intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn tiến sĩ Báo chí học: Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in ở Việt Nam

Chia sẻ: Phong Tỉ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:25

52
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án được nghiên cứu với mục tiêu nhằm hệ thống hóa những vấn đề cơ sở lý luận thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo, khảo sát thực trạng, đánh giá ưu điểm hạn chế về nội dung và hình thức của thông tin về GDĐT trên báo in, từ đó đề xuất các giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng thông tin về GDĐT, và đề xuất mô hình thông tin về giáo dục và đào tạo để có thể ứng dụng trên báo in ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn tiến sĩ Báo chí học: Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in ở Việt Nam

  1. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc   tế, nguồn lực con người Việt Nam càng trở  nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự  thành  công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ  quan   trọng trong việc xây dựng một thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh  tế­xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, kết quả, góp phần quan trọng vào thắng lợi   của công cuộc xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc, giáo dục đã bộc lộ  những yếu kém, bất cập,   trong đó có những vấn đề  gây bức xúc xã hội kéo dài, chưa đáp  ứng được yêu cầu của sự  nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Chính sách về  GDĐT trong thời   gian qua thiếu đồng bộ, còn chắp vá; nhiều cơ  chế, giải pháp về  giáo dục đã từng có hiệu   quả, nay trở  nên không còn phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước, cần được   điều chỉnh, bổ sung. Nghị  quyết Số: 29­NQ/TW ban hành ngày 4/11/2013 “Về  đổi mới căn bản, toàn diện   giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa và hội nhập quốc tế" được hội nghị  trung  ương 8   (khóa XI) thông qua. Nghị  quyết đã nêu được những thành tựu quan trọng của  Nghị  quyết  Trung  ương 2 khóa VIII và các chủ  trương của Đảng, Nhà nước về  định hướng chiến lược  phát triển giáo dục­đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực giáo dục và   đào tạo nước ta, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ  quốc. Cụ thể là: Đã   xây dựng được hệ thống giáo dục và đào tạo tương đối hoàn chỉnh từ mầm non đến đại học.   Cả nước đã hoàn thành mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000; phổ  cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010… Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả giáo dục và   đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề  nghiệp. Quản lý  giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập   về chất lượng, số lượng và cơ cấu… Do đó, Nghị quyết đã đưa ra quan điểm chỉ  đạo: “Giáo   dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu   tư  cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế  hoạch   phát triển kinh tế­xã hội. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những  vấn đề  lớn, cốt lõi,  cấp thiết,  từ  quan  điểm,  tư  tưởng chỉ   đạo đến mục tiêu, nội dung,  phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của   Đảng, sự  quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị  của các cơ  sở  giáo dục­đào tạo và   việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới  ở  tất cả  các  bậc học, ngành học.”
  2. 2 Do vậy, giai đoạn trước năm 2010 là năm “trước thềm” đổi mới căn bản, toàn diện nền   giáo dục nước nhà, cho nên cần có những nghiên cứu, khảo sát toàn diện công tác thông tin,   tuyên truyền trên báo chí làm cơ  sở  tham mưu cho các nhà quản lý xây dựng và hoạch định   chính sách mới. Với ý nghĩa như vậy, lĩnh vực giáo dục và đào tạo cũng được báo giới trong và ngoài   nước đặc biệt quan tâm thông tin, tuyên truyền. Báo chí đã đóng một vai trò quan trọng đối với   sự phát triển và đổi mới của giáo dục trong những năm qua. Báo chí đã thể hiện tích cực trong   việc tuyên truyền các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước về giáo dục, các  quyết sách, chỉ  đạo của ngành giáo dục; thông tin các vấn đề  liên quan đến giáo dục; đồng   thời còn thể hiện là một diễn đàn quan trọng của giáo viên, các nhà khoa học, các nhà quản lý   bàn về lĩnh vực giáo dục và đào tạo; là kênh thông tin của hàng triệu học sinh, sinh viên, giáo   viên và các tầng lớp nhân dân trên cả nước; góp phần phát triển nền giáo dục nước nhà. Có thể  nói, những năm qua báo chí đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến lĩnh vực giáo  dục và đào tạo, đến các quyết sách và thực hiện những đổi mới tích cực của ngành giáo dục,   với hàng loạt những vấn đề tiêu biểu như: Cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi   cử và bệnh thành tích trong giáo dục”, đổi mới thi tốt nghiệp Trung học phổ thông và Tuyển   sinh đại học, đổi mới phương pháp giảng dạy của giáo viên các cấp… Vấn đề giáo dục đã luôn được báo chí quan tâm, bám sát và thông tin kịp thời, hầu hết  các tờ báo lớn đều dành thời lượng đáng kể phản ánh về giáo dục trong mỗi số báo, trang báo,  chuyên mục. Trong đó, nội dung được phản ánh đa dạng, nhiều mảng khác nhau của giáo dục   từ mầm non đến đại học và sau đại học, các vấn đề  quản lý giáo dục… Vai trò và hiệu quả  tác động của thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo chí nói chung và báo in nói riêng những   năm qua đã được khẳng định, một lĩnh vực có vị trí hết sức quan trọng được Đảng, Nhà nước  ta xác định là quốc sách hàng đầu. Vì vậy, đòi hỏi thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo chí   ngày càng phải được thực hiện một cách có hiệu quả, góp phần làm cho lĩnh vực giáo dục  phát triển, đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục là một công việc hết sức trọng đại. Chính bởi  vậy, TT về  GDĐT là một trong những đề  tài thu hút nhiều sự  quan tâm của công chúng và  cũng đã gây ra nhiều tranh cãi trong suốt những năm gần đây. Do đó không ít các tờ báo đã khai  thác, tìm hiểu, đăng tải thông tin khá kỹ  lưỡng về  nội dung này, cung cấp cho độc giả  mọi   thông tin về  từng bước phát triển, thực hiện đổi mới giáo dục. Các báo đã góp phần tuyên   truyền, quán triệt sâu rộng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các định hướng  và nhiệm vụ chủ yếu của ngành giáo dục; góp phần mở rộng tầm nhìn cho công chúng, cung  cấp thông tin nhằm giúp công chúng nắm được tiến trình đổi mới giáo dục ở  nước ta; thống  nhất về  nhận thức, tạo sự  đồng thuận và huy động sự  tham gia đánh giá, giám sát và phản  
  3. 3 biện của toàn xã hội đối với công cuộc phát triển giáo dục. Nhưng bên cạnh đó, các báo vẫn  còn những hạn chế nhất định trong thông tin về GDĐT như  hình thức thông tin còn kém hấp  dẫn, thông tin còn hời hợt, kém chất lượng. Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài: “Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in ở   Việt Nam” (khảo sát báo Nhân dân, “Tuổi trẻ”, Thanh niên, Giáo dục và Thời đại từ  năm   2005 đến 2010), đồng thời với thời điểm hoàn thành luận án của tác giả vào năm 2017 nên tác  giả đã mở rộng nghiên cứu thông tin về giáo dục và đào tạo từ năm 2010 đến 2017 để nghiên  cứu. Có thể nói, đây là một yêu cầu bức xúc và cần thiết, nhằm phát huy được hiệu quả thông  tin về lĩnh vực giáo dục và đào tạo trên báo chí, đặc biệt là công cuộc đổi mới căn bản, toàn  diện giáo dục và đào tạo hiện nay đang được thực hiện. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề cơ sở lý luận thông tin về giáo dục và đào tạo   trên báo, khảo sát thực trạng, đánh giá ưu điểm hạn chế về nội dung và hình thức của thông  tin về GDĐT trên báo in, từ đó đề xuất các giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng   thông tin về GDĐT, và đề xuất mô hình thông tin về giáo dục và đào tạo để có thể ứng dụng  trên báo in ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, tác giả luận án thực hiện nhiệm vụ cụ thể như sau:  ­  Xây dựng hệ thống lí luận và thực tế  làm cơ  sở  triển khai đề  tài. Hệ  thống hoá  những vấn đề  lý luận thông tin về  GDĐT trên báo in  ở  Việt Nam. Cụ  thể: làm rõ các khái   niệm liên quan; khẳng định vai trò và đặc điểm của thông tin về GDDT trên báo in; chỉ ra mô   hình thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in; đưa ra những yêu cầu khi thông tin về giáo  dục và đào tạo trên báo chí.   ­ Khảo sát, đánh giá thực trạng  TT về GDĐT trên báo in, về tần suất, nội dung, hình  thức và phương thức thông tin.  ­ Phân tích các nhân tố   ảnh hưởng đến chất lượng thông tin về  GDĐT trên báo in.   Luận án chỉ ra những nhận định về chất lượng thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in ở  Việt Nam hiện nay.   ­   Nêu những vấn đề  đặt ra và giải pháp, khuyến nghị, đồng thời đề  xuất mô hình   thông tin về giáo dục và đào tạo để có thể ứng dụng trên báo in ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu  Luận án nghiên cứu thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in     3.2. Phạm vi khảo sát
  4. 4  Luận án khảo sát thông tin về giáo dục và đào tạo trên các báo: Nhân Dân, Giáo dục và   Thời đại, “Tuổi trẻ” và Thanh niên. Tác giả lựa chọn các báo trên khảo sát vì: ­ Báo  Nhân Dân:  cơ  quan  Trung  ương  của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiếng nói của  Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, đại diện cho tờ báo tuyên truyền, phản ánh và thông  tin các chủ  trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước nói chung, trong đó có  các chủ trương, chính sách, pháp luật về giáo dục ­ Báo Giáo dục và Thời đại: là tiếng nói của ngành Giáo dục, thực hiện chức năng phục   vụ công tác điều hành quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo. ­ Thanh niên là tờ báo của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, có chuyên trang giáo dục   và có  ảnh hưởng mạnh trong xã hội với số  lượng phát hành báo hơn 300.000 bản/ngày, có  thời điểm lên đến 400.000 bản/ngày.   ­ “Tuổi trẻ” là tờ báo của Thành Đoàn TP. Hồ Chí Minh. Báo có chuyên trang giáo dục   riêng và cũng là một trong những tờ báo có ảnh hưởng với xã hội, đặc biệt là công chúng phía  Nam với số lượng phát hành 400.000 bản/ngày   Tổng hợp các tin bài phản ánh trên 4 tờ báo trên, ngành Giáo dục cơ bản có thể tìm thấy   câu trả lời cho các vấn đề  về  thông tin giáo dục và đào tạo đang cần có thêm ý kiến của dư  luận xã hội. Tất nhiên, trước những vấn đề  đổi mới mạnh mẽ, vấn đề  nhạy cảm của giáo  dục, cơ quan quản lý giáo dục các cấp không chỉ dựa vào 4 tờ báo trên để  nắm thông tin, mà   còn phải lắng nghe ý kiến từ công chúng,  từ nhiều loại hình báo chí khác.    Phạm vi nghiên cứu đề  tài là một khâu, một mắt xích trong mô hình truyền thông:   nghiên cứu về thông điệp (Message), thông tin về giáo dục và đào tạo trên loại hình báo in. Thời gian khảo sát: từ tháng 01/ 2005 đến tháng 12/ 2010   4. Cơ sở lý  luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận  Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở nhận thức luận các vấn đề  lý luận của chủ  nghĩa  Mác – Lê Nin và tư  tưởng Hồ  Chí Minh; đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà   nước Việt Nam về báo chí và giáo dục và đào tạo cũng như các ngành khoa học liên quan. Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở các lý thuyết như:  ­  Lý thuyết truyền thông Một số lý thuyết truyền thông: lý thuyết xâm nhập xã hội; lý thuyết xét đoán xã hội;   lý thuyết học tập; lý thuyết truyền bá cái mới; lý thuyết thuyết phục; lý thuyết truyền thông   điệp cho đối tượng; lý thuyết sử dụng; lý thuyết sử dụng và hài lòng...
  5. 5 Trong môi trường thông tin,  lý thuyết “Sử dụng và hài lòng” coi việc có đáp ứng được  nhu cầu của công chúng hay không là tiêu chuẩn cơ bản để  đánh giá hiệu quả truyền thông,  giác độ này có ý nghĩa vô cùng quan trọng.   Thứ  nhất, hành vi tiếp xúc với truyền thông của công chúng là hoạt động lựa chọn  những nội dung trên phương tiện truyền thông dựa trên nhu cầu của công chúng, sự lựa chọn  này có “tính linh hoạt” nhất định, điều này có lợi cho việc điều chỉnh quan điểm “công chúng  hoàn toàn bị  động” thành công chúng là người hoàn toàn chủ  động tiếp nhận thông tin trong   môi trường truyền thông hiện đại. Thứ hai, lý thuyết này nhấn mạnh tính đa dạng trong cách thức sử  dụng phương tiện   truyền thông của công chúng, đồng thời chỉ rõ vai trò chi phối của nhu cầu công chúng đối với   hiệu quả truyền thông. Thứ  ba, lý thuyết “Sử  dụng và hài lòng” chỉ  ra rằng, truyền thông đại chúng có hiệu   quả  cơ  bản đối với công chúng, đây cũng là một sự  bổ  trợ  có ích cho “lý thuyết hiệu quả  truyền thông hữu hạn” mà thập kỷ  1940 ­ 1960 nhấn mạnh quá nhiều về  tính phi hiệu quả  của truyền thông đại chúng. Xét từ giác độ này, một số học giả coi nó là lý thuyết “hiệu quả  thích hợp”. Tuy nhiên, lý thuyết “Sử dụng và hài lòng” cũng có những bất cập của nó, bởi nó  nhấn mạnh quá nhiều về  nhân tố  cá nhân và tâm lý, mang đậm màu sắc chủ  nghĩa hành vi.  Mặt khác, lý thuyết này chỉ khảo sát đơn thuần hành vi tiếp xúc với phương tiện truyền thông  của công chúng, do đó không thể  chỉ  ra một cách toàn diện mối quan hệ  xã hội giữa công  chúng và truyền thông.  Trong môi trường thông tin, lý thuyết “sử dụng và hài lòng” đóng vai trò quan trọng, có   thể  giúp chúng ta hiểu sâu hơn về  công chúng hiện đại, từ  đó giúp các cơ  quan báo chí thay  đổi các phương thức tác nghiệp, cung cấp cho xã hội những sản phẩm báo chí truyền thông  phù hợp với thời đại. Bản chất xã hội của truyền thông quá trình giao tiếp xã hội, quá trình liên kết xã hội và   quá trình can thiệp xã hội. Nói cách khác, đó là quá trình biện chứng. Con người sau khi được  truyền thông xã hội hóa có thể trở nên văn minh hơn và khi con người, xã hội càng phát triển   thì nhu cầu, năng lực và khả năng đáp ứng của truyền thông càng cao [ 37; tr.120]       Quá trình truyền thông là sự truyền đi của các thông điệp (ý nghĩ, thông tin, tư tưởng, ý   tưởng, ý kiến, kiến thức...) từ một người hay một nhóm người đến người khác hay một nhóm  người khác bằng lời nói, hình ảnh, văn bản hoặc các tín hiệu khác. Chính vì vậy, truyền thông  liên quan đến việc làm thế  nào để  liên kết các yếu tố  như  người nhận, người gửi, cách mã   hóa và cách giải mã, các kênh và các phương tiện truyền thông nhằm đảm bảo cho tính chính   xác và hiệu quả của quá trình truyền thông. 
  6. 6 Lịch sử nghiên cứu truyền thông từ đầu thế kỷ XX đến nay, dù theo mô hình nào cũng  đều liên quan đến thông điệp được truyền tải thông tin, xem thông điệp là một khâu, một mắt   xích quan trọng trong chu trình truyền thông. Đây là yếu tố nền tảng cho việc tạo lập một chu   trình truyền thông.   ­ Lý thuyết xã hội học truyền thông đại chúng Dưới góc độ của xã hội học thì truyền thông đại chúng được coi như là một  quá trình   xã hội. Đó là quá trình truyền đạt thông tin một cách rộng rãi ra công chúng trong xã hội thông   qua các PTTTĐC như báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử.  Nhà xã hội học Max Weber đã chỉ  rõ tác động của truyền thông đại chúng. Theo ông,   truyền thông đại chúng là một quá trình xã hội do nó có sự  liên kết bởi nhiều yếu tố  như:   nguồn tin, thông điệp và người nhận và chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. [59]  Một số  tác giả  khác cho rằng truyền thông đại chúng là một quá trình xã hội, đó là quá   trình truyền tải thông tin ra công chúng thông qua các phương tiện truyền thông, được liên kết   chặt chẽ bởi các yếu tố: nguồn tin, thông điệp và người nhận. Thiếu một trong ba yếu tố này,  hiệu  ứng xã hội sẽ  không xảy ra khi các kênh truyền thông đại chúng truyền thông điệp mà  không có người nhận[71]; [72]   Cũng theo các tác giả, truyền thông đại chúng là một quá trình xã hội đặc thù bao gồm   ba thành tố  sau đây: 1) Hoạt động truyền thông (săn tin, quay phim, chụp  ảnh, viết bài, biên  tập và cuối cùng là xuất bản, hoặc phát sóng), 2) Các nhà truyền thông (bao gồm các tổ chức   truyền thông như báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình... và những người làm công tác truyền  thông như nhà báo, phóng viên, biên tập viên, phát thanh viên...), 3)  Và đại chúng (các tầng lớp  công chúng rộng rãi). Chẳng hạn, khi chúng ta mở  máy tính, máy tính bảng, điện thoại di động xem tin tức  trên một tờ báo thì hành vi đó đã nằm trong quá trình truyền thông đại chúng. Thế nhưng nếu   chúng ta cũng mở những loại phương tiện trên nhưng lại để xem một tập ảnh chụp chung với  gia đình hay bạn bè, thì hành động này lại không được coi là nằm trong quá trình truyền thông   đại chúng, bởi một lẽ đơn giản là tập dữ liệu này được chụp và truyền phát trong khuôn khổ  cá nhân mà thôi.  Nói cách khác, điểm then chốt trong việc xác định xem một hành vi có nằm trong quá   trình truyền thông đại chúng hay không không phải là cái màn hình điện thoại di động hay máy  tính, máy tính bảng mà là cần xem xét coi hành vi ấy có nằm trong quá trình truyền tải thông   tin ra rộng rãi công chúng thông qua các PTTTĐC hay không.  Trong một số hướng nghiên cứu của xã hội học có hướng nghiên cứu về các nhà tuyên  truyền với vai trò là một nhóm xã hội­ nghề  nghiệp trong cơ cấu xã hội. Do đó, tác giả  tìm 
  7. 7 hiểu các vấn đề nghiên cứu về báo chí được tiếp cận, xem xét như thế nào từ góc độ xã hội   học, làm cơ sở cho việc đánh giá cụ thể về cách thức hoạt động của nhà truyền thông.  ­ Lý thuyết báo chí học Theo Siebert trong cuốn sách về  Bốn lý thuyết về  báo chí, báo chí mang hình thức và  màu sắc của các cấu trúc xã hội và chính trị  trong đó nó hoạt động. Báo chí và các phương   tiện truyền thông khác, trong quan điểm của họ, sẽ  phản ánh “niềm tin căn bản và giả  định  rằng xã hội nắm giữ”. Để  nhìn nhận sự  khác biệt của hệ  thống báo chí giữa các nước một   cách toàn diện nhất, phải nhìn vào hệ thống xã hội mà chúng đang hoạt động. Để xem xét hệ  thống xã hội trong mối quan hệ  với báo chí, phải xem xét những niềm tin và quan niệm cơ  bản của xã hội đó: đặc tính của con người, xã hội, đất nước, mối quan hệ giữa con người và  đất nước đó, của tri thức và sự thật.  Báo chí biểu hiện vai trò trong đời sống xã hội trên nhiều lĩnh vực như: Chính trị, kinh   tế, văn hoá – xã hội. Chức năng của báo chí: Thông tin, tư  tưởng, khai sáng, giải trí quản lý, giám sát và  phản biện xã hội, kinh tế, dịch vụ. ­ Lý thuyết thiết lập chương trình nghị sự Lý thuyết “thiết lập chương trình nghị  sự” (Agenda setting) do hai chuyên gia truyền   thông Maxwell McCombs và D.Shaw (Mỹ) đưa ra. Lý thuyết này mô tả  khả  năng ảnh hưởng  của giới truyền thông đối với công chúng thông qua các phương tiện truyền thông. Trong xã  hội, nếu một tin tức nào đó được nhắc tới thường xuyên, liên tục và nổi bật, công chúng sẽ  nhớ tới và coi nó quan trọng hơn những thông tin khác. Do vậy, chức năng “thiết lập chương  trình nghị sự” là một giả thiết quan trọng trong các lý thuyết truyền thông. Điểm nổi bật của  lý thuyết này là truyền thông đại chúng có một chức năng sắp đặt “chương trình nghị sự” cho  công chúng, các bản tin và hoạt động đưa tin của cơ quan báo chí truyền thông ảnh hưởng đến  sự phán đoán của công chúng tới những “chuyện đại sự” của thế giới xung quanh và tầm quan  trọng của chúng bằng cách làm cho các “chương trình” nét nổi bật  khác nhau, từ đó có thể tác  động và tạo ra sự  dẫn đường trong tương lai.   Lý thuyết cho rằng Truyền thông đại chúng  (trong đó có báo chí) có chức năng sắp đặt “chương trình nghị sự” cho công chúng. Lý thuyết   còn chỉ  ra rằng, việc đưa tin về  thế  giới bên ngoài của cơ  quan truyền thông là lựa chọn có   mục đích.  Theo McCombs & Shaw’s study (1972), cho rằng các cơ quan báo chí truyền thông (dựa   vào giá trị quan và mục đích tôn chỉ, đồng thời căn cứ vào môi trường thực tế để) “lựa chọn”   vấn đề hoặc nội dung mà họ  coi là quan trọng để  cung cấp cho công chúng, chứ không phải   cung cấp những thông tin mà công chúng cần. McCombs (1994) gần đây cho rằng hiệu  ứng  
  8. 8 của thuyết này rất mạnh khi công chúng  không biết hay không có kinh nghiệm trực tiếp về  vấn đề, khi họ phụ thuộc nhiều hơn vào các phương tiện truyền thông để hiểu tình hình. Lý thuyết “thiết lập chương trình nghị sự” không đánh giá hiệu quả truyền thông trong  thời gian ngắn của một hãng truyền thông nào đó đối với một sự kiện cụ thể, mà đánh giá về  hiệu quả xã hội lâu dài, tổng hợp ở tầm vĩ mô của cả ngành truyền thông được tạo ra sau khi  đưa ra hàng loạt bản tin trong một quãng thời gian khá dài. Các cơ  quan báo chí truyền thông dựa vào giá trị  quan và mục đích tôn chỉ, đồng thời  căn cứ  vào môi trường thực tế để  “lựa chọn” vấn đề hoặc nội dung mà họ coi là quan trọng  nhất để sản xuất và cung cấp cho công chúng những thông tin “đúng sự thật”.    Thiết lập chương trình nghị sự về TT GDĐT trên báo in gồm 2 khía cạnh:  Một là, báo  in là chủ thể của các TT về GDĐT. Hai là, báo in là trung gian tổ chức thu thập và công bố TT  về GDĐT. Báo in luôn chủ trì về mặt truyền thông, “lựa chọn” vấn đề  hoặc nội dung mà họ  coi là quan trọng để cung cấp cho công chúng.    4.2. Phương pháp nghiên cứu ­ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Là phương pháp tác giả  sử dụng khảo sát các văn  bản, chỉ thị, nghị quyết và các công trình khoa học, sách, báo…nhằm mục đích tìm cơ sở cho  việc xây dựng khung lý thuyết về TT về GDĐT trên báo in; đặc điểm, vai trò TT GDĐT trên   báo in; mô hình TT GDĐT trên báo in và những yêu cầu về TT GDĐT trên báo in. Đồng thời,   tác giả tìm hiểu kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học có thể  hữu ích cho việc   đối chiếu và tham khảo trong khuôn khổ công trình nghiên cứu này, các công trình đó có thể  làm cơ  sở  cho việc đánh giá các kết qua khảo sát, tìm ra các giải pháp khoa học cho vấn đề  nghiên cứu. ­ Phương pháp điều tra xã hội học:   Mục tiêu của phương pháp này là thu nhận các  nhận xét, đánh giá của các nhóm công chúng khi tiếp nhận thông tin GDĐT trên các báo trong   diện khảo sát. Tìm hiểu TT về GDĐT trên báo in đã đáp ứng nhóm công chúng ở mức độ nào.   Chúng tôi đề ra một bảng câu hỏi ( anket) phát cho đối tượng tại Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố  Hồ Chí Minh, tổng số phiếu là 500 phiếu, bao gồm: Hà Nội 180 phiếu, Đà Nẵng 140 phiếu,  thành phố Hồ Chí Minh 180 phiếu. Số phiếu thu về sau điều tra là 483 phiếu. Các đối tượng cụ thể:  Ở  mỗi thành phố  chúng tôi lựa chọn đối tượng để  phát phiếu   như sau: học sinh (chọn 1 trường THPT, 1 trường THCS, m ỗi tr ường 1 l ớp), sinh viên (chọn 3   trường đại học  ở 3 thành phố thuộc 3 khối A, B, C, mỗi trường 1 lớp), giáo viên (chọn 1 số  giáo viên Tiểu học, Phổ  thông và đại học), cán bộ  quản lý giáo dục (Hiệu trưởng đại học,   phổ thông, sở Giáo dục và Đào tạo, Vụ trưởng Vụ chuyên môn của Bộ Giáo dục và Đào tạo),   người dân (phụ  huynh học sinh Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung h ọc ph ổ thông, đại học),  theo đó có các cứ liệu và cơ sở giúp tác giả thực hiện luận án.
  9. 9 Với những phiếu điều tra bằng bảng hỏi (anket), chúng tôi sử  dụng phần mềm xử lý   số liệu định lượng SPSS 16.0. ­ Phương pháp phỏng vấn sâu (Phỏng vấn chuyên gia) : với hình thức phỏng vấn đặt  câu hỏi với 20 đến 30 người trả  lời là những đối tượng: lãnh đạo cơ  quan quản lý báo chí  (Tổng biên tập một tờ  báo, trưởng, phó ban giáo dục của báo): 04 mẫu; phóng viên theo dõi  giáo dục (các phóng viên hiện đang theo dõi giáo dục được các báo giới thiệu đến Bộ  Giáo  dục và Đào tạo): 10 mẫu; Công chúng (Chọn trong số những người điều tra XHH, mỗi thành  phố  chọn 2­3 người bất kỳ, thường xuyên đọc thông tin về  GDĐT hoặc liên quan đến lĩnh  vực GDĐT như  giáo viên, quản lý giáo dục, học sinh, sinh viên…): 08 mẫu. Từ  đó, tập hợp   các cứ liệu thực tế phục vụ cho đề tài nghiên cứu.  Với phương pháp phỏng vấn sâu, chúng tôi  sử dụng phần mềm xử lý dữ liệu định tính Nvivo 8.0.  ­ Phương pháp quan sát: tiến hành khi thực hiện phỏng vấn sâu, điều tra xã hội học và  tiến hành các nghiên cứu. Mục đích để xem xét hoạt động của các cơ quan báo in, hoạt động   tiếp nhận thông tin GDĐT của công chúng; các biểu hiện về nhận thức, thái độ, hành vi của  công chúng và những người xây dựng các sản phẩm báo chí liên quan đến vấn đề nghiên cứu.   Kết quả quan sát sẽ là cơ sở để thực hiện nghiên cứu đề tài. ­ Phương pháp phân tích nội dung văn bản   ­ Mô tả về phương pháp: Phân tích nội dung văn bản là phương pháp phân tích tài liệu   bài viết (có thể  dưới dạng in  ấn hoặc nghe nhìn) nhằm lượng hoá nội dung một cách có hệ  thống, có thể nhân rộng dựa trên các tiêu chuẩn đã được xác định. Phân tích nội dung được đề  cập ở đây (phân tích nội dung định lượng) khác với hai phương pháp phân tích nội dung thông  tin khác đó là (1) Ký hiệu học – một phương pháp phân tích văn bản và các hiệu tượng khác  nhấn mạnh việc tìm kiếm ý nghĩa sâu xa của các hiện tượng này; (2) Phân tích nội dung mang   tính dân tộc học, phương pháp tiếp cận văn bản theo hướng nhận mạnh vai trò của người   điều tra trong việc xây dựng ý nghĩa của bài viết và trong toàn bộ  quá trình phân tích nó.   Phương pháp này được xem là phương pháp phân tích định tính trong đó yếu tố ngữ cảnh đóng   vai trò quan trọng trong việc phân loại số liệu và xây dựng các ý nghĩa. Bước tiếp theo của phần phân tích định lượng là phải quyết định xem cần xem xét  những gì. Tất nhiên, việc quyết định phải xem xét cái gì trong quá trình phân tích nội dung bị  ảnh hưởng các câu hỏi nghiên cứu. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu không chỉ phân loại dựa vào nội   dung hiển nhiên mà còn cả những nội dung ẩn ý. Cần dò tìm dưới bề mặt để đặt câu hỏi sâu   hơn về những sự việc đang diễn ra; (4) Khuynh hướng cũng là vấn đề mà các nhà nghiên cứu  quan tâm tìm kiếm khi phân tích nội dung. Đó là sự thay đổi, mối quan tâm, niềm tin hay các  nguyên tắc.
  10. 10 Mã hoá là bước trung tâm và đặc biệt nhất của phân tích nội dung. Có 2 yếu tố chính  trong bước này là thiết một một bảng mã và thiết kế  một sổ  tay mã hoá. Bảng mã là một   biểu/ bảng mẫu trong đó có tất cả các số  liệu kiên quan tới một vấn đề  được mã hoá được   điền vào. Bảng này được đơn giản hoá để  hỗ  trợ  các tranh luận về  các nguyên tắc mã hoá  trong phân tích nội dung và nguyên tắc xây dựng bảng mã nói riêng. Mỗi cột trong bảng mã sẽ  là một khía cạnh được mã hoá. Đầu đề của các cột sẽ là các khía cạnh được mã hoá, các cột   sẽ được đánh số. Mỗi mẫu sẽ dùng cho một bài được mã hoá. Các mã số sau đó có thể được  chuyển thành một tệp sữ  liệu máy tính cho việc phân tích bằng phần mềm SPSS. Để  giúp   điềm thông tin đúng và thống nhất vào bảng mã này, cần có sổ  tay mã hoá. Sổ  tay mã hoá là  các hướng dẫn chi tiết cho người thực hiện mã hoá. Trong luận án này, tất cả các bài viết về Giáo dục đào tạo được xem xét kỹ lưỡng trên  4 tờ  báo in Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Nhân Dân, Giáo dục và Thời đại trong thời gian từ  năm  2005 đến năm 2010. ­ Mẫu nghiên cứu bao gồm các thông tin về  các tờ  báo được lựa chọn để  phân tích,  hình thức đăng tải, chuyên mục đăng tải, nguồn và thời gian đăng tải. Các thông tin này giúp   người nghiên cứu có một cái nhìn tổng thể về mẫu nghiên cứu. ­ Cách thức chọn mẫu: Tất cả các bài báo liên quan, đề  cập đến GDĐT trong khoảng   thời gian nghiên cứu đều được sưu tầm. Với phương pháp lẫy mẫu ngẫu nhiên hệ  thống từ  26875 tin, bài về GDĐT trong 5 năm, tác giả lựa chọn 720 tin, bài để phân tích (Mỗi báo chọn   180 tin, bài). Trong trường hợp những bài viết trùng nhau được đăng tải trên nhiều báo sẽ lựa   chọn ngẫu nhiên một bài bất kỳ, không lấy tất cả các bài báo trùng nhau hoàn toàn trong mẫu  nghiên cứu. Trong trường hợp giống nhau nội dung hay tiêu đề nhưng có sự khác biệt về cách  phân tích hoặc thể hiện trong bài báo thì đều được chọn trong mẫu nghiên cứu.  Thông tin thu thập từ các bảng mã viết về Giáo dục và đào tạo trên 4 báo được mã hoá,  nhập và xử  lý bằng chương trình SPSS 16.0. Sau khi làm sạch số  liệu sẽ tiến hành biến đổi   các số liệu để phục vụ cho việc lượng hoá các nhóm vấn đề có liên quan đến GDĐT và đánh  giá các bài viết về GDĐT ­ Phương pháp phân tích diễn ngôn: Diễn ngôn là cách nói năng, phương thức biểu đạt  của con người, thế giới về các sự việc trong đời sống. Do đó, nghiên cứu diễn ngôn là nghiên   cứu ngôn ngữ. Nhưng diễn ngôn không phải là hình thức mà là tư tưởng­ tư tưởng trong dạng   thức thực tiễn, trên kênh truyền thông đại chúng. Theo Sara Mills trong Discourse, có thể thấy ba cách định nghĩa khác nhau về diễn ngôn  trong các trước tác của Foucault. Thứ  nhất, diễn ngôn được coi là tất cả  các nhận định nói  chung, đó là tất cả các phát ngôn hoặc văn bản có nghĩa và có một hiệu lực nào đó trong thế  giới thực. Thứ hai, diễn ngôn là một nhóm các diễn ngôn cụ thể, được qui ước theo một cách  
  11. 11 thức nào đó và có một mạch lạc hoặc một hiệu lực nói chung, “được nhóm lại với nhau bởi   một áp lực mang tính thiết chế  nào đó, bởi sự  tương tự  giữa xuất xứ  và bối cảnh hay bởi  chúng cùng hành động theo một cách gần giống nhau”[ Sara Mills, Diễn ngôn, Cấu trúc diễn  ngôn, Diễn ngôn, các diễn ngôn ]. Ví dụ, diễn ngôn nữ  giới là một nhóm các diễn ngôn có  chung một hiệu lực là nhằm phản kháng lại diễn ngôn về phụ nữ của đàn ông, diễn ngôn chủ  nghĩa đế quốc là nhóm các diễn ngôn có chung một hiệu lực là áp đặt quyền lực thực dân lên   những xứ sở thuộc địa… Thứ ba, diễn ngôn là một thực tiễn sản sinh ra vô số các nhận định  và chi phối việc vận hành của chúng[Sara Mills, Diễn ngôn, Dẫn nhập ]. Diễn ngôn không chỉ  được coi như  “một cái gì tồn tại cố  hữu, tự  thân và có thể  được phân tích một cách cô   lập[Sara Mills, Diễn ngôn ]”, là những qui tắc và cấu trúc nhằm tạo ra những phát ngôn và  những văn bản cụ thể. Đó là một hệ thống của “những tư tưởng, quan điểm, khái niệm, cách   thức tư  duy và hành xử, những cái được hình thành trong một bối cảnh xã hội cụ  thể[Sara   Mills, Diễn ngôn, Dẫn nhập ]”, có một hiệu lực chung đối với cách suy nghĩ và nói năng của  mỗi nhóm người cũng như mỗi cá nhân. Thông qua phương pháp phân tích diễn ngôn, luận án làm sáng tỏ  những vấn đề  của   thời đại thông qua thông tin GDĐT, làm rõ hơn góc nhìn quyền lực truyền thông thông qua vấn   đề được đề cập; làm sáng tỏ chủ thể thể hiện thông điệp về GDĐT, đó là những thông tin mà  nhà hoạch định chính sách kỳ  vọng, hay những thông tin phản biện từ  vấn đề  bất cập của  thực tiễn triển khai chính sách. ­ Ngoài ra luận án còn sử dụng một số phương pháp khác như:  Phương pháp so sánh;   Phương pháp tổng hợp... 5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu 5.1. Câu hỏi nghiên cứu  Luận án đặt ra các câu hỏi nghiên cứu gồm: ­ Thông tin về GDDT là gì và vai trò của thông tin về GDDT trên báo in?  ­ Mô hình thông tin về GDDT trên báo in như thế nào và có vai trò gì? ­ Các yêu cầu cụ thể đối với việc thông tin về GDĐT là gì? ­ Báo in cần phải làm gì và làm như thế nào để  thông tin về GDDT có hiệu quả? 5.2. Giả thuyết nghiên cứu ­ Giả thuyết thứ nhất: Cùng với công cuộc đổi mới của đất nước, giáo dục đào tạo luôn  được Đảng, Nhà nước ta coi là quốc sách hàng đầu và đang có sự  đổi mới quyết liệt trong   nhiều năm qua. Việc triển khai đổi mới một lĩnh vực liên quan đến mọi người, mọi gia đình  và thực hiện không chỉ ngành giáo dục mà cả hệ thống, toàn xã hội. Vì vậy, định hướng đúng   đắn các chủ trương đổi mới về giáo dục, góp ý, phản biện những hạn chế trong quản lý, cách 
  12. 12 dạy, cách học…là hết sức quan trọng của các cơ quan báo chí, trong đó có báo in. Do đó, nâng   cao chất lượng thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in là hết sức cần thiết. ­  Giả  thuyết thứ  hai: Thông tin về  giáo dục và đào tạo  ở  Việt Nam hiện nay, còn có   những hạn chế: đưa số lượng tin bài tiêu cực, giật gân nhiều; số lượng tin, bài phản ánh tích  cực, gương tập thể, cá nhân tốt trong ngành ít. Việc khảo sát, phân tích một cách khoa học   thực trạng để chỉ ra được những mặt tích cực và hạn chế, cơ hội, thách thức cho báo in thực   hiện tốt thông tin về giáo dục và đào tạo. ­ Giả  thuyết thứ  ba: Thông tin về  giáo dục và đào tạo của báo in góp phần quan trọng  trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, tạo sự đồng thuận trong việc thực hiện hiệu quả các  chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về  giáo dục, đặc biệt là thực hiện đổi mới căn   bản toàn diện giáo dục và đào tạo trong giai đoạn hiện nay. ­ Giả thuyết thứ tư: Cách thông tin về GDĐT hiện nay còn hạn chế về mặt tương tác, tư  duy nhận thức của mỗi tờ báo chưa tương xứng với vị trí giáo dục và đào tạo được chỉ  đạo   qua các chủ  trương, chính sách, Nghị  quyết của Đảng, Nhà nước, kiến thức hiểu biết giáo  dục của phóng viên được phân công theo dõi còn hạn chế, công tác truyền thông của ngành   Giáo dục còn yếu.  6. Đóng góp mới về khoa học của luận án ­ Luận án hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về thông tin về giáo dục và đào tạo, báo  chí nói chung, báo in nói riêng và vai trò của thông tin về  giáo dục và đào tạo trên báo in;   những yêu cầu cần có đối với thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in…Khung lý thuyết  cộng với cơ  sở  thực tiễn làm nền tảng cho việc nghiên cứu, đánh giá các vấn đề  liên quan   đến công tác thực hiện ở mảng đề tài thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in. ­ Luận án chỉ ra được thực trạng thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in hiện nay,   về thế mạnh, điểm tích cực, hạn chế để từ đó có nhận định khái quát về thực trạng thông tin   lĩnh vực này. Luận án khẳng định vai trò của thông tin về giáo dục và đào tạo trên  báo in. ­ Luận án nêu những vấn đề  đặt ra của thông tin về  giáo dục và đào tạo trên báo in   trong bối cảnh sự phát triển của sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đồng thời khuyến nghị những   giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của  luận án 7.1. Ý nghĩa lý luận Hiện nay, việc tìm hiểu TT về  GDĐT trên báo chí nói chung và báo in nói riêng chưa  được quan tâm đúng mức vì nhiều lý do khác nhau. Việc tìm hiểu thông điệp về GDĐT chưa   được thực hiện nhiều và còn nhiều bất cập. Luận án này xác định những ưu điểm và hạn chế  cụ thể của TT về GDĐT trên báo in .
  13. 13 Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên hệ  thống một cách tổng quát, chuyên sâu,  cập nhật về yêu cầu nâng cao chất lượng, vai trò của thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo  in ở Việt Nam hiện nay. Các cơ  quan báo in trước đây thường sản xuất các tác phẩm theo cách truyền thống,   thiếu sự sinh động, tương tác, nay cần lưu ý đến sự cạnh tranh đối với các loại hình báo chí   mới. Công chúng sẽ lựa chọn tiếp nhận dòng thông tin gì và bằng các phương tiện nào. Luận án là đề tài hết sức cần thiết để bổ sung cho các nguồn số liệu còn thiếu của các  đề tài nghiên cứu trước đây; là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho công tác giảng dạy báo  chí trong nhà trường; làm tài liệu tham khảo cho sinh viên báo chí;  gợi mở hướng nghiên cứu  để tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng báo chí nói chung và báo chí in  nói riêng.  7.2. Giá trị thực tiễn Luận án sẽ  cung cấp cho các cơ quan báo chí nói chung và cơ  quan báo in nói riêng ở  nước ta có những cơ sở khoa học đáng tin cậy để đánh giá đúng về TT GDĐT hiện nay, và là   cơ  sở để  nâng cao chất lượng các tác phẩm báo chí, từ  đó tạo ra hướng đi mới cho cơ  quan  báo in phát triển mạnh mẽ.  Luận án góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa các cơ quan báo chí với các tác phẩm   báo chí của chính họ. Để có được sự phát triển tốt phù hợp với báo chí hiện đại, các cơ quan   báo in cần tìm hiểu và ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mới cũng như cách viết tác   phẩm báo chí mới.  Ứng dụng các thành tựu KHKT trong cơ quan báo chí có hiệu quả  không   chỉ là vấn đề của riêng báo chí nước ta mà còn là của báo chí quốc gia và báo chí thế giới.   Tìm hiểu TT về GDĐT như phân tích để làm rõ thực trạng, chỉ ra đặc điểm, những ưu   điểm và hạn chế thông tin về giáo dục và đào tạo, đồng thời đề xuất, khuyến nghị, giải pháp  của luận án sẽ giúp cho các cơ quan báo chí có cơ sở để sản xuất các sản phẩm báo chí hấp  dẫn, thiết thực; cơ  sở  để  nâng cao các   tác phẩm báo chí và nâng cao chất lượng đội ngũ   người làm báo. Từng bước góp phần giúp báo in phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh hiện nay.  8. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Tổng quan vấn đề  nghiên cứu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và  Phụ lục, Luận án gồm 3 chương 11 tiết. Chương 1:  Cơ sở lý luận và thực tiễn thông tin về giáo dục đào tạo trên báo in. Chương 2:  Thực trạng thông tin về giáo dục đào tạo trên báo in ở Việt Nam.  Chương 3:   Những vấn đề đặt ra, giải pháp và khuyến nghị thông tin về giáo dục đào  tạo trên báo in ở Việt Nam hiện nay. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Trong phần này NCS đã nghiên cứu một số công trình nghiên cứu về  giáo dục và đào  tạo, về lý luận báo chí, vai trò chức năng của báo chí với thông tin về giáo dục và đào tạo ở 
  14. 14 trong và ngoài nước. Qua đó cho thấy rằng, vai trò thông tin về  giáo dục và đào tạo trên báo  chí nói chung, báo in nói riêng được đề cập từ rất sớm thông qua nghiên cứu các lĩnh vực như  triết học, chính trị học, luật học, báo chí học, giáo dục học, xã hội học….Các nghiên cứu này  chủ yếu được nghiên cứu ở góc độ  lý luận cơ   bản, nghiên cứu cụ  thể  trong hoạt động của   cơ  quan báo chí, hay kỹ  năng, nghiệp vụ. Theo đó, giáo dục hay cụ  thể  hơn là thông tin về  giáo dục đào tạo trên báo chí được đặt trong mối quan hệ  với nhà nước pháp quyền, xã hội  dân chủ, báo chí phát triển. Thông tin về giáo dục đào tạo trên báo chí được coi là nguyên tắc   cơ bản và tất yếu trong đời sống chính trị và hoạt động quản lý xã hội đối với các quốc gia. Các nghiên cứu cũng cho thấy đã chứng minh giáo dục đào tạo là một lĩnh vực quan  trọng của mỗi quốc gia, thông tin về giáo dục đào tạo trên báo chí là một chức năng và có vị  trí quan trọng của báo chí. Tuy nhiên, cũng chưa có một nghiên cứu nào chỉ  ra một cách đầy  đủ, cụ  thể  về  thông tin giáo dục đào tạo trên báo chí và  ở  Việt Nam, cũng như  chưa chỉ  ra   được bản chất, nội dung, phương thức thông tin về giáo dục đào tạo trên báo chí nói chung và   từng loại hình báo chí nói riêng. Việc nghiên cứu cho thấy, nhiều vấn đề  khái niệm và bản  chất, nội dung và hình thức, phương thức, phương tiện, vai trò, hiệu quả tác động…của thông   tin về giáo dục đào tạo trên báo in ở nước ta vẫn chưa được làm rõ. Các nội dung này sẽ được   NCS làm sáng tỏ qua đề tài: Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in Việt Nam (Khảo sát   trên các báo Nhân Dân, Giáo dục và Thời đại, “Tuổi trẻ” và Thanh Niên) Do vậy, trong luận án này, NCS sẽ nghiên cứu để  làm rõ thực trạng thông tin về  giáo  dục đào tạo trên báo chí, ý nghĩa, hiệu quả tác động của báo chí với giáo dục và đào tạo. Với   sự  quan tâm của Đảng và Nhà nước ta về  lĩnh vực giáo dục và đào tạo, đã được xác định là  quốc sách hàng đầu, báo chí đã luôn dành sự quan tâm và phản ánh nhiều chiều về giáo dục.  Với ý nghĩa như  vậy, việc thông tin trên báo chí cũng cho thấy những mặt mạnh và những  mặt còn hạn chế, như: ở nhiều bài viết cần có thêm hoặc tìm hiểu sâu về kiến thức giáo dục   (Mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học ph ổ thông và đại học); cần bàn  thêm nhìn ở  góc độ  tính giáo dục trong những ngôn ngữ sử dụng trong bài hoặc đặt đầu bài…  Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN THÔNG TIN VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRÊN BÁO IN ­ Trong Chương 1, luận án đã hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản thông tin về  GDĐT trong đó đưa ra các khái niệm liên quan đến phạm vi, lĩnh vực thuộc phạm vi đề  tài   nghiên cứu, khái niệm “Thông tin”, “Giáo dục”,  “Đào tạo”, “Giáo dục và đào tạo”,  “Báo in”   và “Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in”, đây là những cơ sở  để  tác giả  nghiên cứu  khảo sát  ở những  nội dung tiếp theo về thông tin báo chí nói chung và thông tin về giáo dục   và đào tạo trên báo in nói riêng.
  15. 15 +Thông tin báo chí cũng được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, đó là tri thức, tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ  hiện thực cuộc   sống. Tất cả  những vấn đề, sự  kiện, hiện tượng trong t ự  nhiên và xã hội đượ c báo chí   phản ánh nhằm phục vụ nhu c ầu tìm hiểu, khám phá của con người. Thứ hai, đó là phương tiện, công cụ chuyển tải tác phẩm báo chí tới công chúng. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này Thông tin được hiểu theo nghĩa thứ nhất. Trong thực tiễn báo chí, thuật ngữ  “thông tin” có nhiều dạng khác nhau: có khi chỉ  là  cái tin vắn, tin ngắn, bài bình luận, phóng sự, phỏng vấn; có khi là một chương trình phát  thanh, truyền hình. Ngay cả các tiêu đề, vị  trí của tác phẩm trên các cột báo, giọng đọc của   phát thanh viên, các cỡ chữ hay cách xếp chữ trên các tờ báo… đều chứa đựng thông tin. Thuật ngữ  “Thông tin” trong hoạt động báo chí còn có có cách hiểu rộng hơn, chúng  còn được hiểu như một danh từ tập hợp. Chúng ta có thể gọi toàn bộ tác phẩm, hay hệ thống   những tin tức… là thông tin. Thông qua việc phân tích thông tin GDĐT trên báo in, luận án sẽ làm sáng tỏ những nội   dung thông tin từ các nhà quản lý, hoạch định chính sách, thông tin phản biện những vấn đề  bất cập trong triển khai chính sách giáo dục giai đoạn 2005­2010, thông qua đó, luận án nêu lên  những vấn đề của thời đại thông qua việc phân tích thông tin, làm rõ hơn góc nhìn của quyền   lực của truyền thông. + Giáo dục và đào tạo là hoạt động có tổ  chức, có mục đích của xã hội, nhằm bồi   dưỡng và phát triển các phẩm chất và năng lực của người. Trong đó, giáo dục chỉ là sự bồi dưỡng và phát triển toàn diện con người từ bậc giáo dục   mầm non đến trung học phổ thông. Đào tạo chỉ  sự bồi dưỡng và chuẩn bị  nghề  cho con người trong các trường dạy nghề,   cao đẳng và đại học. Điều 4 của Luật Giáo dục năm 2005 đã nêu rõ về  hệ  thống giáo dục quốc dân là: “(1)   Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên; (2) Các cấp   học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm: Giáo dục mầm non có nhà   trẻ và mẫu giáo; Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông; Giáo   dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề; Giáo dục đại học và sau đại học   (sau đây gọi chung là giáo dục đại học) đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ   thạc sĩ, trình độ tiến sĩ.” +Thông tin về giáo dục và đào tạo là thông tin về một lĩnh vực cũng như  các lĩnh vực  khác như y tế, giao thông, môi trường…Theo đó khảo sát của tác giả thông tin về giáo dục và  
  16. 16 đào tạo là thông tin về  hoạt động giảng dạy, hoạt động điều hành quản lý, hoạt động giáo  dục giáo dục nói chung, bao gồm:   Quan điểm, mục tiêu và chủ trương, chính sách về giáo dục và đào tạo   Tính chất, đặc điểm và nguyên tắc quản lí về giáo dục và đào tạo  Quản lý về giáo dục ­ đào tạo  và hệ thống các cơ quan quản lý và nội dung quản lý về  giáo dục ­ đào tạo   Thông tin về  hoạt động của giáo dục gồm: quản lý giáo dục, hoạt động nhà trường,  hoạt động của học sinh, sinh viên… Nói tóm lại Thông tin về giáo dục và đào tạo bao gồm các thông tin về   quan điểm, mục  tiêu và chủ trương, chính sách về giáo dục và đào tạo; tính chất, đặc điểm và nguyên tắc quản lí  về giáo dục và đào tạo; quản lý về giáo dục ­ đào tạo  và hệ thống các cơ quan quản lý và nội  dung quản lý về giáo dục ­ đào tạo; thông tin về hoạt động của giáo dục.  +Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in là thông tin về một lĩnh vực chuyên về  giáo dục và đào tạo, đây là những dữ liệu đề  xây dựng nên các tác phẩm báo chí trên báo in   phản ánh về lĩnh vực giáo dục. Theo Luật báo chí, báo in bao gồm: báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn.  Nghị  định số 51/2002/NĐ­CP, ngày 26 tháng 4 năm 2002 quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí, luật   sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí định nghĩa “Báo in: là tên gọi loại hình báo chí   được thực hiện bằng phương tiện in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn) ”. Căn cứ  vào Luật Báo chí năm 2016,   Báo in là loại hình báo chí sử  dụng chữ  viết, tranh,  ảnh, thực  hiện bằng phương tiện in để phát hành đến bạn đọc, gồm báo in, tạp chí in. “Báo in là những  ấn phẩm định kỳ  chuyển tải nội dung thông tin mang tính thời sự  và   được phát hành rộng rãi trong xã hội. Trong trường hợp này, thuật ngữ báo in dùng để chỉ 2   bộ phận báo và tạp chí”. [ 63; tr 81] ­Trong chương này, tác giả cũng làm rõ đặc điểm và vai trò của thông tin về giáo dục  và đào tạo, trong đó đi vào cụ thể từng phần đặc điểm chung và riêng. Theo đó, làm rõ vai trò  của thông tin về  giáo dục và đào tạo trên báo in, cụ  thể  đối với cơ  quan báo chí và đối với   công chúng báo chí.    ­ Đặc điểm của thông tin báo chí:    Thông tin thời sự;   Thông tin có tính công khai;  Thông tin có tính mục đích; Thông tin báo chí có tính phong phú, đa dạng nhiều chiều; Thông  tin dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm theo; Thông tin tương tác; Thông tin đa phương tiện.  ­ Đặc điểm thông tin về giáo dục đào tạo trên báo in:  Thông tin về giáo dục và đào  tạo trên báo in có tính thời sự; Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in có tính công khai;   Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in có tính mục đích; Thông tin về  giáo dục và đào  tạo trên báo in có tính định kỳ; Thông tin về  giáo dục và đào tạo trên báo in phong phú, đa  
  17. 17 dạng; Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in dễ nhớ, dễ hiểu dễ làm theo; Thông tin về  giáo dục và đào tạo trên báo in có tính tương tác và tính đa phương tiện.   Vai trò của thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in ­ Đối với  chủ thể thông tin:  Chủ thể thông tin bao gồm cơ quan báo chí và nhà báo. + Thông tin về giáo dục và đào tạo có vai trò quan trọng là chất liệu hình thành nên các   tác phẩm báo chí về giáo dục  + Thông tin về GDĐT mang lại giá trị kinh tế + Thông tin về GDĐT tạo lập thương hiệu cho cơ quan báo in ­ Đối với  khách thể thông tin về GDĐT trên báo in Khách thể thông tin GDĐT là các tập thể: các cơ quan quản lý GDĐT, các cơ quan thực   thi GDĐT. Theo Nghị định Quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục của Chính phủ  số  115/2010/NĐ­CP, các cơ  quan quản lý GDĐT bao gồm:   Bộ  GDĐT, UBND cấp tỉnh,   Sở  GDĐT, UBND cấp huyện, Phòng GDĐT, UBND cấp xã. Khách thể thông tin GDĐT còn là tổ  chức, cá nhân liên quan đến GDĐT, công chúng quan tâm đến thông tin GDĐT. Vai trò của TTGDĐT đối với khách thể thông tin: Tư vấn, hoạch định chính sách GDĐT;   Quản lý, giám sát, phản biện chính sách GDĐT; Cung cấp tri thức GDĐT và các giá trị  văn   hoá, lịch sử. Luận án cũng trình bày cụ  thể  cơ  sở  chính trị  và pháp lý của thông tin về  GDĐT  trên báo chí, từ đó giúp tác giả luận án nhận thức rõ vai trò quan trọng của GDĐT và có sơ sở  để phân tích về giá trị các thông tin GDĐT trên báo in ở Việt Nam hiện nay. ­ Những yêu cầu đối với thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in Đối với nội dung thông tin ­ Thứ nhất, thông tin về GDĐT tuyên truyền, phổ biến các chủ trương chính sách, pháp  luật của Đảng và Nhà nước ... những ý tưởng và quyết định trong công tác đổi mới của Bộ  Giáo dục và Đào tạo.  ­ Thứ hai, thông tin về giáo dục và đào tạo đảm bảo tính nhân văn, giáo dục và văn hóa.  ­ Thứ ba, thông tin về GDĐT đã đưa ra các mô hình giáo dục, phương pháp giảng dạy   hiệu quả, giúp nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường.  ­ Thứ tư, thông tin về GDĐT chia sẻ những tấm gương, những câu chuyện tích cực và   phê phán các hiện tượng tiêu cực trong GDĐT.    ­ Thứ năm, Thông tin về hoạt động đổi mới trong GDĐT  Yêu cầu đối với hình thức thông tin Thông tin giáo dục và đào tạo phải thể  hiện được đặc thù của báo in, trình bày đẹp,   hấp dẫn, khoa học, hiện đại. Cùng với đó việc thể hiện mỗi tác phẩm báo chí phải được chú 
  18. 18 trọng việc đặt “tít” bài, “Sapo”, “Box” thông tin, ảnh phù hợp với nội dung cần phản ánh. Các  thể loại báo chí phải được sử dụng phong phú, đa dạng phù hợp theo từng chủ đề, nội dung,   chuyên mục, chuyên trang khác nhau…như  tin tức, phóng sự, phỏng vấn…Các chuyên trang   giáo dục cũng phải thực hiện tính ổn định, tạo thuận lợi và hấp dẫn bạn đọc. Kết cấu tác phẩm cần đảm bảo yêu cầu cơ bản là: tác phẩm đó là gì, nói gì và nói như  thế  nào? Đồng thời đặt tác phẩm trong những mối tương quan khác như: vai trò xã hội, tích  cấp thiết của nội dung tác phẩm thể hiện; điểm nhìn của tác giả; vai trò của tác giả; cách xử  lý số  liệu trong tác phẩm; cách khai thác thông tin của tác giả. Ngôn ngữ  thể  hiện đối với   thông tin về giáo dục và đào tạo cũng là một yêu cầu đặt ra đối với ngôn ngữ văn bản và hình   ảnh vừa đáp  ứng tính báo chí nhưng cũng phải đáp  ứng tính giáo dục cao, với đặc thù đối   tượng công chúng chủ yếu quan tâm đến thông tin giáo dục đào tạo là các nhà giáo, nhà khoa  học, nhà quản lý và học sinh, sinh viên, phụ huynh. Yêu cầu đối với phương thức thông tin Đối với nhật báo: Thông tin giáo dục và đào tạo được chuyển tải đến công chúng   nhanh nhạy, kịp thời, khách quan, khoa học và đa chiều tạo điều kiện cho nhân dân dễ  dàng   tiếp nhận thông tin, tham gia ý kiến phản biện hay góp ý,bày tỏ quan điểm riêng ủng hộ hoặc   không hài lòng. Đối với tuần báo: đảm bảo yêu cầu vừa bám sát tính thời sự về các chủ trương, chính   sách, các sự kiện, vấn đề…về giáo dục và đào tạo nhưng phải thể hiện được đặc thù của báo  tuần có các bài viết đi sâu hơn, phân tích nhiều chiều, mang tính định hướng cao. Với cơ sở lý luận đã nghiên cứu, khung lý thuyết đưa ra và thực tiễn báo chí về thông  tin về  giáo dục và đào tạo trên báo in  ở  Việt Nam hiện nay, NCS dựa vào đó để  tiến hành   khảo sát, phân tích, đánh giá  về  thực trạng thông tin về  giáo dục và đào tạo của báo in để  thực hiện nội dung tiếp theo của luận án. NCS cũng đã kế thừa những ý tưởng của những nhà   nghiên cứu đi trước và coi đó là tiền đề  lý luận và thực tiễn để  triển khai đề  tài nghiên cứu   của mình.  Chương 2: THỰC TRẠNG THÔNG TIN VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO  TRÊN BÁO IN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY   Chương 2 của luận án giới thiệu sơ  lược về  4 tờ  báo  mà luận án giới hạn khảo sát:  Báo Nhân dân, Báo GD&TĐ, Báo Thanh niên, Báo “Tuổi trẻ” TP Hồ Chí Minh. Theo đó, luận   án trình bày rõ về tần suất và mức độ thông tin về giáo dục và đào tạo trên các báo khảo sát.   Trên cơ sở sử dụng kết quả phương pháp phân tích nội dung văn bản, luận án đã phân  tích nội dung về GDĐT trên các báo khảo sát theo các tiêu chí:  thông tin về đổi mới giáo dục  
  19. 19 tuyên truyền, phổ biến các chủ trương chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước  ... những  ý tưởng và quyết định trong công tác đổi mới của Bộ  Giáo dục và Đào tạo;  thông tin phản  biện chính sách về  giáo dục và đào;  thông tin về  GDĐT đã đưa ra các mô hình giáo dục,   phương pháp giảng dạy hiệu quả, giúp nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường;  thông tin về GDĐT  chia sẻ những tấm gương, những câu chuyện tích cực; thông tin phê phán   các hiện tượng tiêu cực trong GDDT, và thông tin về đổi mới giáo dục. Các phân tích về nội   dung trên cơ sở các luận điểm khoa học được minh chứng bằng các nội dung tác phẩm báo chí  đã được đăng tải và kết quả điều tra xã hội học từ công chúng do tác giả thực hiện. Trên cơ sở các phân tích về nội dung và hình thức, luận án đã đánh giá  về những thành   công và hạn chế trong thông tin về GDĐT trên báo in nước ta. Thành công ở chỗ tờ báo đã kịp  thời cung cấp các thông tin cần thiết cho bạn đọc, thu hút được lượng độc giả  lớn quan tâm  tới nội dung này. Tuy nhiên, mặt hạn chế  thể  hiện  ở  chỗ  nhiều nội dung còn sơ  sài, đề  tài   chưa hấp dẫn,  ảnh kém chất lượng. Luận án cũng nêu lên các nguyên nhân  ảnh hưởng đên  thông tin về  GDĐT trên báo in qua 2 khía cạnh là nguyên nhân chủ  quan và khách quan. Cụ  thể:  Đánh giá thông tin về giáo dục đào tạo trên các báo khảo sát   Những kết quả đạt được ­ Về nội dung: Tác động đến chính sách giáo dục; Tác động các hoạt động dạy và học   trong các nhà trường; Tác động đến đổi mới quản lý giáo dục, đổi mới cơ chế tài chính trong  giáo dục;  Tác động đổi mới thi và tuyển sinh Đại học ­ Cao đẳng; Tác động các cuộc vận  động và phong trào thi đua trong ngành Giáo dục ­ Về  hình thức, các báo khảo sát  cũng cải tiến cách viết bài cho phóng viên cũng như  cách biên tập bài báo sao cho ngắn gọn và đủ ý, nhiều thông tin bổ ích. Cho nên các tác phẩm   báo chí trên báo  về GDĐT đã đi vào phản ánh vấn đề trọng tâm hơn, bỏ qua những nội dung   phụ, tập trung phản ánh những chi tiết đắt trong bài. Các bài viết đa phần cũng không đặt  nặng về  số  từ  để  tránh gây cảm giác quá vất vả  cho người đọc. Các tin thường dao động  trong phạm vi 200­ 300 chữ. Các bài phản ánh, phân tích, bài phỏng vấn chuyên gia thường   trong không quá 900 ­ 1200 chữ. Độ  dài này rất phù hợp với đặc điểm của báo giấy và thói   quen tiếp nhận thông tin của công chúng hiện nay. Các bài viết được trình bày dễ nhìn. Đầu đề được in đậm, phóng to, sapo được in đậm,   các đoạn được ngắt quãng hợp lý, không dài quá khiến người đọc mệt mỏi và có thời gian   nghỉ  cần thiết, đồng thời các nội dung khác nhau cũng được chia tách rõ ràng. Ngoài ra, hình   ảnh minh họa sử dụng phù hợp, chú thích ảnh được in nghiêng, dễ nhìn. Đặc biệt, báo đã tận  dụng tối đa tính tương tác của báo chí hiện đại. Các bài đều có địa chỉ của hòm thư điện tử để  nhận và trả lời phản hồi của độc giả.   
  20. 20 Những hạn chế Hạn chế về nội dung: ­ Nội dung về  thông tin giáo dục và đào tạo phần lớn là phản biện, góp ý (đây là một   chức năng của báo chí hết sức quan trọng và ý nghĩa đối với sự  phát triển của giáo dục)   những nội dung này chiếm quá lớn làm cho độc giả  có cảm giác đọc về  giáo dục chỉ  có mà  xám. Trong khi đó, báo chí thực hiện các chức năng thông tin về  giáo dục và đào tạo còn là   thông tin góp phần phổ biến, nâng cao kiến thức, động viên, cổ vũ thầy và trò dạy tốt, học tốt. ­ Việc phản ánh, phân tích góp ý chuyên sâu lĩnh vực giáo dục đào tạo đôi khi còn có   những bài chưa phân tích ở nhiều góc độ khách quan về chủ trương, chính sách, pháp luật và   thực tế dẫn đến người đọc khó hiểu hoặc dẫn đến hoang mang cho học sinh, sinh viên.  ­ Nhiều đề tài chưa hay, chưa hấp dẫn, đề tài nhỏ lẻ, vụn vặt.  Các chủ đề, đề tài phân  phối không đồng đều.  ­ Phản ánh các cuộc vận động và phong trào trong ngành giáo dục chưa đầy đủ  và quá  chú trọng vào việc tìm kiếm những việc làm tiêu cực hay những vụ việc nhỏ lẻ. ­ Nhiều bài viết còn khá hời hợt, viết nội dung mang tính chủ quan, dựa trên quan điểm  riêng của tác giả  khiến bài viết thiếu sức thuyết phục. Nhiều bài viết đặt ra vấn đề  nhưng   không giải quyết triệt để, kết bài vội vàng gây hụt hẫng cho độc giả.  ­ Ngôn ngữ sử dụng trong cách rút “tít” chưa mang tính giáo dục, dễ làm cho người đọc  hiểu theo nhiều nghĩa.   ­ Hạn chế về tính thời sự và tính phản biện của báo ngành.  Hạn chế về hình thức: ­ Tính hấp dẫn trong trình bày của mỗi tờ báo còn hạn chế. ­ Bố trí sắp xếp thông tin chưa hợp lý.  ­ Hình thức, phương thức thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in hiện nay còn khá   khô cứng, dập khuôn, ít cải tiến.  ­ Các đề tài, chủ đề, vấn đề phản biện các báo in chưa thông tin chuyên sâu, đa chiều.   ­ Thông tin về  GDĐT vẫn còn rất nhiều những “hạt sạn” trong việc sử dụng  ảnh như  ảnh kém chất lượng, ảnh chụp chưa đẹp.  Nguyên nhân ảnh hưởng đến thông tin về giáo dục đào tạo trên báo in Nguyên nhân thành công  ­ Chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về GDĐT     ­ Báo chí có vai trò, sứ mệnh  quan trọng trong hoạt thông tin về giáo dục và đào tạo. ­ Báo chí được sự quan tâm, chỉ đạo đặc biệt của các ngành, các cấp đặc biệt là Bộ Giáo  dục và Đào tạo trong quá trình khai thác và chuyển tải thông tin. Bộ    tạo cơ  chế  cung cấp   thông tin kịp thời cho các báo như  gửi các thông tư, chỉ  thị… về  những quy định mới trong  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
19=>1