGDPL, đề cập những định hướng chung cho tất cả các cơ

quan, đơn vị, địa phương mà chưa có hướng dẫn cụ thể về nội dung, hình

thức, phương pháp cho từng nhóm đối tượng phù hợp với phạm vi quản lý

của từng ngành, địa 14 phương dẫn đến việc tổ chức triển khai thực hiện ở các

cơ quan, địa phương còn thiếu đồng bộ, chưa định hướng các hoạt động

PBGDPL phù hợp với từng nhóm đối tượng.

2.3.3 Kết qu thực hiện các nội dung, hình thức, phương pháp PBGDPL

cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk i) Thực hiện thông qua hình

thức PBGDPL trực tiếp: Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk

đã thường xuyên sử dụng hình thức PBGDPL trực tiếp để tuyên truyền, phổ

biến, các nội dung pháp luật mới ban hành, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ

về các quy định pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý cho đội ngũ cán bộ, công

chức của cơ quan mình, ngành mình quản lý góp phần cập nhật các kiến thức

pháp luật, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, công chức, đồng thời, thường

xuyên tuyên truyền, phổ biến các lĩnh vực pháp luật liên quan mật thiết đến

đời sống nhân dân ở cơ sở phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của tỉnh Đắk

Lắk cho các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, tác giả cũng nhận

14

thấy nội dung phổ biến cò dàn trải theo chiều rộng, chưa phù hợp với từng

nhóm đối tượng, địa bàn, lĩnh vực, bám sát nhu cầu xã hội, có trọng tâm,

trọng điểm, mới làm tốt việc phổ biến, tập huấn cho đội ngũ cán bộ, công

chức, viên chức mà còn ít tổ chức đến các tầng lớp nhân dân ở cơ sở do đặc

thù là các cơ quan thuộc cấp tỉnh chỉ thực hiện chức năng tuyên tuyền cho đội

ngũ cán bộ của cơ quan mình, các bộ, công chức cấp huyện và chỉ thực hiện

phổ biến cho các tầng lớp nhân dân ở cơ sở trong một số hội nghị có đề án và

kinh phí riêng. Mặt khác, việc tổ chức PBGDPL thông qua hình thức này có

một số hạn chế là đòi hỏi kinh phí tổ chức lớn, chuẩn bị công phu, khó tập

hợp được nhân dân tham gia đầy đủ. ii) Thông qua việc tổ chức các cuộc thi,

hội thi tìm hiểu pháp luật Các cuộc thi, hội thi tìm hiểu pháp luật do các cơ

quan chuyên môn 15 thuộc UBND tỉnh tổ chức hoặc tham mưu tổ chức trong

các năm qua là một hình thức PBGDPL rất sinh động, tính tương tác giữa các

thí sinh và cổ động viên cao, là kênh thông tin hữu hiệu để phổ biến, tuyên

truyền sâu rộng các quy định pháp luật, tạo được sức lan tỏa lớn trong đời

sống xã hội, qua đó, tuyên truyền sâu rộng nhiều nội dung pháp luật vốn khô

khan đến với người xem, giúp họ dễ nhớ, từ đó nâng cao hiệu quả tuyên

truyền. Tuy nhiên, chỉ có một số ít các cơ quan tổ chức được hình thức này

như Sở Tư pháp, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Giao thông và Vận tải do việc

tổ chức đòi hỏi sự chuẩn bị công phu, kinh phí tổ chức lớn, phải có đội ngũ

cán bộ có am hiểu chuyên môn pháp luật lẫn nắm bắt được các nội dung pháp

luật cần thiết, liên quan mật thiết đến đời sống của cán bộ và nhân dân để lồng

ghép, đưa các nội dung pháp luật vào các câu hỏi, tình huống tại các cuộc thi,

hội thi tạo nên không khí sôi nổi, hấp dẫn để phổ biến, tuyên truyền cho các

tầng lớp cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. iii) Thông qua biên

soạn, phát hành các loại tài liệu PBGDPL. PBGDPL thông qua việc biên

soạn, in ấn và phát hành đã được các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh

Đắk Lắk thực hiện thường xuyên, liên tục, góp phần tuyên truyền có hiệu quả,

kịp thời các quy định pháp luật mới ban hành, các lĩnh vực pháp luật liên

quan mật thiết đến đời sống nhân dân ở cơ sở cho các tầng lớp cán bộ và nhân

dân trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, hạn chế của hình thức này là số lượng tài

15

liệu in ấn và cấp phát còn ít so với nhu cầu tuyên truyền cho các tầng lớp

nhân dân trên địa bàn tỉnh do kinh phí chi cho hoạt động in ấn tài liệu đòi hỏi

cao trong khi khả năng ngân sách của tỉnh Đắk Lắk chưa đáp ứng được. Mặt

khác, trừ một số cơ quan lớn như Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Nông nghiệp và

PTNT, Sở Tư pháp... đã quan tâm đến việc biên soạn tài liệu như tờ gấp, tờ

rơi, bản tin để cấp phát, PBGDPL cho nhân dân trên địa bàn tỉnh, các cơ quan

chuyên môn 16 thuộc UBND tỉnh khác mới chỉ tập trung in ấn, biên soạn tài

liệu tập huấn kiến thức pháp luật cấp phát cho cán bộ, công chức của cơ quan

mình mà chưa quan tâm đến việc biên soạn tài liệu cấp phát cho các tầng lớp

nhân dân để tuyên truyền pháp luật. Đồng thời, việc biên soạn chỉ mới tập

trung biên soạn bằng tiếng Việt chưa quan tâm đến việc dịch sang tiếng các

đồng bào dân tộc thiểu số khác như: Ê đê, Mơ nông ... để phù hợp với các đối

tượng tuyên truyền của tỉnh Đắk Lắk, là một tỉnh có đến gần 35% dân số là

đông bào dân tộc thiểu số. iv) Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng:

Một hình thức PBGDPL mới được tỉnh tích cực tập trung triển khai thực hiện

trong thời gian qua là việc tuyên truyền thông qua mạng Internet, trên website

của các sở, ngành, thông qua báo, đài truyền hình, hệ thống loa truyền thanh ở

cơ sở.. Kết quả cho thấy, trong điều kiện công nghệ thông tin ngày càng phát

triển, phần lớn người dân đều sử dụng Internet thì việc tuyên truyền pháp luật

thông qua hình thức này đã mang lại hiệu quả khá cao, chi phí thấp và đảm

bảo tính kịp thời. Tuy nhiên, tác giả nhận thấy, đa số các cơ quan chuyên môn

thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk chưa đội ngũ cán bộ chuyên trách quản lý các

trang website nên chưa thường xuyên cập nhật, đăng, tải tin, bài PBGDPL

trên các Trang thông tin điện tử, chất lượng các tin, bài, bố cục trình bày chưa

chuyên nghiệp nên hạn chế đến hiệu quả tuyên truyền. Đa số các cơ quan

chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk mới chỉ sử dụng Trang thông tin điện

tử của mình để PBGDPL mà chưa chú trọng đến các phương tiện khác như

báo chí, đài truyền hình, hệ thống loa truyền thành ở cơ sở... đặc biệt, tác giả

cho rằng, đối với một tỉnh có địa bàn rộng, giao thông chưa thuận lợi, điều

kiện dân trí, kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn như tỉnh Đắk Lắk thì việc

PBGPL qua hệ thống loa truyền thanh ở cơ sở là hình thức PBGDPL có chi

16

phí thấp, hiệu quả 17 tuyên truyền cao do có ưu điểm là tiến hành được

thường xuyên, liên tục, dễ tác động đến đối tượng tuyên truyền, song hình

thức này mới chỉ được một số cơ quan mà chưa được các cơ quan chuyên

môn khác quan tâm thực hiện. v) Thông qua việc tổ chức Ngày Pháp luật Việt

Nam 9/11 hàng năm Trong 05 năm qua, việc triển khai thực hiện Ngày Pháp

luật Việt Nam theo quy định của Luật PBGDPL trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã

tạo thêm bước phát triển mới trong việc nâng cao hiệu quả công tác PBGDPL,

đề cao giá trị của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền, đề cao quyền cũng

như trách nhiệm, nghĩa vụ của cá nhân, công dân trong học tập, tìm hiểu pháp

luật và tự giác chấp hành pháp luật. Qua đó, góp phần nâng cao ý thức và

niềm tin pháp luật, từng bước xây dựng và củng cố các giá trị văn hóa pháp lý

trong cuộc sống xã hội. vi) Công tác PBGDPL cho đối tượng đặc thù Triển

khai thực hiện quy định tại Mục 2 Chương II của Luật PBGDPL năm 2012

(nội dung, hình thức PBGDPL cho các đối tượng đặc thù), Sở Tư pháp đã

tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo, hướng dẫn các sở, ban, ngành, tổ chức, đoàn

thể ở tỉnh; UBND các huyện, thị xã, thành phố thực hiện PBGDPL tới các đối

tượng đặc thù cho phù hợp với từng đối tượng, địa bàn cụ thể. Trên cơ sở đó,

các sở, ban, ngành, tổ chức, đoàn thể ở tỉnh đã tổ chức nhiều hoạt động (Mở

các lớp tuyên truyền miệng; lồng ghép trong các buổi sinh hoạt, họp; tổ chức

hội nghị, cuộc thi, hội thi; hái hoa dân chủ..) tuyên truyền, phổ biến kịp thời

các quy định của pháp luật hiện hành liên quan (Pháp luật về bình đẳng giới;

phòng, chống bạo lực gia đình; hôn nhân và gia đình; dân tộc, tôn giáo, trách

nhiệm tham gia bảo vệ, giữ gìn an ninh, quốc phòng, biên giới, chủ quyền

quốc gia; đất đai, tài nguyên, khoáng sản; phòng, chống ma túy; lao động; bảo

hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; công đoàn; hình sự, thi hành án hình sự, xử lý vi

phạm hành chính; chế độ, chính sách của người khuyết tật...) 18 đến các đối

tượng là người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa,

vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người lao động trong các

doanh nghiệp; người khuyết tật; người đang chấp hành hình phạt tù, người

đang bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt

buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại

17

xã, phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng án treo và nạn nhân bạo lực

gia đình, nhằm giúp họ nắm bắt kịp thời, thực hiện đúng các chủ trương,

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

2.4 Đánh giá chung về hoạt động P PL của các cơ quan chuyên môn

thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk

2.4.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân

2.4.1.1. Những thành tựu, kết qu đạt được Trong 05 năm, hoạt động

PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk đã đạt

được nhiều thành tựu, kết quả, thể hiện trên các phương diện sau: i) Những

kết quả đạt được từ phía chủ thể thực hiện Thứ nhất, các cơ quan chuyên môn

thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk đã bố trí đầy đủ cán bộ, bộ máy để thực hiện công

tác PBGDPL. Thứ hai, các các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh đã tổ

chức triển khai đồng bộ, có kết quả các nhiệm vụ được giao. Sở Tư pháp đã

làm tốt chức năng là cơ quan giúp UBND tỉnh, Hội đồng phối hợp PBGDPL

của tỉnh Đắk Lắk quản lý nhà nước về công tác PBGDPL. Thứ ba, các cơ

quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh đã thể hiện được vai trò “nòng cốt” trong

việc thực hiện công tác PBGDPL ở cấp tỉnh Thứ tư, về nội dung PBGDPL, đã

lựa chọn được những nội dung pháp luật cơ bản phù hợp với đối tượng là cán

bộ, nhân dân trên địa bàn tỉnh. Thứ năm, về hình thức PBGDPL đã được tiến

hành một cách linh hoạt, 19 đa dạng, phong phú. Thứ sáu, về đối tượng

PBGDPL, bên cạnh việc quan tâm PBGDPL cho đối tượng là cán bộ, công

chức thuộc cơ quan, ngành mình quản lý đã tích cực tổ chức PBGDL cho các

tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh và các đối tượng đặc thù theo quy định

của Luật PBGDPL. ii) Những kết quả đạt được từ phía đối tượng tiếp nhận

PBGDPL Việc PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh đã

góp phần cập nhật kiến thức pháp luật, nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật

cho cán bộ của thuộc cơ quan mình, ngành mình quản lý; đồng thời, cung cấp

các kiến thức pháp luật cần thiết liên quan mật thiết đến đời sống hàng ngày

cho các tầng lớp nhân dân, qua đó, nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật, ý

18

thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh, góp phần

đảm bảo an ninh trật tự, phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh.

2.4.1.2. Nguyên nhân của những thành tựu, kết qu đạt được Thứ nhất,

Tỉnh ủy Đắk Lắk luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát hoạt động PBGDPL

cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh. Thứ hai, các cơ quan chuyên môn

thuộc UBND tỉnh đã thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh,

chủ động, tích cực bố trí đầy đủ cán bộ, bộ máy thực hiện công tác PBGDPL,

thể hiện được vai trò “nòng cốt” trong hoạt động PBGDPL trên địa bàn tỉnh.

Thứ ba, đội ngũ báo cáo viên pháp luật của các cơ quan chuyên môn thuộc

UBND cấp tỉnh đã tích cực, nhiệt tình trong thực hiện công tác. Thứ tư, cán

bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh cơ bản nhận thức được vai trò của kiến thức

pháp luật nên chủ động, tích cực tham dự các hoạt động phổ biến pháp luật.

2.4.2. Những hạn chế bất cập và nguyên nhân

2.4.2.1. Những hạn chế, bất cập 20 Thứ nhất, về việc tổ chức bộ máy,

bố trí cán bộ thực hiện công tác PBGDPL: Việc tổ chức bộ phận làm “đầu

mối” theo dõi công tác PBGDPL ở các cơ quan chuyên môn là không thống

nhất gây khó khăn cho việc theo dõi, giảm hiệu quả công tác quản lý. Thứ hai,

việc tham mưu ban hành văn bản triển khai thực hiện, chỉ đạo, hướng dẫn

việc thực hiện công tác PBGDPL: Mới chỉ đề cập những định hướng chung

cho tất cả các cơ quan, đơn vị, địa phương mà chưa có hướng dẫn cụ thể về

nội dung, hình thức, phương pháp cho từng nhóm đối tượng phù hợp với

phạm vi quản lý của từng ngành, địa phương dẫn đến việc tổ chức triển khai

thực hiện ở các cơ quan, địa phương còn thiếu đồng bộ, chưa tạo các hoạt

động PBGDPL phù hợp với từng nhóm đối tượng. Thứ ba, về việc PBGDPL

cho các đối tượng tiếp nhận: việc PBGDPL cho cán bộ, công chức, viên chức

thuộc phạm vi quản lý của các sở, ngành đã thực hiện tương đối tốt, tuy

nhiên, việc PBGDPL cho các tầng lớp nhân dân nhân dân trên địa bàn tỉnh

còn nhiều hạn chế, bất cập, số lượng hoạt động thực hiện còn ít, chưa được

tiến hành liên tục, thường xuyên, chủ yếu được tổ chức mỗi khi có văn bản

pháp luật mới cần được tuyên truyền, phổ biến, chủ yếu “phổ biến cái mình

19

có”, chưa quan tâm “phổ biến cái cán bộ và nhân dân đang cần”. Thứ tư, về

nội dung PBGDPL còn bộc lộ những hạn chế, bất cập sau đây: Một là, nội

dung phổ biến pháp luật cho cán bộ mới chỉ quan tâm đến việc cập nhận các

kiến thức pháp luật mới ban hành mà chưa quan tâm đến các kiến thức pháp

luật chuyên sâu, các vấn đề pháp luật còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo cần

phải được tập huấn, giải đáp hướng dẫn để thống nhất nhận thức, tạo thuận lợi

trong quá trình giải quyết công việc trong thực tế. Hai là, nội dung PBGDPL

cho nhân dân còn mang tính bề nổi, chưa đạt 21 được bề rộng và độ sâu kiến

thức pháp luật cần thiết, phù hợp với từng nhóm đối tượng. Ba là, kiến thức

pháp luật còn nghèo nàn mới chỉ dừng lại ở việc truyền đạt những nội dung

pháp luật mà mình có, chưa hướng tới trang bị những nội dung pháp luật mà

đối tượng cần Bốn là, nội dung phổ biến pháp luật cho cán bộ và nhân dân ở

tỉnh Đắk Lắk còn thiên về lý thuyết, chủ yếu giới thiệu các quy định pháp

luật, chưa gắn với các sự kiện, tình huống pháp luật thực tiễn, chưa chú trọng

trang bị kỹ năng vận dụng kiến thức pháp luật vào thực tiễn đời sống. Thứ

năm, về hình thức PBGDPL còn bộc lộ những hạn chế, bất cập sau đây: Một

là, các cơ quan chuyên thuộc UBND tỉnh chỉ mới tập trung vào hình thức

PBGDPL trực tiếp, còn chậm đổi mới việc sử dụng các hình thức PBGDPL

thông qua trang web, mạng xã hội, để nâng cao hiệu quả hoạt động. Chưa xác

định được hình thức phổ biến pháp luật chủ yếu, phù hợp với những nội dung,

đối tượng cụ thể để có biện pháp triển khai thực hiện; Hai là, các các cơ quan

chuyên thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk chưa quan tâm tới việc phân loại, tổng kết,

đánh giá, rút kinh nghiệm về việc thực hiện các hình thức phổ biến pháp luật

cho các đối tượng. Thứ sáu, về phương pháp PBGDPL: Trong hoạt động

PBGDPL cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, phương pháp

tương tác hai chiều theo kiểu thảo luận, tranh luận, nêu các sự kiện pháp luật

thực tế... còn ít được vận dụng. Thứ bảy, việc xác định mục tiêu, đánh giá

hiệu quả mang lại của công tác PBGDPL: Chưa được các cơ quan chuyên

môn thuộc UBND tỉnh quan tâm, trong hoạt động PBGDPL của các cơ quan

chuyên môn thuộc UBND tỉnh, việc xác định mục tiêu, hiệu quả đạt được

chưa được các chủ thể phổ 22 biến pháp luật đặt ra một cách nghiêm túc. Thứ

20 tám, kinh phí bố trí cho công tác PBGDPL chưa đáp ứng được nhu cầu Thứ

chín, công tác theo dõi, kiểm tra, giám sát chưa được thực hiện thường xuyên,

nghiêm túc:

2.4.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập Những hạn chế, bất

cập trong công tác PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh

có thể do nhiều nguyên nhân; trong đó, theo tác giả có 5 nguyên nhân chính:

i) Nguyên nhân chủ quan Thứ nhất, nhận thức về vai trò, ý nghĩa, tầm quan

trọng về công tác PBGDPL của một số cơ quan chuyên môn thuộc UBND

tỉnh chưa thực sự đầy đủ và đúng đắn, cơ chế hoạt động của Hội đồng

PBGDPL chưa thực sự hiệu quả dẫn đến sự phối hợp giữa các cơ quan liên

quan thiếu chặt chẽ. Thứ hai, Sở Tư pháp và các cơ quan chuyên môn thuộc

UBND tỉnh đôi lúc chưa làm tốt vai trò hướng dẫn, đôn đốc, nhắc nhở, kiểm

tra giúp UBND tỉnh, Hội đồng PHPBGDPL tỉnh, HĐND tỉnh theo dõi các cơ

quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, các địa phương triển khai thực hiện

nghiêm túc các kế hoạch, chương trình, đề án PBGDPL Thứ ba, đội ngũ cán

bộ làm công tác PBGDPL chủ yếu là kiêm nhiệm, một bộ phận thiếu nhiệt

tình, thiếu tính chủ động, chưa làm tốt vai trò tham mưu về công tác

PBGDPL, hạn chế về trình độ pháp lý, phong tục tập quán và ngôn ngữ của

đồng bào dân tộc dẫn đến việc thực hiện còn mang tính hình thức, đối phó,

chất lượng thấp. Thứ tư, một bộ phận cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh

Đắk Lắk chưa chủ động, quan tâm đến việc tìm hiểu kiến thức pháp luật. Mặc

khác, trình độ dân trí của nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk với 80% dân số

sống 23 bằng nghề nông nghiệp, hơn 30 % là đồng bào DTTS nên về cơ bản

thu nhập vẫn còn thấp, kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nên nhu cầu quan tâm

đến phát triển kinh tế, lo chuyện ăn mặc, học hành, chữa bệnh … vẫn là nhu

cầu cấp thiết và nhu cầu tìm hiểu, cập nhật kiến thức pháp luật vẫn là nhu cầu

thứ yếu nên đây cũng là một nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế, bất

cập của hoạt động này. Thứ năm, kinh phí chi cho công tác PBGDPL chưa

thực sự được UBND tỉnh, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh quan

tâm, tạo điều kiện để bảo đảm cho hoạt động PBGDPL tại các cơ quan, đơn

vị, địa phương của tỉnh. Tuy nhiên, do còn thiếu sự quan tâm, sự nhận thức

21 chưa đầy đủ về tầm quan trọng của công tác này cộng với đặc thù là một tỉnh

chưa tự cân đối được ngân sách như tỉnh Đắk Lắk nên việc bố trí kinh phí cho

hoạt động PBGDPL chưa đáp ứng được so với nhu cầu nên đã ảnh hưởng rất

lớn đến việc triển khai các hoạt động PBGDPL, nâng cao chất lượng, hiệu

quả của công tác này. ii)

Nguyên nhân khách quan

- Thứ nhất, công tác PBGDPL là một hoạt động khó định lượng về hiệu

quả mang lại đối với đời sống kinh tế-xã hội, mặt khác, hệ thống kiến thức

pháp luật rất rộng lớn, liên quan đến mọi quan hệ đời sống kinh tế xã hội và

với điều kinh kinh tế - xã hội của Việt Nam nói chung và đặc thù của tỉnh Đắk

Lắk nói riêng hiện nay, do trình độ dân trí còn thấp, đới sống kinh tế còn gặp

nhiều khó khăn nên việc nhận thức, quan tâm về công tác PBGDPL còn chưa

đồng đều, đầy đủ ảnh hưởng lớn đến chất lượng, hiệu quả của công tác này.

- Thứ hai, các quy định của Luật PBGDPL và các văn bản hướng dẫn

thi hành chưa thật cụ thể, rõ ràng để xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan

chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh trong việc PBGDPL 24

- Thứ ba, nhiều quy định của Luật PBGDPL và văn bản hướng dẫn thi

hành mang tính hướng dẫn, khuyến khích mà chưa có nhiều quy định mang

tính chế tài để ràng buộc trách nhiệm trong triển khai thực hiện.

- Thứ tư, chưa có hệ thống tiêu chí đánh giá về hiệu quả công tác

PBGDPL

22

Chương 3

QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG

TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CỦA CÁC CƠ QUAN

CHUYÊN MÔN THUỘC UBND TỈNH ĐẮK LẮK

3.1. Quan điểm nâng cao chất lượng công tác phổ biến giáo dục pháp

luật của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk

3.1.1. Phổ biến giáo dục pháp luật của cơ quan chuyên môn thuộc

UBND tỉnh phải đặt dưới sự lãnh đạo của các cơ quan đảng các cấp của tỉnh

PBGDPL phải bám sát đường lối, chính sách, định hướng của Đảng Cộng sản

Việt Nam. Do đó, hoạt động PBGDPL không thể nằm ngoài sự lãnh đạo của

Đảng. Đối với hoạt động PBGDPL của tỉnh nói chung và của cơ quan chuyên

môn thuộc UBND tỉnh nói riêng, cần có sự quan tâm, quyết liệt chỉ đạo của

Tỉnh ủy Đắk Lắk, Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh Đắk Lắk. Với tư cách là chủ

thể lãnh đạo, các tổ chức Đảng này cần có những nội dung, phương pháp,

cách thức nắm bắt, quán triệt, bảo đảm thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ

PBGDPL trên địa bàn tỉnh nói chung và của các cơ quan chuyên môn thuộc

UBND tỉnh nói riêng.

3.1.2. Phổ biến giáo dục pháp luật phải gắn với trách nhiệm của người

đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk Người đứng đầu

cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh là người “đứng mũi chịu sào”, chịu

trách nhiệm chính trong việc tham mưu, đề xuất, triển 25 khai, tổ chức thực

hiện các nhiệm vụ của hoạt động PBGDPL của cơ quan mình theo quy định

của pháp luật. Vì vậy, hơn ai hết người đứng đầu cơ quan chuyên môn phải

nắm rõ các nhiệm vụ này để bảo đảm chúng được triển khai thực hiện trên

thực tế; đồng thời chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện.

3.1.3. Phân công phối hợp và chế độ trách nhiệm rõ ràng trong việc

thực hiện hoạt động P PL của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk

Lắk Từ yêu cầu đặt ra là phải “Xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp để

nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể và

toàn xã hội trong công tác PBGDPL”. Do đó, nên việc tăng cường hơn nữa sự

23

phối hợp giữa các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh với nhau và với các

tổ chức đoàn thể, với các địa phương trên cơ sở phân công trách nhiệm rõ

ràng là yêu cầu đặt ra để đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động, tạo cơ chế để

phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các cơ quan, tổ chức, đơn vị làm nhiệm vụ

phổ biến pháp luật, nhanh chóng tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc; kịp

thời rút kinh nghiệm và chỉ ra được những bài học hay trong quá trình thực

hiện.

3.1.4. Đẩy mạnh xã hội h a hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật trên

địa bàn tỉnh Đắk Lắk Xã hội hóa hoạt động PBGDPL là một nhu cầu khách

quan, là chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta nhằm huy động

sức mạnh vật chất và tinh thần của toàn xã hội phục vụ cho công tác này,

giảm bớt việc cơ quan hành chính Nhà nước phải trực tiếp đảm nhận nhiều

công việc cùng một lúc dẫn đến tình trạng làm việc hời hợt, thiếu hiệu quả

trong khi công việc này đáng lẽ để xã hội tự giải quyết, vừa giảm được biên

chế, tinh gọn bộ máy, giảm chi ngân sách vừa phục vụ nhân dân được nhanh

chóng và hiệu quả hơn.

3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác phổ biến giáo dục pháp

luật của cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến phổ biến

giáo dục pháp luật i) Đối với các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm

quyền ban hành của cơ quan trung ương Cơ quan làm nhiệm vụ giúp UBND

tỉnh quản lý nhà nước về PBGDPL của tỉnh cần tham mưu cho UBND tỉnh rà

soát, đánh giá lại toàn bộ những vướng mắc, bất cập trong các văn bản QPPL

của các cơ quan trung ương, gồm Luật PBGDPL, Nghị định 28/2013/NĐ-CP

của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật

PBGDPL, Quyết định số 27/2013/QĐ-TTg ngày của Thủ tướng Chính phủ

ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL, Thông tư

23/2012/TT-BTP của Bộ Tư pháp quy định về báo cáo viên, tuyên truyền

viên pháp luật.v.v… Trên cơ sở đó, tham mưu UBND tỉnh có văn bản kiến

nghị Chính phủ sửa đổi các nội dung bất cập, không phù hợp, trong đó chú

24 trọng quy định rõ trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền, nâng cao hiệu quả

hoạt động công tác PBGDPL. Hai là, tham mưu cho UBND tỉnh có văn bản

đề nghị Chính phủ xem xét sửa đổi Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày

04/7/2011 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ

chức bộ máy của tổ chức pháp chế, Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày

04/4/2014 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ương theo hướng quy định rõ bộ phận, phòng chuyên

môn làm “đầu mối” để theo dõi công tác pháp chế nói chung và công tác

PBGDPL nói riêng. ii) Đối với các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm

quyền ban hành của tỉnh 27 Một là, ban hành bộ tiêu chí làm chuẩn đánh giá

của tỉnh đối với kết quả hoạt động PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc

UBND tỉnh Đắk Lắk. Hai là, ban hành văn bản xác định rõ trách nhiệm cá

nhân đối với hoạt động PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND

tỉnh Đắk Lắk Để thực hiện hiệu quả giải pháp này, tác giả kiến nghị UBND

tỉnh Đắk Lắk giao cho Sở Tư pháp phối hợp với Sở Nội vụ để tham mưu ban

hành Quy định trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị Nhà nước về

thực hiện PBGDPL trên địa bàn tỉnh, quy định cách thức xác định trách

nhiệm PBGDPL cụ thể, rõ ràng và khả thi, để bảo đảm những trường hợp sai

phạm phải được xử lý trên thực tế.

3.2.2. Tăng cường vai trò trách nhiệm của ĐND, UBND tỉnh Đắk Tác

giả kiến nghị UBND tỉnh thực hiện các biện pháp sau đây: Thứ nhất, chỉ đạo

cơ quan “đầu mối” giúp UBND tỉnh tham mưu, quản lý về công tác PBGDPL

và các cơ quan chuyên môn tham mưu, đề xuất ban hành những văn bản liên

quan làm cơ sở để thực hiện hiệu quả và kiểm tra đối với hoạt động này, như:

ban hành Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động PBGDPL trên địa bàn tỉnh;

ban hành Quy định về trách nhiệm của người đứng đầu, cán bộ, công chức

trong hoạt động PBGDPL… Thứ hai, chỉ đạo Sở Tư pháp tham mưu UBND

tỉnh tăng cường công tác kiểm tra việc thực công tác PBGDPL của các cơ

quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Về phía HĐND tỉnh Đắk Lắk,, tác giả

kiến nghị biện pháp thực hiện như sau: Sở Tư pháp cần đề xuất UBND tỉnh

tham mưu HĐND tỉnh đánh giá và đưa kết quả thực hiện hoạt động PBGDPL

25 vào trong nội dung báo cáo về tình hình kinh tế xã hội hàng năm tại kỳ họp

HĐND tỉnh, trên cơ sở đó đưa vào 28 Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh

tế - xã hội hàng năm của HĐND tỉnh để thực hiện.

3.2.3 Kiện toàn tổ chức nguồn lực thực hiện PBGDPL tại các cơ quan

chuyên môn thuộc Ủy ban nh n d n tỉnh Đắk Lắk 3.2.3.1 Kiện toàn về tổ chức

- Về đầu mối quản lý hoạt động PBGDPL:. Đề nghị ban hành Quy chế hoạt

động cán bộ đầu mối thực hiện hoạt động PBGDPL của tỉnh theo hướng yêu

cầu “bố trí Chánh Văn phòng của các cơ quan chuyên môn làm cán bộ đầu

mối thực hiện hoạt động PBGDPL” cho thống nhất và bảo đảm hiệu lực, hiệu

quả trong việc tổng hợp, tham mưu cho người đứng đầu cơ quan nắm bắt sâu

sát tình hình và chỉ đạo kịp thời hơn đối với nhiệm vụ PBGDPL. - Về phía bộ

phận thực hiện hoạt động PBGDPL: cần chủ động phối hợp với Sở Nội vụ có

văn bản đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo các cơ quan chuyên môn sửa đổi, bổ

sung các Quyết định quy định về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan

chuyên môn trong đó quy định rõ trách nhiệm PBGDPL đối với các phòng

chuyên môn, đơn vị trực của các cơ quan chuyên môn để Trưởng các phòng,

đơn vị này tham gia với tư cách là một chủ thể có trách nhiệm thực hiện

PBGDPL chứ không là chủ thể phối hợp đơn thuần như hiện nay. - Về phía

Hội đồng PHPBGDPL của tỉnh: Tác giả kiến nghị cần sửa đổi Quy chế hoạt

động của Hội đồng theo hướng quy định rõ ràng, cụ thể hơn về trách nhiệm

phối hợp giữa các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh cũng như giữa các

cơ quan chuyên môn với các tổ chức đoàn thể trong việc triển khai phối hợp

PBGDPL các lĩnh vực có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của nhau hoặc

yêu cầu các cơ quan ban hành Quy chế phối hợp riêng với nhau như: Quy chế

phối hợp giữa Sở Tài nguyên và Môi trường và Sở Xây dựng tuyên truyền,

PBGDPL về lĩnh vực 29 đất đai, xây dựng; Quy chế phối hợp giữa Ban Dân

tộc, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hội phụ nữ phối hợp PBGDPL

cho đồng bào dân tộc thiểu số …nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội

đồng. 3.2.3.2 Kiện toàn đội ngũ làm công tác PBGDL Tác giả kiến nghị Sở

Tư pháp tham mưu cho UBND tỉnh chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thuộc

UBND tỉnh tiếp tục tăng cường tổ chức tập huấn kiến thức pháp luật, nghiệp

26

vụ, kỹ năng phổ biến pháp luật cho cán bộ pháp chế các Sở, các báo cáo viên

pháp luật, đặc biệt, tham mưu, chỉ đạo các địa phương tăng cường bố trí, bổ

sung đội ngũ báo cáo viên pháp luật là người đồng bào dân tộc thiểu số để

nâng cao hiệu quả PBGDPL cho nhân dân trên địa bàn tỉnh.

3.2.4 Đổi mới nội dung hình thức và phương pháp phổ biến pháp luật

của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk

3.2.4.1 Đổi mới nội dung phổ biến pháp luật Thứ nhất, lựa chọn những

nội dung kiến thức về các lĩnh vực pháp luật cụ thể, liên quan mật thiết tới

cuộc sống, lao động, sinh hoạt của nhân dân trên địa bàn tỉnh để tập trung phổ

biến pháp luật cho đối tượng này. Mặt khác, cần bổ sung, cập nhật những văn

bản pháp luật mới được ban hành. Thứ hai, chú trọng trang bị những nội dung

kiến thức về các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật do HĐND, UBND các

cấp ban hành, nhất là văn bản có liên quan trực tiếp đến cuộc sống, lao động,

việc làm, lợi ích của các tầng lớp nhân dân, bao gồm các nghị quyết của

HĐND các cấp, những quyết định của UBND các cấp, các văn bản hướng dẫn

triển khai thực hiện của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền..., là cơ sở rất

quan trọng của việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Thứ ba, cần chú

trọng trang bị cho cán bộ và nhân dân kiến thức về kinh nghiệm thực tế,

những nội dung thông tin về thực tiễn đời sống pháp luật 30 trên địa bàn tỉnh

Đắk Lắk, kỹ năng vận dụng các QPPL để xử lý, giải quyết các sự việc, sự

kiện, tình huống pháp luật xảy ra trong cuộc sống, những mâu thuẫn, chồng

chéo trong thực tiễn thi hành pháp luật.

3.2.4.2 Đổi mới hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật Theo tinh thần

đó, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh cần sử dụng linh hoạt, đồng

bộ nhiều hình thức phổ biến pháp luật. Đối với đa số nhân đang sinh sống trên

địa bàn tỉnh cần tăng cường sử dụng các hình thức: PBGDPL thông qua các

cuộc họp dân, các buổi sinh hoạt tôn giáo; biên soạn sách pháp luật phổ thông

bằng dân tộc thiểu số; sử dụng tờ gấp pháp luật; thông qua hệ thống loa

truyền thanh cơ sở; tổ chức các hoạt động tư vấn pháp luật. Đặc biệt, cần quan

tâm sử dụng Trang thông tin điện tử, mạng xã hội như zalô, facebook để thực

27

hiện hoạt động PBGDPL vì đây là hình thức có rất nhiều ưu việt như chi phí

thấp, sức lan tỏa lớn, dễ thực hiện. Đối với đối tượng là cán bộ, công chức cần

tăng cường tổ chức tập huấn chuyên sâu, mời các chuyên gia, nhà PBGDPL

chuyên nghiệp tập huấn cho đội ngũ này nhằm cập nhật, nâng cao trình độ,

kiến thức pháp luật, giải quyết những vướng mắc pháp luật phát sinh trong

thực tiễn, tạo thuận lợi trong quá trình thực thi công vụ.

3.2.4.3 Đổi mới phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật Để tạo bước

đột phá trong việc đổi mới phương pháp truyền đạt, các báo cáo viên pháp

luật cần tập trung thực hiện các biện pháp nhằm hướng trọng tâm phổ biến

pháp luật vào người học, người nghe; phát huy tính chủ động, sáng tạo của

họ. Chuyển mạnh từ phương thức lấy báo cáo viên pháp luật làm trung tâm

sang phương thức lấy cán bộ và nhân dân làm trung tâm.

3.2.5 Đảm bảo kinh phí cần thiết, c cơ chế huy động xã hội h a công tác

P PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Tác giả kiến nghị, Sở Tư

pháp cần tham mưu cho UBND tỉnh, HĐND 31 tỉnh ban hành cơ chế, chính

sách để huy động xã hội hóa công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

theo hướng vận động nguồn kinh phí đóng góp từ các tổ chức phi chính phủ,

huy động nguồn kinh phí đóng góp từ các doanh nghiệp, nhà hảo tâm đang

hoạt động sản xuất, kinh doanh ở tỉnh Đắk Lắk và các địa phương khác. Đồng

thời, nghiên cứu ban hành cơ chế cho phép các cơ quan chuyên môn thuộc

UBND cấp tỉnh có cơ chế “thuê ngoài” các tổ chức PBGDPL chuyên nghiệp

để thực hiện các hoạt động PBGDPL, nhằm tạo tính chuyên nghiệp trong hoạt

động PBGDPL, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động này cho cán bộ và

nhân dân trên địa bàn tỉnh.

28

KẾT LUẬN

Phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) là khâu đầu tiên trong hoạt

động thực thi pháp luật, là phương tiện để chuyển tải những đường lối, chính

sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tới toàn thể cán bộ và nhân dân.

Trong rất nhiều văn kiện của Đảng đã xác định rõ công tác PBGDPL là một

bộ phận của công tác giáo dục chính trị tư tưởng, là nhiệm vụ của cả hệ thống

chính trị trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, phải được tiến hành thường

xuyên, liên tục với nhiều hình thức phong phú, đa dạng và sáng tạo nhằm

nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân, góp phần thúc

đẩy kinh tế phát triển, giữ vững ổn định chính trị và trật tự xã hội. Xuất phát

từ vai trò, ý nghĩa quan trọng này, trong khuôn khổ Luận văn này, tác giả đã

tập trung phân tích, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về hoạt động PBGDPL của các

cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh với đặc điểm đây là một trong các

nhiệm vụ quản lý nhà nước của các cơ quan này, đóng vai trò “nòng cốt”

trong hệ thống chính cấp tỉnh và tạo tiền đề để đảm bảo việc triển khai thực

hiện có hiệu quả ở cấp huyện và cấp xã; phân tích thực trạng triển khai hoạt

động PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc 32 UBND tỉnh Đắk Lắk,

chỉ ra nhiều hạn chế, tồn tại về mặt thể chế, về thực trạng tham mưu thực hiện

trên khía cạnh là một hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan chuyên môn

thuộc UBND cấp tỉnh và trên khía cạnh là một chủ thể tổ chức thực hiện cho

cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh. Kết quả mới mà luận văn đạt được, đó là

đi sâu vào nghiên cứu, phân tích cơ sở khoa học của PBGDPL của cơ quan

chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh; đánh giá các nhiệm vụ, trách nhiệm liên

quan đến hoạt động PBGDPL, chứ không phải đơn thuần chỉ nghiên cứu về

cách thức thực hiện hoạt động PBGDPL như nhiều luận văn khác đã nghiên

cứu. Trên cơ sở đó, tác giả đã nghiên cứu và đề xuất được các giải pháp và

biện pháp cụ thể để bảo đảm nâng cao chất lượng PBGDPL của cơ quan

chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk, làm cơ sở để triển khai nghiên cứu

nhân rộng đối với toàn tỉnh, cũng như làm nền tảng để tiếp tục nghiên cứu

trong phạm vi cả nước. Đây cũng chính là mục đích, nhiệm vụ mà luận văn đề

ra. Trong giới hạn kinh nghiệm và khả năng còn hạn hẹp, cộng với thời gian

29

nghiên cứu có hạn, chắc chắc sẽ có những nhận định còn mang tính chủ quan

và những thiếu sót nhất định, tác giả rất mong Quý Thầy, Cô và bạn bè, đồng

nghiệp quan tâm có ý kiến góp ý chân thành để tác giả tiếp tục hoàn thiện

trong những lần nghiên cứu sau này.